Wikisource
viwikisource
https://vi.wikisource.org/wiki/Trang_Ch%C3%ADnh
MediaWiki 1.39.0-wmf.25
first-letter
Phương tiện
Đặc biệt
Thảo luận
Thành viên
Thảo luận Thành viên
Wikisource
Thảo luận Wikisource
Tập tin
Thảo luận Tập tin
MediaWiki
Thảo luận MediaWiki
Bản mẫu
Thảo luận Bản mẫu
Trợ giúp
Thảo luận Trợ giúp
Thể loại
Thảo luận Thể loại
Chủ đề
Thảo luận Chủ đề
Tác gia
Thảo luận Tác gia
Trang
Thảo luận Trang
Mục lục
Thảo luận Mục lục
Biên dịch
Thảo luận Biên dịch
TimedText
TimedText talk
Mô đun
Thảo luận Mô đun
Tiện ích
Thảo luận Tiện ích
Định nghĩa tiện ích
Thảo luận Định nghĩa tiện ích
Đề tài
Tam quốc diễn nghĩa/Hồi 1
0
3981
141415
141393
2022-08-19T15:44:50Z
Vinhtantran
484
ẩn bản đồ vì làm xô lệch trình bày trang
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 1
| trước =
| sau = [[../Hồi 2|Hồi 2]]
| ghi chú =
}}
[[Tập tin:Long Corridor-三英图.jpg|phải|nhỏ|800px|Từ trái sang phải: Trương Phi, Lưu Bị, Quan Vũ. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Location map+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Những địa danh được đề cập trong Hồi thứ nhất
|places=
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=left|label=1}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=41|lat_min=30.51|lon_deg=108|lon_min=37|background=white|position=left|label=2}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=3|lat_sec=58|lon_deg=115|lon_min=1|lon_sec=8|background=white|position=left|label=3}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=40|lat_min=2|lat_sec=11.25|lon_deg=117|lon_min=23|lon_sec=49.39|background=white|position=left|label=4}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=55|lat_sec=6.24|lon_deg=113|lon_min=53|lon_sec=54.37|background=white|position=left|label=5}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=39|lat_min=29|lon_deg=115|lon_min=58|background=white|position=left|label=6}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=01|lon_deg=110|lon_min=59|background=white|position=left|label=7}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=51|lat_sec=22.63|lon_deg=115|lon_min=28|lon_sec=41.99|background=white|position=left|label=8}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=41|lat_sec=48|lon_deg=118|lon_min=28|lon_sec=47|background=white|position=left|label=9}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=4|lat_sec=22.53|lon_deg=115|lon_min=8|lon_sec=57.69|background=white|position=right|label=10}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=9|lat_sec=48.12|lon_deg=113|lon_min=27|lon_sec=39.06|background=white|position=top|label=11}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=12|lat_sec=49.21|lon_deg=113|lon_min=45|lon_sec=46.55|background=white|position=right|label=12}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=52|lat_sec=26.40|lon_deg=115|lon_min=45|lon_sec=56.88|background=white|position=top|label=13}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=45.53|lon_deg=112|lon_min=31|lon_sec=36.48|background=white|position=left|label=14}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=52.47|lon_deg=114|lon_min=20|lon_sec=32.28|background=white|position=right|label=15}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=53|lat_sec=24.71|lon_deg=115|lon_min=5|lon_sec=20.39|background=white|position=left|label=16}}
}}
</div></div>
{| style="margin-left: auto; margin-right: auto; border: none;"
|
: 1. [[w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]]
: 2. [[w:Ngũ Nguyên|Ngũ Nguyên]]
: 3. [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]]
: 4. U-châu
: 5. [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]]
: 6. [[:w:Trác Châu|Trác-quận]]
|
: 7. Giải-lương
: 8. [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]]
: 9. [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]]
: 10. [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]
: 11. [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]
|
: 12. [[:w:Trường Cát|Trường-xã]]
: 13. [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]]
: 14. [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]]
: 15. [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]]
: 16. [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ NHẤT
<poem>
'''Yến vườn đào, anh hùng kết nghĩa'''
'''Chém khăn vàng, hào kiệt lập công'''</poem>
}}
Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan: như hết đời nhà Chu, bảy nước tranh giành xâu xé nhau rồi sau lại hợp về [[:w:Nhà Tần|nhà Tần]]. Đến khi nhà Tần mất, thì [[:w:Chiến tranh Hán-Sở|Hán, Sở tranh hùng]] rồi sau thiên hạ lại hợp về tay [[:w:Nhà Hán|nhà Hán]].
Nhà Hán, từ lúc [[:w:Hán Cao Tổ|vua Cao tổ (Bái Công)]] chém rắn trắng khởi nghĩa, thống nhất được thiên hạ, sau [[:w:Hán Quang Vũ Đế|vua Quang Vũ]] lên ngôi, rồi truyền mãi đến [[:w:Hán Hiến Đế|vua Hiến-đế]]; lúc bấy giờ lại chia ra thành ba nước. (Do đó có truyện Tam Quốc).
Truy nguyên xem cuộc biến loạn ấy ở đâu mà ra, thì gốc loạn trước hết từ hai vua [[:w:Hán Hoàn Đế|Hoàn-đế]] và [[:w:Hán Linh Đế|Linh-đế]]. Vua Hoàn-đế tin dùng lũ hoạn quan, cấm cố những người hiền sĩ. Đến lúc vua Hoàn-đế mất, vua Linh-đế lên ngôi nối nghiệp, được quan đại tướng quân [[:w:Đậu Vũ|Đậu Vũ]], quan thái phó [[:w:Trần Phồn|Trần Phồn]] là những người tài giỏi giúp đỡ. Khi ấy, trong triều có bọn hoạn quan là lũ [[:w:Tào Tiết (hoạn quan)|Tào Tiết]] lộng quyền, Đậu Vũ, Trần Phồn lập mưu định trừ bọn ấy đi, nhưng vì cơ mưu tiết lộ nên lại bị chúng nó giết mất. Từ đấy, bọn hoạn quan ngày càng ngạo ngược.
Ngày rằm tháng tư năm Kiến Ninh thứ hai (167 sau Thiên chúa) vua ngự điện Ôn Đức. Tự nhiên có cơn gió to ầm ầm từ góc điện nổi lên, rồi thấy một con rắn xanh lớn ở trên xà nhà quăng xuống quằn quại trên long án. Vua kinh hoảng ngã đùng ra, các quan tả hữu vội cứu vực vào cung; ở ngoài văn võ cũng sợ chạy cả. Được một lát con rắn biến mất và bỗng nhiên mưa to, sấm sét ầm ầm; lại thêm mưa đá rào rào mãi đến nửa đêm mới tạnh, đổ nhà đổ cửa không biết bao nhiêu mà kể.
Tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư (169) tỉnh [[:w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]] có động đất, nước bể dâng lên ngập lưng trời, những dân cư ở ven bể bị sóng lớn cuốn trôi đi mất cả.
Năm Quang Hòa thứ nhất (178), một con gà mái tự dưng hóa ra gà sống. Mồng 1 tháng 6 năm ấy, một luồng khí đen dài chừng hơn mười trượng bay vào trong điện Ôn Đức. Qua sang tháng bảy lại có lắm điều gở lạ; cầu vồng mọc ở giữa Ngọc đường; rặng núi [[:w:Ngũ Nguyên|Ngũ nguyên]] bỗng dưng lở sụt xuống.
Vua hạ chiếu hỏi quần thần xem tự đâu mà sinh ra những điềm gở lạ ấy. Có quan nghị lang là Sái Ung dâng sớ lên, lời lẽ thống thiết, nói rằng: cầu vồng sa xuống, gà mái hóa sống, ấy là bởi quyền chính trong nước ở tay đàn bà và ở tay kẻ hoạn... Vua xem sớ ngậm ngùi thở dài, đứng dậy thay áo. Tào Tiết khi ấy đứng hầu sau ngai nghe trộm thấy, trong lòng căm giận, bèn mách bảo đồng bọn, bàn mưu kiếm cớ vu hãm Sái Ung, cách quan đuổi về quê quán.
Về sau bọn hoạn quan là [[:w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]], [[:w:Triệu Trung|Triệu Trung]], Phong Tư, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoán, Hạ Huy, Quách Thắng, cả thảy mười người gọi là mười quan “Thường Thị”, bè đảng với nhau kéo cánh làm càn. Nhà vua tin dùng tôn trọng Trương Nhượng, gọi là “á phụ” (nghĩa là vua coi hắn như cha).
Từ đấy chính sự trong triều ngày càng đổ nát, lòng người náo loạn, giặc cướp nổi lên như ong.
Khi ấy ở đất [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]], có một nhà ba anh em: anh cả là [[:w:Trương Giác|Trương Giốc]], em hai là [[:w:Trương Bảo (Khăn Vàng)|Trương Bảo]], em út là [[:w:Trương Lương (Khăn Vàng)|Trương Lương]].
Trương Giốc vốn là học trò đi thi hỏng, nhân thế bực mình vào núi hái thuốc. Đi đường gặp một cụ già mặt tròn mắt biếc, tay chống gậy lê, gọi Trương Giốc vào trong một cái động, trao cho ba quyển sách và bảo rằng: “Thuật mầu nhiệm làm cho thiên hạ thái bình đều ở trong sách này. Ngươi nên thay trời dạy người, để cứu lấy đời. Nếu sau này manh tâm tà gian ắt bị ác báo”. Trương Giốc sụp xuống lạy, hỏi họ tên thì cụ già nói: “Ta là Nam Hoa lão tiên”, nói đoạn, hóa một trận gió biến mất.
Trương Giốc được ba quyển sách ấy đem về ngày đêm học tập, không bao lâu biết đủ các phép gió gọi mưa, tự xưng là ''Thái-bình đạo nhân''.
Đến tháng giêng, năm Trung Bình thứ nhất (184), có bệnh ôn dịch. Trương Giốc làm ra nước phép chữa bệnh, cứu được nhiều người, tự xưng là ''Đại hiền lương sư''. Giốc có đồ đệ năm trăm người, đi dạo các nơi, ai cũng biết phép thư phù niệm chú. Về sau đồ đệ càng ngày càng đông, Giốc bèn chia học trò ra ba mươi sáu phương, phương lớn hơn một vạn người, phương nhỏ sáu bảy nghìn người, phương nào cũng đặt một người làm thủ lĩnh xưng là đại tướng quân. Nói phao lên rằng: ''“Trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng”''. Lại nói: ''“Đến năm giáp tí, thiên hạ thái bình”''. Sai người lấy đất thó trắng viết hai chữ ''“Giáp tý”'' ở ngay giữa cửa. Nhân dân tám châu Thanh, U, Từ, Kế, Kinh, Dương, Duyện, Dự, nhà nào cũng thờ mấy chữ hiệu: ''“Đại hiền lương sư Trương Giốc”''.
Trương Giốc lại sai đồng đảng là [[:w:Mã Nguyên Nghĩa|Mã nguyên Nghĩa]] mật đem vàng lụa vào kinh kết giao với tên hoạn quan Phong Tư, để làm nội ứng, rồi bàn với hai em rằng: “Không gì khó bằng thu phục được lòng dân, nay lòng dân đã quy thuận về ta, nếu không thừa thế chiếm lấy thiên hạ thì thật là đáng tiếc lắm”.
Bèn một mặt sai may cờ vàng, hẹn ngày khởi sự, một mặt sai đồ đệ là Đường Châu đem thư báo cho Phong Tư biết. Nhưng Đường Châu lại đi thẳng đến cửa cung tố cáo.
[[Tập tin:He Jin Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Hà Tiến]]
Được tin, vua liền triệu quan đại tướng quân là [[:w:Hà Tiến|Hà Tiến]] điều binh bắt chém Mã nguyên Nghĩa và bắt cả bọn Phong Tư bỏ ngục. Trương Giốc thấy việc đã tiết lộ, vội vàng cử binh khởi sự, tự xưng là ''Thiên công tướng quân'', Trương Bảo xưng ''Địa công tướng quân'', Trương Lương xưng ''Nhân công tướng quân''; nói với mọi người rằng: “Nay vận nhà Hán sắp hết. Đại thánh nhân ra đời. Các ngươi nên thuận mệnh trời, theo về ta để cùng vui hưởng thái bình!”
Nhân dân bốn phương đội khăn vàng, đi theo Trương Giốc có tới bốn năm mươi vạn người. Thế giặc dữ dội, quan quân thua chạy như cỏ lướt theo ngọn gió. Hà Tiến một mặt tâu vua, xin hoả tốc xuống chiếu cho các nơi phòng giữ; một mặt sai ba quan trung-lang-tướng là [[:w:Lư Thực|Lư Thực]], [[:w:Hoàng Phủ Tung|Hoàng phủ Tung]], [[:w:Chu Tuấn|Chu Tuấn]] đem quân tinh nhuệ chia ra làm ba ngả dẹp giặc.
Trong khi ấy, quân Trương Giốc có một toán phạm vào bờ cõi U-châu. Quan Thái thú châu ấy là [[:w:Lưu Yên|Lưu Yên]], người làng [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]] đất Giang-hạ, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Dư|Lỗ Cung Vương nhà Hán]], nghe tin quân giặc sắp đến, liền triệu quan hiệu úy Châu Tĩnh đến bàn bạc. Tĩnh nói:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, ông nên tức khắc chiêu mộ thêm quân thì mới kịp ứng phó.
Lưu Yên cho là phải, bèn sai treo bảng mộ quân.
Khi bảng treo đến [[:w:Trác Châu|Trác-quận]] thì có ngay một vị anh hùng ra ứng mộ. Vị anh hùng ấy không thích đọc sách mấy, tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, vốn có chí lớn, chỉ thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Kể dáng người thì mình cao tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Thắng (Trung Sơn vương)|Trung-sơn Tĩnh-vương Lưu Thắng]], cháu năm đời vua [[:w:Hán Cảnh Đế|Cảnh-đế nhà Hán]], [[:w:Lưu Bị|họ Lưu, tên Bị]], tự là Huyền Đức.
Ngày trước con Lưu Thắng là Lưu Trinh, về đời vua [[:w:Hán Vũ Đế|Hán Vũ]], được phong làm Trác-lộc Đình-hầu, sau vì tội góp thiếu tiền cúng tế bị mất chức, vì vậy còn sót một ngành ở Trác-quận.
Ông của Huyền Đức là Lưu Hùng, cha là Lưu Hoằng. Hoằng thi đỗ hiếu-liêm, đã từng làm quan, nhưng mất sớm. Huyền Đức bồ côi cha, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn.
Nhà ở thôn Lâu-tang. Mé đông-nam nhà Huyền Đức có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, xa trông từng lớp trên xoè ra như cái tán che cỗ xe. Có người thầy tướng đi qua trông thấy khen rằng: “Nhà có cây dâu này tất sinh quý tử”. Lúc Huyền Đức còn thơ ấu, cùng trẻ con chơi dưới gốc dâu, thường vẫn nói rằng: “Ngày sau ta làm vua, cũng ngự cái xe có tàn che như cây dâu này”. Người chú là Lưu nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ bảo rằng: “Thằng bé này không phải người thường”. Nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo, thường tư cấp cho.
Huyền Đức, năm 15 tuổi, mẹ cho đi học, thờ Trịnh Huyền và Lưu Thực làm thầy và cùng với [[:w:Công Tôn Toản|Công tôn Toản]] kết bạn học. Lúc Lưu Yên treo bảng mộ quân, thì Huyền Đức 28 tuổi.
Bấy giờ Huyền Đức đọc bảng văn rồi thở dài. Bỗng thấy một người đứng phía sau nói lớn lên rằng: “Đại trượng phu như ông, không ra giúp nước, đứng thở dài đó, được việc chi?”.
Huyền Đức ngoảnh lại nhìn: người ấy mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng vang như sấm. Huyền Đức thấy dung mạo khác thường, liền hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Trương Phi|họ Trương tên Phi]], tự là Dực Đức, ở Trác-quận đã lâu đời. Gia tư có ít ruộng, vườn, trại và mở ngôi hàng bán rượu, thịt chó. Tôi chỉ thích kết giao với hào kiệt trong thiên hạ. Vừa rồi thấy ông xem bảng văn rồi thở dài, nên tôi mới hỏi.
Huyền Đức nói:
- Tôi đây vốn dòng dõi nhà Hán, họ Lưu tên Bị; nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, có chí ra dẹp giặc yên dân, chỉ hiềm sức mình không nổi, nên mới thở dài.
Phi nói:
- Nhà tôi gia tư cũng khá. Ý tôi muốn chiêu mộ hương dũng, cùng ông mưu đồ việc lớn, ông tính sao?
Huyền Đức mừng lắm. Hai người bèn rủ nhau vào hàng uống rượu.
Đương đánh chén, bỗng thấy một người cao lớn lực lưỡng, đẩy một cỗ xe đến cửa, vào hàng ngồi phịch xuống, gọi nhà hàng:
- Rượu mau lên! Để ta uống xong còn vào thành ứng mộ!
Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt như hai quả táo chồng lên nhau, môi như tô son, mắt phượng mày tằm oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Quan Vũ|họ Quan tên Vũ]], tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân Trường, người làng Giải-lương, tỉnh Hà-đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế hiếp người tôi bèn giết chết rồi đi trốn tránh, đã năm, sáu năm nay rồi. Nay nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc, nên tôi đến ứng mộ.
Huyền Đức cũng đem chí mình ra nói, Vân Trường rất mừng. Bèn cùng đến trại của Trương Phi bàn tính việc lớn. Phi nói:
- Sau trại tôi có một vườn đào đang nở hoa đẹp lắm; ngày mai nên làm lễ tế trời đất ở trong vườn, ba chúng ta kết làm anh em, cùng lòng hợp sức, sau mới có thể tính được việc lớn.
Huyền Đức, Vân Trường đều nói:
- Như thế tốt lắm.
[[Tập tin:Peach garden ceremony.jpg|nhỏ|phải|Kết nghĩa vườn đào. Tranh đời Minh (1591).]]
Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người đốt hương lạy hai lạy thề rằng:
- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh em, thì phải cùng lòng hợp sức, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định nạn dân. Chúng tôi không cần sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu thể, soi xét lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết.
Thề xong, tôn Huyền Đức làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út. Mổ trâu đặt tiệc, tụ họp dũng sĩ trong làng được ba trăm người, cũng đến vườn đào uống một bữa thật say. Hôm sau sửa soạn khí giới, đương lo còn thiếu ngựa cưỡi, thì thấy báo có hai người lái buôn dắt một đàn ngựa đến trại.
Huyền Đức nói:
- Thực là trời giúp chúng ta.
Nói đoạn ba người cùng ra cửa trại đón.
Nguyên hai người khách ấy đều là lái buôn lớn ở huyện [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]], một người tên Trương thế Bình, một người tên Tô Song, hàng năm vẫn đem ngựa lên bán miền bắc, chỉ vì lúc ấy dọc đường nhiều giặc cướp, nên quay trở về. Huyền Đức mời hai người vào trại, làm rượu khoản đãi, và nói rõ ý mình đang muốn dẹp giặc yên dân. Hai người cả mừng, tình nguyện tặng năm mươi con ngựa tốt, năm trăm lạng vàng bạc và một nghìn cân sắt để làm khí giới.
[[Tập tin:Guan yu -Summer Palace, Beijing.JPG|phải|nhỏ|Vân Trường cầm thanh long đao. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Huyền Đức cảm tạ hai người khách và tiễn lên đường, rồi sai gọi thợ sắt đến đánh hai thanh kiếm. Vân Trường đánh một thanh long đao nặng tám mươi hai cân, Trương Phi đánh một ngọn xà mâu dài một trượng tám thước. Mỗi người làm một bộ áo giáp, họp hương dũng được hơn năm trăm người, đem nhau đến gặp Châu Tĩnh. Châu Tĩnh đưa đi yết kiến quan thái thú Lưu Yên. Ba người thi lễ xong, đều xưng họ tên. Huyền Đức kể rõ tôn phái, Lưu Yên cả mừng nhận Huyền Đức là cháu.
Vài hôm sau, có tin báo tướng giặc khăn vàng là Trình viễn Chí đem năm vạn quân đến đánh Trác-quận. Lưu Yên sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân đi trước phá giặc. Ba anh em Huyền Đức vui mừng hớn hở đi ngay. Lúc đến dưới núi Đại-hưng, thấy quân giặc đều xoã tóc chít khăn vàng. Hai bên đối trận, Huyền Đức nhảy ngựa vụt ra, tả có Vân Trường, hữu có Dực Đức, giơ roi mắng lớn:
- Quân giặc phản nước kia! Sao không xuống ngựa hàng ngay đi.
[[Tập tin:Three Brothers during the Yellow Turban Rebellion.jpg|nhỏ|phải|Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu.]]
Trình viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu ra đánh. Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu. Đặng Mậu ngã lăn xuống ngựa chết.
Trình viễn Chí thấy vậy, thúc ngựa múa đao xông thẳng vào định chém Trương Phi. Tức thì Vân Trường múa long đao tế ngựa ra đón địch. Trình viễn Chí trông thấy hoảng sợ, chưa kịp trở tay đã bị đao Vân Trường xả làm hai đoạn.
Đời sau có thơ khen rằng:
<poem>
''Anh hùng xuất hiện buổi sơ đầu''
''Người thử siêu đao kẻ thử mâu.''
''Mới bước chân ra uy đã dữ''
''Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau.''
</poem>
Quân giặc thấy Trình viễn Chí bị chém, đều vác ngược giáo ù té chạy. Huyền Đức thúc quân đuổi theo, giặc hàng không biết bao nhiêu mà kể. Ba người đại thắng kéo quân trở về, Lưu Yên thân ra đón tiếp, khao thưởng ba quân.
Hôm sau, Lưu Yên tiếp được tờ điệp của quan thái thú [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]] tên là Cung Cảnh, báo tin bị giặc khăn vàng bao vây, thành sắp vỡ, kíp xin cho quân đến cứu. Lưu Yên bàn với Huyền Đức. Huyền Đức nói:
- Bị này tình nguyện đem quân đi cứu.
Lưu Yên bèn sai Châu Tĩnh đem năm nghìn quân cùng Huyền Đức, Quan, Trương kéo đến Thanh-châu.
Giặc thấy có quân đến cứu, chia quân đón đánh. Huyền Đức thấy quân mình ít, khó đánh được, lui ba mươi dặm đóng trại. Huyền Đức bảo Quan, Trương rằng:
- Giặc nhiều, ta ít, tất phải dùng kỳ binh mới có thể thắng được.
Bèn sai Vân Trường dẫn một nghìn quân phục bên tả núi, Trương Phi dẫn một nghìn quân phục bên hữu núi, hẹn rằng nghe tiếng chiêng thì cùng kéo ra tiếp ứng.
Ngày hôm sau Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân đánh trống hò reo thẳng tiến. Quân giặc vội vã kéo ra đón đánh, Huyền Đức lui binh ngay. Giặc thừa thế đuổi tràn. Vừa qua sườn núi, trong quân Huyền Đức khua chiêng vang lên. Hai đạo quân tả hữu xô ra. Huyền Đức thúc quân quay lại, ba mặt giáp đánh, quân giặc thua to, chạy đến dưới thành Thanh-châu, quan thái thú Cung Cảnh cũng đem dân binh ra trợ chiến, quân giặc bị chết rất nhiều, giải được vòng vây.
Đời sau có thơ khen Huyền Đức rằng:
<poem>
''Bày mưu đặt mẹo khéo ra công,''
''Đôi hổ chung quy kém một rồng.''
''Buổi mới đã nên công trạng lớn,''
''Chia ba chân vạc đáng anh hùng.''
</poem>
Cung Cảnh khao quân xong, Châu Tĩnh muốn về. Huyền Đức nói:
- Mới rồi nghe tin quan trung-lang-tướng Lư Thực cùng Trương Giốc đánh nhau ở [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]. Bị này trước kia có học Lư tướng quân, nghĩa đạo thầy trò, muốn sang giúp sức.
Châu Tĩnh dẫn quân về một mình, còn Huyền Đức cùng Quan, Trương dẫn năm trăm quân bản bộ sang Quảng-tôn.
Khi ba người đến dinh quân Lư Thực, vào trướng thi lễ, bày tỏ ý kiến mình, thì Lư Thực mừng lắm, lưu ở trướng tiền đợi khi dùng đến.
Bấy giờ quân Trương Giốc mười lăm vạn, quân Lư Thực năm vạn, đang chống nhau ở Quảng-tôn, chưa rõ bên nào thua được.
Một hôm Lư Thực bảo Huyền Đức rằng:
- Trương Giốc đã bị ta vây ở đây rồi. Duy hai em nó là Trương Bảo, Trương Lương đang chống nhau với Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn ở [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]. Ông nên đem quân ngay bản bộ và một nghìn quân ta giúp thêm, đến thẳng Dĩnh-xuyên dò xem tin tức ra sao, rồi cùng nhau hẹn ngày tiến đánh.
Huyền Đức lĩnh mệnh, đem quân đi cả ngày đêm đến Dĩnh Xuyên.
Lúc ấy Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đem quân đánh giặc, giặc bị thua luôn, phải lui về [[:w:Trường Cát|Trường-xã]], dựa theo bụi rậm đóng trại. Tung bàn với Tuấn rằng:
- Quân giặc dựa vào chỗ có cỏ rậm đóng quân thì ta nên dùng mẹo hoả công.
Bèn sai quân sĩ mỗi người bó một bó cỏ, ngầm đi mai phục. Đêm ấy trời nổi cơn gió lớn, vào khoảng canh hai, quân phục kéo vào phóng hoả, Tung và Tuấn đều dẫn quân đến đánh, khói lửa ngụt trời, quân giặc hoảng sợ, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp thắng yên, xô nhau mà chạy. Đôi bên đánh nhau đến sáng, Trương Lương, Trương Bảo phải dẫn tàn quân cướp đường mà chạy. Bỗng thấy một toán quân mã kéo toàn cờ đỏ xông ra chặn đường. Một tướng đi đầu, mình cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài.
[[Tập tin:Cao_Cao_Portrait_ROTK.jpg|nhỏ|phải|Tào Tháo. Tranh minh họa đời [[:w:Nhà Thanh|Thanh]].]]
Viên tướng ấy là ai? Tức là quan kỵ-đô-uý, người ở [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]] nước Bái, [[:w:Tào Tháo|họ Tào tên Tháo]] tự là Mạnh Đức.
Cha Tào Tháo là [[:w:Tào Tung|Tào Tung]], vốn xưa họ Hạ hầu, nhận làm con nuôi quan trung-thường-thị [[:w:Tào Đằng|Tào Đằng]], nên đổi theo họ Tào. Tháo tiểu tự là A Man, và đặt một tên nữa là Cát Lợi. Lúc Tháo còn trẻ, thì chỉ thích chơi săn, ham múa hát, nổi tiếng là một tay cơ biến quyền mưu. Người chú Tháo thấy Tháo chơi bời hoang phiếm, giận lắm, đem nói với Tào Tung. Tung trách mắng Tháo. Tháo nghĩ ngay một kế, lúc thấy chú đến, giả tảng nằm quay ra đất, làm như trúng phong. Chú Tháo thấy vậy cả sợ, chạy đến bảo Tung, Tung vội lại xem, thấy Tháo không có bệnh chi cả, bèn hỏi:
- Chú mày nói mày trúng phong, đã khỏi rồi à?
- Thưa cha, thuở bé đến giờ con có bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú con ghét con cho nên đặt điều ra thế.
Tung tưởng thật. Từ đấy người chú kể tội Tháo, Tung đều không nghe nữa, nhân thế Tháo càng được tự do phóng đãng hơn xưa.
Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì không sao yên được loạn. Làm được như thế có lẽ chỉ có bác.
Người đất [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]] là Hà Ngung một hôm trông thấy Tháo cũng tán tụng rằng:
- Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chắc chỉ có người này!
Người đất [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]] là Hứa Thiệu có tiếng là giỏi biết người, Tháo thân đến hỏi:
- Như tôi là người thế nào?
Thiệu không giả lời.
Tháo hỏi lại lần nữa.
Thiệu nói:
- Anh là năng thần<ref>Ông quan giỏi.</ref> của đời trị và gian hùng của đời loạn.
Tháo nghe nói cả mừng.
Năm Tháo hai mươi tuổi thi đỗ hiếu-liêm, bổ làm quan lang, sau lại thăng chức đô-uý huyện Lạc-dương. Lúc mới đến nhậm chức, Tháo sai treo hơn mười cái roi ngũ sắc ở bốn cửa huyện, không kể hào quý hễ ai phạm phép đều không tha. Chú quan trung-thường-thị Kiển Thạc vác dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt được cũng đem nọc đánh ngay. Bởi thế trong ngoài kinh sợ, không ai dám làm trái phép. Sau Tháo thăng chức lệnh-doãn [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]. Nhân giặc khăn vàng nổi loạn, lại được thăng làm quan kỵ-đô-uý, đem năm nghìn quân mã bộ đến Dĩnh-xuyên giúp đánh, tình cờ dọc đường, gặp Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tháo đón đánh một trận kịch liệt chém giết hơn một vạn người, cướp được cờ, trống, ngựa, khí giới rất nhiều. Lương, Bảo cố chết mới chạy thoát. Tháo vào hội kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn rồi lại dẫn quân đi đuổi Trương Lương, Trương Bảo ngay.
Nhắc lại Huyền Đức dẫn Quan, Trương đi gần đến Dĩnh-xuyên, nghe tiếng reo hò đánh nhau, lại trông thấy lửa sáng rực trời, vội thúc quân kéo đến, tới nơi giặc đã chạy tan hết rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn, đem ý kiến Lư Thực ra bày tỏ, Tung nói:
- Nay Trương Lương, Trương Bảo thế cùng lực kiệt, tất chạy đến Quảng-tôn nương nhờ Trương Giốc. Ông nên đi gấp đường về giúp ngay Lư Thực.
Huyền Đức nghe lời, dẫn quân trở lại.
Khi mới đi được nửa đường, gặp một toán người ngựa, áp giải một tù xa<ref>Xe chở người tù.</ref>, trên xe có một cái cũi nhốt một người tù té ra chính là Lư Thực. Huyền Đức giật mình kinh hãi, vội chạy xuống ngựa đến hỏi thăm. Thực nói:
- Ta vây đánh Trương Giốc, sắp sửa phá tan, chỉ vì Giốc dùng yêu thuật, nên còn nhùng nhằng chưa phá hẳn được. Triều đình sai viên hoàng môn tên là Tả Phong đến dò xét quân lính. Phong đòi ăn của đút không được, vì lương quân còn thiếu, tiền đâu mà cung đốn họ, bởi thế Tả Phong căm giận, về triều tâu man cho ta lười biếng không chịu đánh giặc, làm cho lòng quân chán nản. Triều đình nổi giận, sai quan trung-lang-tướng [[:w:Đổng Trác|Đổng Trác]] đến cầm quân thay ta, và bắt ta về kinh hỏi tội.
Trương Phi nghe nói, nổi giận đùng đùng, toan giết hết toán quân áp giải để cứu Lư Thực. Huyền Đức vội ngăn lại bảo rằng:
- Không nên, triều đình đã có công luận, chú không được xử sự một cách nóng nảy như thế.
Quân sĩ lại giải Lư Thực đi.
Quan Công nói:
- Nay Lư trung-lang đã bị bắt, người khác thay quyền, chúng ta đến đấy cũng vô ích, chi bằng hãy về Trác-quận.
Huyền Đức lấy làm phải, bèn dẫn quân về phía bắc.
Đi được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng đánh nhau hò hét. Huyền Đức cùng Quan, Trương cưỡi ngựa lên đồi cao trông xem, thấy quân Hán bị thua đương chạy, giặc khăn vàng đông như kiến cỏ đương đuổi theo sau, trên lá cờ viết bốn chữ “Thiên công tướng quân” rất lớn. Huyền Đức nói:
- Trương Giốc đây rồi, đánh ngay đi.
Ba người đều phi ngựa dẫn quân ra đánh. Lúc ấy Trương Giốc đương thừa thắng đuổi Đổng Trác, bỗng gặp ba người đem quân chẹn đánh, quân Giốc hoảng loạn, phải thua chạy đến ngoài năm mươi dặm.
[[Tập tin:Dong_Zhuo_Portrait.jpg|phải|nhỏ|Đổng Trác. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Ba người cứu được Đổng Trác về trại, Trác hỏi ba người hiện làm quan gì?
Huyền Đức nói còn là chân trắng.
Trác khinh thường, không thèm đáp tạ lại.
Huyền Đức đi ra, Trương Phi cả giận nói rằng:
- Thằng “mọi” này láo quá. Chúng ta lăn lộn vào đất chết để cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người đến thế, nếu không giết nó, không sao hả được giận này.
Bèn cầm dao vào trướng định giết Đổng Trác.
Đó chính là:
<poem>
''Nhân tình thế lợi vẫn xưa nay''
''Ai biết anh hùng lúc trắng tay''
''Nếu được người người như Dực Đức.''
''Trên đời hẳn hết kẻ không hay.''
</poem>
Muốn biết tính mạng Đổng Trác thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích cuối trang}}
9y3ykgyznijunss6ayt2znbjcn9q806
141416
141415
2022-08-19T15:49:02Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 1
| trước =
| sau = [[../Hồi 2|Hồi 2]]
| ghi chú =
}}
[[Tập tin:Long Corridor-三英图.jpg|nhỏ|giữa|800px|Từ trái sang phải: Trương Phi, Lưu Bị, Quan Vũ. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Location map+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Những địa danh được đề cập trong Hồi thứ nhất
|places=
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=left|label=1}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=41|lat_min=30.51|lon_deg=108|lon_min=37|background=white|position=left|label=2}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=3|lat_sec=58|lon_deg=115|lon_min=1|lon_sec=8|background=white|position=left|label=3}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=40|lat_min=2|lat_sec=11.25|lon_deg=117|lon_min=23|lon_sec=49.39|background=white|position=left|label=4}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=55|lat_sec=6.24|lon_deg=113|lon_min=53|lon_sec=54.37|background=white|position=left|label=5}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=39|lat_min=29|lon_deg=115|lon_min=58|background=white|position=left|label=6}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=01|lon_deg=110|lon_min=59|background=white|position=left|label=7}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=51|lat_sec=22.63|lon_deg=115|lon_min=28|lon_sec=41.99|background=white|position=left|label=8}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=41|lat_sec=48|lon_deg=118|lon_min=28|lon_sec=47|background=white|position=left|label=9}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=4|lat_sec=22.53|lon_deg=115|lon_min=8|lon_sec=57.69|background=white|position=right|label=10}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=9|lat_sec=48.12|lon_deg=113|lon_min=27|lon_sec=39.06|background=white|position=top|label=11}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=12|lat_sec=49.21|lon_deg=113|lon_min=45|lon_sec=46.55|background=white|position=right|label=12}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=52|lat_sec=26.40|lon_deg=115|lon_min=45|lon_sec=56.88|background=white|position=top|label=13}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=45.53|lon_deg=112|lon_min=31|lon_sec=36.48|background=white|position=left|label=14}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=52.47|lon_deg=114|lon_min=20|lon_sec=32.28|background=white|position=right|label=15}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=53|lat_sec=24.71|lon_deg=115|lon_min=5|lon_sec=20.39|background=white|position=left|label=16}}
}}
</div></div>
{| style="margin-left: auto; margin-right: auto; border: none;"
|
: 1. [[w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]]
: 2. [[w:Ngũ Nguyên|Ngũ Nguyên]]
: 3. [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]]
: 4. U-châu
: 5. [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]]
: 6. [[:w:Trác Châu|Trác-quận]]
|
: 7. Giải-lương
: 8. [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]]
: 9. [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]]
: 10. [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]
: 11. [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]
|
: 12. [[:w:Trường Cát|Trường-xã]]
: 13. [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]]
: 14. [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]]
: 15. [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]]
: 16. [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ NHẤT
<poem>
'''Yến vườn đào, anh hùng kết nghĩa'''
'''Chém khăn vàng, hào kiệt lập công'''</poem>
}}
Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan: như hết đời nhà Chu, bảy nước tranh giành xâu xé nhau rồi sau lại hợp về [[:w:Nhà Tần|nhà Tần]]. Đến khi nhà Tần mất, thì [[:w:Chiến tranh Hán-Sở|Hán, Sở tranh hùng]] rồi sau thiên hạ lại hợp về tay [[:w:Nhà Hán|nhà Hán]].
Nhà Hán, từ lúc [[:w:Hán Cao Tổ|vua Cao tổ (Bái Công)]] chém rắn trắng khởi nghĩa, thống nhất được thiên hạ, sau [[:w:Hán Quang Vũ Đế|vua Quang Vũ]] lên ngôi, rồi truyền mãi đến [[:w:Hán Hiến Đế|vua Hiến-đế]]; lúc bấy giờ lại chia ra thành ba nước. (Do đó có truyện Tam Quốc).
Truy nguyên xem cuộc biến loạn ấy ở đâu mà ra, thì gốc loạn trước hết từ hai vua [[:w:Hán Hoàn Đế|Hoàn-đế]] và [[:w:Hán Linh Đế|Linh-đế]]. Vua Hoàn-đế tin dùng lũ hoạn quan, cấm cố những người hiền sĩ. Đến lúc vua Hoàn-đế mất, vua Linh-đế lên ngôi nối nghiệp, được quan đại tướng quân [[:w:Đậu Vũ|Đậu Vũ]], quan thái phó [[:w:Trần Phồn|Trần Phồn]] là những người tài giỏi giúp đỡ. Khi ấy, trong triều có bọn hoạn quan là lũ [[:w:Tào Tiết (hoạn quan)|Tào Tiết]] lộng quyền, Đậu Vũ, Trần Phồn lập mưu định trừ bọn ấy đi, nhưng vì cơ mưu tiết lộ nên lại bị chúng nó giết mất. Từ đấy, bọn hoạn quan ngày càng ngạo ngược.
Ngày rằm tháng tư năm Kiến Ninh thứ hai (167 sau Thiên chúa) vua ngự điện Ôn Đức. Tự nhiên có cơn gió to ầm ầm từ góc điện nổi lên, rồi thấy một con rắn xanh lớn ở trên xà nhà quăng xuống quằn quại trên long án. Vua kinh hoảng ngã đùng ra, các quan tả hữu vội cứu vực vào cung; ở ngoài văn võ cũng sợ chạy cả. Được một lát con rắn biến mất và bỗng nhiên mưa to, sấm sét ầm ầm; lại thêm mưa đá rào rào mãi đến nửa đêm mới tạnh, đổ nhà đổ cửa không biết bao nhiêu mà kể.
Tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư (169) tỉnh [[:w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]] có động đất, nước bể dâng lên ngập lưng trời, những dân cư ở ven bể bị sóng lớn cuốn trôi đi mất cả.
Năm Quang Hòa thứ nhất (178), một con gà mái tự dưng hóa ra gà sống. Mồng 1 tháng 6 năm ấy, một luồng khí đen dài chừng hơn mười trượng bay vào trong điện Ôn Đức. Qua sang tháng bảy lại có lắm điều gở lạ; cầu vồng mọc ở giữa Ngọc đường; rặng núi [[:w:Ngũ Nguyên|Ngũ nguyên]] bỗng dưng lở sụt xuống.
Vua hạ chiếu hỏi quần thần xem tự đâu mà sinh ra những điềm gở lạ ấy. Có quan nghị lang là Sái Ung dâng sớ lên, lời lẽ thống thiết, nói rằng: cầu vồng sa xuống, gà mái hóa sống, ấy là bởi quyền chính trong nước ở tay đàn bà và ở tay kẻ hoạn... Vua xem sớ ngậm ngùi thở dài, đứng dậy thay áo. Tào Tiết khi ấy đứng hầu sau ngai nghe trộm thấy, trong lòng căm giận, bèn mách bảo đồng bọn, bàn mưu kiếm cớ vu hãm Sái Ung, cách quan đuổi về quê quán.
Về sau bọn hoạn quan là [[:w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]], [[:w:Triệu Trung|Triệu Trung]], Phong Tư, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoán, Hạ Huy, Quách Thắng, cả thảy mười người gọi là mười quan “Thường Thị”, bè đảng với nhau kéo cánh làm càn. Nhà vua tin dùng tôn trọng Trương Nhượng, gọi là “á phụ” (nghĩa là vua coi hắn như cha).
Từ đấy chính sự trong triều ngày càng đổ nát, lòng người náo loạn, giặc cướp nổi lên như ong.
Khi ấy ở đất [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]], có một nhà ba anh em: anh cả là [[:w:Trương Giác|Trương Giốc]], em hai là [[:w:Trương Bảo (Khăn Vàng)|Trương Bảo]], em út là [[:w:Trương Lương (Khăn Vàng)|Trương Lương]].
Trương Giốc vốn là học trò đi thi hỏng, nhân thế bực mình vào núi hái thuốc. Đi đường gặp một cụ già mặt tròn mắt biếc, tay chống gậy lê, gọi Trương Giốc vào trong một cái động, trao cho ba quyển sách và bảo rằng: “Thuật mầu nhiệm làm cho thiên hạ thái bình đều ở trong sách này. Ngươi nên thay trời dạy người, để cứu lấy đời. Nếu sau này manh tâm tà gian ắt bị ác báo”. Trương Giốc sụp xuống lạy, hỏi họ tên thì cụ già nói: “Ta là Nam Hoa lão tiên”, nói đoạn, hóa một trận gió biến mất.
Trương Giốc được ba quyển sách ấy đem về ngày đêm học tập, không bao lâu biết đủ các phép gió gọi mưa, tự xưng là ''Thái-bình đạo nhân''.
Đến tháng giêng, năm Trung Bình thứ nhất (184), có bệnh ôn dịch. Trương Giốc làm ra nước phép chữa bệnh, cứu được nhiều người, tự xưng là ''Đại hiền lương sư''. Giốc có đồ đệ năm trăm người, đi dạo các nơi, ai cũng biết phép thư phù niệm chú. Về sau đồ đệ càng ngày càng đông, Giốc bèn chia học trò ra ba mươi sáu phương, phương lớn hơn một vạn người, phương nhỏ sáu bảy nghìn người, phương nào cũng đặt một người làm thủ lĩnh xưng là đại tướng quân. Nói phao lên rằng: ''“Trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng”''. Lại nói: ''“Đến năm giáp tí, thiên hạ thái bình”''. Sai người lấy đất thó trắng viết hai chữ ''“Giáp tý”'' ở ngay giữa cửa. Nhân dân tám châu Thanh, U, Từ, Kế, Kinh, Dương, Duyện, Dự, nhà nào cũng thờ mấy chữ hiệu: ''“Đại hiền lương sư Trương Giốc”''.
Trương Giốc lại sai đồng đảng là [[:w:Mã Nguyên Nghĩa|Mã nguyên Nghĩa]] mật đem vàng lụa vào kinh kết giao với tên hoạn quan Phong Tư, để làm nội ứng, rồi bàn với hai em rằng: “Không gì khó bằng thu phục được lòng dân, nay lòng dân đã quy thuận về ta, nếu không thừa thế chiếm lấy thiên hạ thì thật là đáng tiếc lắm”.
Bèn một mặt sai may cờ vàng, hẹn ngày khởi sự, một mặt sai đồ đệ là Đường Châu đem thư báo cho Phong Tư biết. Nhưng Đường Châu lại đi thẳng đến cửa cung tố cáo.
[[Tập tin:He Jin Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Hà Tiến]]
Được tin, vua liền triệu quan đại tướng quân là [[:w:Hà Tiến|Hà Tiến]] điều binh bắt chém Mã nguyên Nghĩa và bắt cả bọn Phong Tư bỏ ngục. Trương Giốc thấy việc đã tiết lộ, vội vàng cử binh khởi sự, tự xưng là ''Thiên công tướng quân'', Trương Bảo xưng ''Địa công tướng quân'', Trương Lương xưng ''Nhân công tướng quân''; nói với mọi người rằng: “Nay vận nhà Hán sắp hết. Đại thánh nhân ra đời. Các ngươi nên thuận mệnh trời, theo về ta để cùng vui hưởng thái bình!”
Nhân dân bốn phương đội khăn vàng, đi theo Trương Giốc có tới bốn năm mươi vạn người. Thế giặc dữ dội, quan quân thua chạy như cỏ lướt theo ngọn gió. Hà Tiến một mặt tâu vua, xin hoả tốc xuống chiếu cho các nơi phòng giữ; một mặt sai ba quan trung-lang-tướng là [[:w:Lư Thực|Lư Thực]], [[:w:Hoàng Phủ Tung|Hoàng phủ Tung]], [[:w:Chu Tuấn|Chu Tuấn]] đem quân tinh nhuệ chia ra làm ba ngả dẹp giặc.
Trong khi ấy, quân Trương Giốc có một toán phạm vào bờ cõi U-châu. Quan Thái thú châu ấy là [[:w:Lưu Yên|Lưu Yên]], người làng [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]] đất Giang-hạ, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Dư|Lỗ Cung Vương nhà Hán]], nghe tin quân giặc sắp đến, liền triệu quan hiệu úy Châu Tĩnh đến bàn bạc. Tĩnh nói:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, ông nên tức khắc chiêu mộ thêm quân thì mới kịp ứng phó.
Lưu Yên cho là phải, bèn sai treo bảng mộ quân.
Khi bảng treo đến [[:w:Trác Châu|Trác-quận]] thì có ngay một vị anh hùng ra ứng mộ. Vị anh hùng ấy không thích đọc sách mấy, tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, vốn có chí lớn, chỉ thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Kể dáng người thì mình cao tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Thắng (Trung Sơn vương)|Trung-sơn Tĩnh-vương Lưu Thắng]], cháu năm đời vua [[:w:Hán Cảnh Đế|Cảnh-đế nhà Hán]], [[:w:Lưu Bị|họ Lưu, tên Bị]], tự là Huyền Đức.
Ngày trước con Lưu Thắng là Lưu Trinh, về đời vua [[:w:Hán Vũ Đế|Hán Vũ]], được phong làm Trác-lộc Đình-hầu, sau vì tội góp thiếu tiền cúng tế bị mất chức, vì vậy còn sót một ngành ở Trác-quận.
Ông của Huyền Đức là Lưu Hùng, cha là Lưu Hoằng. Hoằng thi đỗ hiếu-liêm, đã từng làm quan, nhưng mất sớm. Huyền Đức bồ côi cha, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn.
Nhà ở thôn Lâu-tang. Mé đông-nam nhà Huyền Đức có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, xa trông từng lớp trên xoè ra như cái tán che cỗ xe. Có người thầy tướng đi qua trông thấy khen rằng: “Nhà có cây dâu này tất sinh quý tử”. Lúc Huyền Đức còn thơ ấu, cùng trẻ con chơi dưới gốc dâu, thường vẫn nói rằng: “Ngày sau ta làm vua, cũng ngự cái xe có tàn che như cây dâu này”. Người chú là Lưu nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ bảo rằng: “Thằng bé này không phải người thường”. Nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo, thường tư cấp cho.
Huyền Đức, năm 15 tuổi, mẹ cho đi học, thờ Trịnh Huyền và Lưu Thực làm thầy và cùng với [[:w:Công Tôn Toản|Công tôn Toản]] kết bạn học. Lúc Lưu Yên treo bảng mộ quân, thì Huyền Đức 28 tuổi.
Bấy giờ Huyền Đức đọc bảng văn rồi thở dài. Bỗng thấy một người đứng phía sau nói lớn lên rằng: “Đại trượng phu như ông, không ra giúp nước, đứng thở dài đó, được việc chi?”.
Huyền Đức ngoảnh lại nhìn: người ấy mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng vang như sấm. Huyền Đức thấy dung mạo khác thường, liền hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Trương Phi|họ Trương tên Phi]], tự là Dực Đức, ở Trác-quận đã lâu đời. Gia tư có ít ruộng, vườn, trại và mở ngôi hàng bán rượu, thịt chó. Tôi chỉ thích kết giao với hào kiệt trong thiên hạ. Vừa rồi thấy ông xem bảng văn rồi thở dài, nên tôi mới hỏi.
Huyền Đức nói:
- Tôi đây vốn dòng dõi nhà Hán, họ Lưu tên Bị; nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, có chí ra dẹp giặc yên dân, chỉ hiềm sức mình không nổi, nên mới thở dài.
Phi nói:
- Nhà tôi gia tư cũng khá. Ý tôi muốn chiêu mộ hương dũng, cùng ông mưu đồ việc lớn, ông tính sao?
Huyền Đức mừng lắm. Hai người bèn rủ nhau vào hàng uống rượu.
Đương đánh chén, bỗng thấy một người cao lớn lực lưỡng, đẩy một cỗ xe đến cửa, vào hàng ngồi phịch xuống, gọi nhà hàng:
- Rượu mau lên! Để ta uống xong còn vào thành ứng mộ!
Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt như hai quả táo chồng lên nhau, môi như tô son, mắt phượng mày tằm oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Quan Vũ|họ Quan tên Vũ]], tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân Trường, người làng Giải-lương, tỉnh Hà-đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế hiếp người tôi bèn giết chết rồi đi trốn tránh, đã năm, sáu năm nay rồi. Nay nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc, nên tôi đến ứng mộ.
Huyền Đức cũng đem chí mình ra nói, Vân Trường rất mừng. Bèn cùng đến trại của Trương Phi bàn tính việc lớn. Phi nói:
- Sau trại tôi có một vườn đào đang nở hoa đẹp lắm; ngày mai nên làm lễ tế trời đất ở trong vườn, ba chúng ta kết làm anh em, cùng lòng hợp sức, sau mới có thể tính được việc lớn.
Huyền Đức, Vân Trường đều nói:
- Như thế tốt lắm.
[[Tập tin:Peach garden ceremony.jpg|nhỏ|phải|Kết nghĩa vườn đào. Tranh đời Minh (1591).]]
Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người đốt hương lạy hai lạy thề rằng:
- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh em, thì phải cùng lòng hợp sức, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định nạn dân. Chúng tôi không cần sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu thể, soi xét lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết.
Thề xong, tôn Huyền Đức làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út. Mổ trâu đặt tiệc, tụ họp dũng sĩ trong làng được ba trăm người, cũng đến vườn đào uống một bữa thật say. Hôm sau sửa soạn khí giới, đương lo còn thiếu ngựa cưỡi, thì thấy báo có hai người lái buôn dắt một đàn ngựa đến trại.
Huyền Đức nói:
- Thực là trời giúp chúng ta.
Nói đoạn ba người cùng ra cửa trại đón.
Nguyên hai người khách ấy đều là lái buôn lớn ở huyện [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]], một người tên Trương thế Bình, một người tên Tô Song, hàng năm vẫn đem ngựa lên bán miền bắc, chỉ vì lúc ấy dọc đường nhiều giặc cướp, nên quay trở về. Huyền Đức mời hai người vào trại, làm rượu khoản đãi, và nói rõ ý mình đang muốn dẹp giặc yên dân. Hai người cả mừng, tình nguyện tặng năm mươi con ngựa tốt, năm trăm lạng vàng bạc và một nghìn cân sắt để làm khí giới.
[[Tập tin:Guan yu -Summer Palace, Beijing.JPG|phải|nhỏ|Vân Trường cầm thanh long đao. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Huyền Đức cảm tạ hai người khách và tiễn lên đường, rồi sai gọi thợ sắt đến đánh hai thanh kiếm. Vân Trường đánh một thanh long đao nặng tám mươi hai cân, Trương Phi đánh một ngọn xà mâu dài một trượng tám thước. Mỗi người làm một bộ áo giáp, họp hương dũng được hơn năm trăm người, đem nhau đến gặp Châu Tĩnh. Châu Tĩnh đưa đi yết kiến quan thái thú Lưu Yên. Ba người thi lễ xong, đều xưng họ tên. Huyền Đức kể rõ tôn phái, Lưu Yên cả mừng nhận Huyền Đức là cháu.
Vài hôm sau, có tin báo tướng giặc khăn vàng là Trình viễn Chí đem năm vạn quân đến đánh Trác-quận. Lưu Yên sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân đi trước phá giặc. Ba anh em Huyền Đức vui mừng hớn hở đi ngay. Lúc đến dưới núi Đại-hưng, thấy quân giặc đều xoã tóc chít khăn vàng. Hai bên đối trận, Huyền Đức nhảy ngựa vụt ra, tả có Vân Trường, hữu có Dực Đức, giơ roi mắng lớn:
- Quân giặc phản nước kia! Sao không xuống ngựa hàng ngay đi.
[[Tập tin:Three Brothers during the Yellow Turban Rebellion.jpg|nhỏ|phải|Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu.]]
Trình viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu ra đánh. Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu. Đặng Mậu ngã lăn xuống ngựa chết.
Trình viễn Chí thấy vậy, thúc ngựa múa đao xông thẳng vào định chém Trương Phi. Tức thì Vân Trường múa long đao tế ngựa ra đón địch. Trình viễn Chí trông thấy hoảng sợ, chưa kịp trở tay đã bị đao Vân Trường xả làm hai đoạn.
Đời sau có thơ khen rằng:
<poem>
''Anh hùng xuất hiện buổi sơ đầu''
''Người thử siêu đao kẻ thử mâu.''
''Mới bước chân ra uy đã dữ''
''Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau.''
</poem>
Quân giặc thấy Trình viễn Chí bị chém, đều vác ngược giáo ù té chạy. Huyền Đức thúc quân đuổi theo, giặc hàng không biết bao nhiêu mà kể. Ba người đại thắng kéo quân trở về, Lưu Yên thân ra đón tiếp, khao thưởng ba quân.
Hôm sau, Lưu Yên tiếp được tờ điệp của quan thái thú [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]] tên là Cung Cảnh, báo tin bị giặc khăn vàng bao vây, thành sắp vỡ, kíp xin cho quân đến cứu. Lưu Yên bàn với Huyền Đức. Huyền Đức nói:
- Bị này tình nguyện đem quân đi cứu.
Lưu Yên bèn sai Châu Tĩnh đem năm nghìn quân cùng Huyền Đức, Quan, Trương kéo đến Thanh-châu.
Giặc thấy có quân đến cứu, chia quân đón đánh. Huyền Đức thấy quân mình ít, khó đánh được, lui ba mươi dặm đóng trại. Huyền Đức bảo Quan, Trương rằng:
- Giặc nhiều, ta ít, tất phải dùng kỳ binh mới có thể thắng được.
Bèn sai Vân Trường dẫn một nghìn quân phục bên tả núi, Trương Phi dẫn một nghìn quân phục bên hữu núi, hẹn rằng nghe tiếng chiêng thì cùng kéo ra tiếp ứng.
Ngày hôm sau Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân đánh trống hò reo thẳng tiến. Quân giặc vội vã kéo ra đón đánh, Huyền Đức lui binh ngay. Giặc thừa thế đuổi tràn. Vừa qua sườn núi, trong quân Huyền Đức khua chiêng vang lên. Hai đạo quân tả hữu xô ra. Huyền Đức thúc quân quay lại, ba mặt giáp đánh, quân giặc thua to, chạy đến dưới thành Thanh-châu, quan thái thú Cung Cảnh cũng đem dân binh ra trợ chiến, quân giặc bị chết rất nhiều, giải được vòng vây.
Đời sau có thơ khen Huyền Đức rằng:
<poem>
''Bày mưu đặt mẹo khéo ra công,''
''Đôi hổ chung quy kém một rồng.''
''Buổi mới đã nên công trạng lớn,''
''Chia ba chân vạc đáng anh hùng.''
</poem>
Cung Cảnh khao quân xong, Châu Tĩnh muốn về. Huyền Đức nói:
- Mới rồi nghe tin quan trung-lang-tướng Lư Thực cùng Trương Giốc đánh nhau ở [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]. Bị này trước kia có học Lư tướng quân, nghĩa đạo thầy trò, muốn sang giúp sức.
Châu Tĩnh dẫn quân về một mình, còn Huyền Đức cùng Quan, Trương dẫn năm trăm quân bản bộ sang Quảng-tôn.
Khi ba người đến dinh quân Lư Thực, vào trướng thi lễ, bày tỏ ý kiến mình, thì Lư Thực mừng lắm, lưu ở trướng tiền đợi khi dùng đến.
Bấy giờ quân Trương Giốc mười lăm vạn, quân Lư Thực năm vạn, đang chống nhau ở Quảng-tôn, chưa rõ bên nào thua được.
Một hôm Lư Thực bảo Huyền Đức rằng:
- Trương Giốc đã bị ta vây ở đây rồi. Duy hai em nó là Trương Bảo, Trương Lương đang chống nhau với Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn ở [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]. Ông nên đem quân ngay bản bộ và một nghìn quân ta giúp thêm, đến thẳng Dĩnh-xuyên dò xem tin tức ra sao, rồi cùng nhau hẹn ngày tiến đánh.
Huyền Đức lĩnh mệnh, đem quân đi cả ngày đêm đến Dĩnh Xuyên.
Lúc ấy Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đem quân đánh giặc, giặc bị thua luôn, phải lui về [[:w:Trường Cát|Trường-xã]], dựa theo bụi rậm đóng trại. Tung bàn với Tuấn rằng:
- Quân giặc dựa vào chỗ có cỏ rậm đóng quân thì ta nên dùng mẹo hoả công.
Bèn sai quân sĩ mỗi người bó một bó cỏ, ngầm đi mai phục. Đêm ấy trời nổi cơn gió lớn, vào khoảng canh hai, quân phục kéo vào phóng hoả, Tung và Tuấn đều dẫn quân đến đánh, khói lửa ngụt trời, quân giặc hoảng sợ, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp thắng yên, xô nhau mà chạy. Đôi bên đánh nhau đến sáng, Trương Lương, Trương Bảo phải dẫn tàn quân cướp đường mà chạy. Bỗng thấy một toán quân mã kéo toàn cờ đỏ xông ra chặn đường. Một tướng đi đầu, mình cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài.
[[Tập tin:Cao_Cao_Portrait_ROTK.jpg|nhỏ|phải|Tào Tháo. Tranh minh họa đời [[:w:Nhà Thanh|Thanh]].]]
Viên tướng ấy là ai? Tức là quan kỵ-đô-uý, người ở [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]] nước Bái, [[:w:Tào Tháo|họ Tào tên Tháo]] tự là Mạnh Đức.
Cha Tào Tháo là [[:w:Tào Tung|Tào Tung]], vốn xưa họ Hạ hầu, nhận làm con nuôi quan trung-thường-thị [[:w:Tào Đằng|Tào Đằng]], nên đổi theo họ Tào. Tháo tiểu tự là A Man, và đặt một tên nữa là Cát Lợi. Lúc Tháo còn trẻ, thì chỉ thích chơi săn, ham múa hát, nổi tiếng là một tay cơ biến quyền mưu. Người chú Tháo thấy Tháo chơi bời hoang phiếm, giận lắm, đem nói với Tào Tung. Tung trách mắng Tháo. Tháo nghĩ ngay một kế, lúc thấy chú đến, giả tảng nằm quay ra đất, làm như trúng phong. Chú Tháo thấy vậy cả sợ, chạy đến bảo Tung, Tung vội lại xem, thấy Tháo không có bệnh chi cả, bèn hỏi:
- Chú mày nói mày trúng phong, đã khỏi rồi à?
- Thưa cha, thuở bé đến giờ con có bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú con ghét con cho nên đặt điều ra thế.
Tung tưởng thật. Từ đấy người chú kể tội Tháo, Tung đều không nghe nữa, nhân thế Tháo càng được tự do phóng đãng hơn xưa.
Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì không sao yên được loạn. Làm được như thế có lẽ chỉ có bác.
Người đất [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]] là Hà Ngung một hôm trông thấy Tháo cũng tán tụng rằng:
- Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chắc chỉ có người này!
Người đất [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]] là Hứa Thiệu có tiếng là giỏi biết người, Tháo thân đến hỏi:
- Như tôi là người thế nào?
Thiệu không giả lời.
Tháo hỏi lại lần nữa.
Thiệu nói:
- Anh là năng thần<ref>Ông quan giỏi.</ref> của đời trị và gian hùng của đời loạn.
Tháo nghe nói cả mừng.
Năm Tháo hai mươi tuổi thi đỗ hiếu-liêm, bổ làm quan lang, sau lại thăng chức đô-uý huyện Lạc-dương. Lúc mới đến nhậm chức, Tháo sai treo hơn mười cái roi ngũ sắc ở bốn cửa huyện, không kể hào quý hễ ai phạm phép đều không tha. Chú quan trung-thường-thị Kiển Thạc vác dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt được cũng đem nọc đánh ngay. Bởi thế trong ngoài kinh sợ, không ai dám làm trái phép. Sau Tháo thăng chức lệnh-doãn [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]. Nhân giặc khăn vàng nổi loạn, lại được thăng làm quan kỵ-đô-uý, đem năm nghìn quân mã bộ đến Dĩnh-xuyên giúp đánh, tình cờ dọc đường, gặp Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tháo đón đánh một trận kịch liệt chém giết hơn một vạn người, cướp được cờ, trống, ngựa, khí giới rất nhiều. Lương, Bảo cố chết mới chạy thoát. Tháo vào hội kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn rồi lại dẫn quân đi đuổi Trương Lương, Trương Bảo ngay.
Nhắc lại Huyền Đức dẫn Quan, Trương đi gần đến Dĩnh-xuyên, nghe tiếng reo hò đánh nhau, lại trông thấy lửa sáng rực trời, vội thúc quân kéo đến, tới nơi giặc đã chạy tan hết rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn, đem ý kiến Lư Thực ra bày tỏ, Tung nói:
- Nay Trương Lương, Trương Bảo thế cùng lực kiệt, tất chạy đến Quảng-tôn nương nhờ Trương Giốc. Ông nên đi gấp đường về giúp ngay Lư Thực.
Huyền Đức nghe lời, dẫn quân trở lại.
Khi mới đi được nửa đường, gặp một toán người ngựa, áp giải một tù xa<ref>Xe chở người tù.</ref>, trên xe có một cái cũi nhốt một người tù té ra chính là Lư Thực. Huyền Đức giật mình kinh hãi, vội chạy xuống ngựa đến hỏi thăm. Thực nói:
- Ta vây đánh Trương Giốc, sắp sửa phá tan, chỉ vì Giốc dùng yêu thuật, nên còn nhùng nhằng chưa phá hẳn được. Triều đình sai viên hoàng môn tên là Tả Phong đến dò xét quân lính. Phong đòi ăn của đút không được, vì lương quân còn thiếu, tiền đâu mà cung đốn họ, bởi thế Tả Phong căm giận, về triều tâu man cho ta lười biếng không chịu đánh giặc, làm cho lòng quân chán nản. Triều đình nổi giận, sai quan trung-lang-tướng [[:w:Đổng Trác|Đổng Trác]] đến cầm quân thay ta, và bắt ta về kinh hỏi tội.
Trương Phi nghe nói, nổi giận đùng đùng, toan giết hết toán quân áp giải để cứu Lư Thực. Huyền Đức vội ngăn lại bảo rằng:
- Không nên, triều đình đã có công luận, chú không được xử sự một cách nóng nảy như thế.
Quân sĩ lại giải Lư Thực đi.
Quan Công nói:
- Nay Lư trung-lang đã bị bắt, người khác thay quyền, chúng ta đến đấy cũng vô ích, chi bằng hãy về Trác-quận.
Huyền Đức lấy làm phải, bèn dẫn quân về phía bắc.
Đi được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng đánh nhau hò hét. Huyền Đức cùng Quan, Trương cưỡi ngựa lên đồi cao trông xem, thấy quân Hán bị thua đương chạy, giặc khăn vàng đông như kiến cỏ đương đuổi theo sau, trên lá cờ viết bốn chữ “Thiên công tướng quân” rất lớn. Huyền Đức nói:
- Trương Giốc đây rồi, đánh ngay đi.
Ba người đều phi ngựa dẫn quân ra đánh. Lúc ấy Trương Giốc đương thừa thắng đuổi Đổng Trác, bỗng gặp ba người đem quân chẹn đánh, quân Giốc hoảng loạn, phải thua chạy đến ngoài năm mươi dặm.
[[Tập tin:Dong_Zhuo_Portrait.jpg|phải|nhỏ|Đổng Trác. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Ba người cứu được Đổng Trác về trại, Trác hỏi ba người hiện làm quan gì?
Huyền Đức nói còn là chân trắng.
Trác khinh thường, không thèm đáp tạ lại.
Huyền Đức đi ra, Trương Phi cả giận nói rằng:
- Thằng “mọi” này láo quá. Chúng ta lăn lộn vào đất chết để cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người đến thế, nếu không giết nó, không sao hả được giận này.
Bèn cầm dao vào trướng định giết Đổng Trác.
Đó chính là:
<poem>
''Nhân tình thế lợi vẫn xưa nay''
''Ai biết anh hùng lúc trắng tay''
''Nếu được người người như Dực Đức.''
''Trên đời hẳn hết kẻ không hay.''
</poem>
Muốn biết tính mạng Đổng Trác thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích cuối trang}}
mlvdpokf4vgiv4894ly43r9c938gxli
141417
141416
2022-08-19T15:58:28Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 1
| trước =
| sau = [[../Hồi 2|Hồi 2]]
| ghi chú =
}}
[[Tập tin:Oath of the Peach Garden at Long Corridor.JPG|nhỏ|giữa|800px|Lưu Quan Trương kết nghĩa vườn đào. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Location map+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Những địa danh được đề cập trong Hồi thứ nhất
|places=
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=left|label=1}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=41|lat_min=30.51|lon_deg=108|lon_min=37|background=white|position=left|label=2}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=3|lat_sec=58|lon_deg=115|lon_min=1|lon_sec=8|background=white|position=left|label=3}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=40|lat_min=2|lat_sec=11.25|lon_deg=117|lon_min=23|lon_sec=49.39|background=white|position=left|label=4}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=55|lat_sec=6.24|lon_deg=113|lon_min=53|lon_sec=54.37|background=white|position=left|label=5}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=39|lat_min=29|lon_deg=115|lon_min=58|background=white|position=left|label=6}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=01|lon_deg=110|lon_min=59|background=white|position=left|label=7}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=51|lat_sec=22.63|lon_deg=115|lon_min=28|lon_sec=41.99|background=white|position=left|label=8}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=41|lat_sec=48|lon_deg=118|lon_min=28|lon_sec=47|background=white|position=left|label=9}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=4|lat_sec=22.53|lon_deg=115|lon_min=8|lon_sec=57.69|background=white|position=right|label=10}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=9|lat_sec=48.12|lon_deg=113|lon_min=27|lon_sec=39.06|background=white|position=top|label=11}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=12|lat_sec=49.21|lon_deg=113|lon_min=45|lon_sec=46.55|background=white|position=right|label=12}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=52|lat_sec=26.40|lon_deg=115|lon_min=45|lon_sec=56.88|background=white|position=top|label=13}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=45.53|lon_deg=112|lon_min=31|lon_sec=36.48|background=white|position=left|label=14}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=52.47|lon_deg=114|lon_min=20|lon_sec=32.28|background=white|position=right|label=15}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=53|lat_sec=24.71|lon_deg=115|lon_min=5|lon_sec=20.39|background=white|position=left|label=16}}
}}
</div></div>
{| style="margin-left: auto; margin-right: auto; border: none;"
|
: 1. [[w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]]
: 2. [[w:Ngũ Nguyên|Ngũ Nguyên]]
: 3. [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]]
: 4. U-châu
: 5. [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]]
: 6. [[:w:Trác Châu|Trác-quận]]
|
: 7. Giải-lương
: 8. [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]]
: 9. [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]]
: 10. [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]
: 11. [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]
|
: 12. [[:w:Trường Cát|Trường-xã]]
: 13. [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]]
: 14. [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]]
: 15. [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]]
: 16. [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ NHẤT
<poem>
'''Yến vườn đào, anh hùng kết nghĩa'''
'''Chém khăn vàng, hào kiệt lập công'''</poem>
}}
Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan: như hết đời nhà Chu, bảy nước tranh giành xâu xé nhau rồi sau lại hợp về [[:w:Nhà Tần|nhà Tần]]. Đến khi nhà Tần mất, thì [[:w:Chiến tranh Hán-Sở|Hán, Sở tranh hùng]] rồi sau thiên hạ lại hợp về tay [[:w:Nhà Hán|nhà Hán]].
Nhà Hán, từ lúc [[:w:Hán Cao Tổ|vua Cao tổ (Bái Công)]] chém rắn trắng khởi nghĩa, thống nhất được thiên hạ, sau [[:w:Hán Quang Vũ Đế|vua Quang Vũ]] lên ngôi, rồi truyền mãi đến [[:w:Hán Hiến Đế|vua Hiến-đế]]; lúc bấy giờ lại chia ra thành ba nước. (Do đó có truyện Tam Quốc).
Truy nguyên xem cuộc biến loạn ấy ở đâu mà ra, thì gốc loạn trước hết từ hai vua [[:w:Hán Hoàn Đế|Hoàn-đế]] và [[:w:Hán Linh Đế|Linh-đế]]. Vua Hoàn-đế tin dùng lũ hoạn quan, cấm cố những người hiền sĩ. Đến lúc vua Hoàn-đế mất, vua Linh-đế lên ngôi nối nghiệp, được quan đại tướng quân [[:w:Đậu Vũ|Đậu Vũ]], quan thái phó [[:w:Trần Phồn|Trần Phồn]] là những người tài giỏi giúp đỡ. Khi ấy, trong triều có bọn hoạn quan là lũ [[:w:Tào Tiết (hoạn quan)|Tào Tiết]] lộng quyền, Đậu Vũ, Trần Phồn lập mưu định trừ bọn ấy đi, nhưng vì cơ mưu tiết lộ nên lại bị chúng nó giết mất. Từ đấy, bọn hoạn quan ngày càng ngạo ngược.
Ngày rằm tháng tư năm Kiến Ninh thứ hai (167 sau Thiên chúa) vua ngự điện Ôn Đức. Tự nhiên có cơn gió to ầm ầm từ góc điện nổi lên, rồi thấy một con rắn xanh lớn ở trên xà nhà quăng xuống quằn quại trên long án. Vua kinh hoảng ngã đùng ra, các quan tả hữu vội cứu vực vào cung; ở ngoài văn võ cũng sợ chạy cả. Được một lát con rắn biến mất và bỗng nhiên mưa to, sấm sét ầm ầm; lại thêm mưa đá rào rào mãi đến nửa đêm mới tạnh, đổ nhà đổ cửa không biết bao nhiêu mà kể.
Tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư (169) tỉnh [[:w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]] có động đất, nước bể dâng lên ngập lưng trời, những dân cư ở ven bể bị sóng lớn cuốn trôi đi mất cả.
Năm Quang Hòa thứ nhất (178), một con gà mái tự dưng hóa ra gà sống. Mồng 1 tháng 6 năm ấy, một luồng khí đen dài chừng hơn mười trượng bay vào trong điện Ôn Đức. Qua sang tháng bảy lại có lắm điều gở lạ; cầu vồng mọc ở giữa Ngọc đường; rặng núi [[:w:Ngũ Nguyên|Ngũ nguyên]] bỗng dưng lở sụt xuống.
Vua hạ chiếu hỏi quần thần xem tự đâu mà sinh ra những điềm gở lạ ấy. Có quan nghị lang là Sái Ung dâng sớ lên, lời lẽ thống thiết, nói rằng: cầu vồng sa xuống, gà mái hóa sống, ấy là bởi quyền chính trong nước ở tay đàn bà và ở tay kẻ hoạn... Vua xem sớ ngậm ngùi thở dài, đứng dậy thay áo. Tào Tiết khi ấy đứng hầu sau ngai nghe trộm thấy, trong lòng căm giận, bèn mách bảo đồng bọn, bàn mưu kiếm cớ vu hãm Sái Ung, cách quan đuổi về quê quán.
Về sau bọn hoạn quan là [[:w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]], [[:w:Triệu Trung|Triệu Trung]], Phong Tư, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoán, Hạ Huy, Quách Thắng, cả thảy mười người gọi là mười quan “Thường Thị”, bè đảng với nhau kéo cánh làm càn. Nhà vua tin dùng tôn trọng Trương Nhượng, gọi là “á phụ” (nghĩa là vua coi hắn như cha).
Từ đấy chính sự trong triều ngày càng đổ nát, lòng người náo loạn, giặc cướp nổi lên như ong.
Khi ấy ở đất [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]], có một nhà ba anh em: anh cả là [[:w:Trương Giác|Trương Giốc]], em hai là [[:w:Trương Bảo (Khăn Vàng)|Trương Bảo]], em út là [[:w:Trương Lương (Khăn Vàng)|Trương Lương]].
Trương Giốc vốn là học trò đi thi hỏng, nhân thế bực mình vào núi hái thuốc. Đi đường gặp một cụ già mặt tròn mắt biếc, tay chống gậy lê, gọi Trương Giốc vào trong một cái động, trao cho ba quyển sách và bảo rằng: “Thuật mầu nhiệm làm cho thiên hạ thái bình đều ở trong sách này. Ngươi nên thay trời dạy người, để cứu lấy đời. Nếu sau này manh tâm tà gian ắt bị ác báo”. Trương Giốc sụp xuống lạy, hỏi họ tên thì cụ già nói: “Ta là Nam Hoa lão tiên”, nói đoạn, hóa một trận gió biến mất.
Trương Giốc được ba quyển sách ấy đem về ngày đêm học tập, không bao lâu biết đủ các phép gió gọi mưa, tự xưng là ''Thái-bình đạo nhân''.
Đến tháng giêng, năm Trung Bình thứ nhất (184), có bệnh ôn dịch. Trương Giốc làm ra nước phép chữa bệnh, cứu được nhiều người, tự xưng là ''Đại hiền lương sư''. Giốc có đồ đệ năm trăm người, đi dạo các nơi, ai cũng biết phép thư phù niệm chú. Về sau đồ đệ càng ngày càng đông, Giốc bèn chia học trò ra ba mươi sáu phương, phương lớn hơn một vạn người, phương nhỏ sáu bảy nghìn người, phương nào cũng đặt một người làm thủ lĩnh xưng là đại tướng quân. Nói phao lên rằng: ''“Trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng”''. Lại nói: ''“Đến năm giáp tí, thiên hạ thái bình”''. Sai người lấy đất thó trắng viết hai chữ ''“Giáp tý”'' ở ngay giữa cửa. Nhân dân tám châu Thanh, U, Từ, Kế, Kinh, Dương, Duyện, Dự, nhà nào cũng thờ mấy chữ hiệu: ''“Đại hiền lương sư Trương Giốc”''.
Trương Giốc lại sai đồng đảng là [[:w:Mã Nguyên Nghĩa|Mã nguyên Nghĩa]] mật đem vàng lụa vào kinh kết giao với tên hoạn quan Phong Tư, để làm nội ứng, rồi bàn với hai em rằng: “Không gì khó bằng thu phục được lòng dân, nay lòng dân đã quy thuận về ta, nếu không thừa thế chiếm lấy thiên hạ thì thật là đáng tiếc lắm”.
Bèn một mặt sai may cờ vàng, hẹn ngày khởi sự, một mặt sai đồ đệ là Đường Châu đem thư báo cho Phong Tư biết. Nhưng Đường Châu lại đi thẳng đến cửa cung tố cáo.
[[Tập tin:He Jin Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Hà Tiến]]
Được tin, vua liền triệu quan đại tướng quân là [[:w:Hà Tiến|Hà Tiến]] điều binh bắt chém Mã nguyên Nghĩa và bắt cả bọn Phong Tư bỏ ngục. Trương Giốc thấy việc đã tiết lộ, vội vàng cử binh khởi sự, tự xưng là ''Thiên công tướng quân'', Trương Bảo xưng ''Địa công tướng quân'', Trương Lương xưng ''Nhân công tướng quân''; nói với mọi người rằng: “Nay vận nhà Hán sắp hết. Đại thánh nhân ra đời. Các ngươi nên thuận mệnh trời, theo về ta để cùng vui hưởng thái bình!”
Nhân dân bốn phương đội khăn vàng, đi theo Trương Giốc có tới bốn năm mươi vạn người. Thế giặc dữ dội, quan quân thua chạy như cỏ lướt theo ngọn gió. Hà Tiến một mặt tâu vua, xin hoả tốc xuống chiếu cho các nơi phòng giữ; một mặt sai ba quan trung-lang-tướng là [[:w:Lư Thực|Lư Thực]], [[:w:Hoàng Phủ Tung|Hoàng phủ Tung]], [[:w:Chu Tuấn|Chu Tuấn]] đem quân tinh nhuệ chia ra làm ba ngả dẹp giặc.
Trong khi ấy, quân Trương Giốc có một toán phạm vào bờ cõi U-châu. Quan Thái thú châu ấy là [[:w:Lưu Yên|Lưu Yên]], người làng [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]] đất Giang-hạ, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Dư|Lỗ Cung Vương nhà Hán]], nghe tin quân giặc sắp đến, liền triệu quan hiệu úy Châu Tĩnh đến bàn bạc. Tĩnh nói:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, ông nên tức khắc chiêu mộ thêm quân thì mới kịp ứng phó.
Lưu Yên cho là phải, bèn sai treo bảng mộ quân.
Khi bảng treo đến [[:w:Trác Châu|Trác-quận]] thì có ngay một vị anh hùng ra ứng mộ. Vị anh hùng ấy không thích đọc sách mấy, tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, vốn có chí lớn, chỉ thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Kể dáng người thì mình cao tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Thắng (Trung Sơn vương)|Trung-sơn Tĩnh-vương Lưu Thắng]], cháu năm đời vua [[:w:Hán Cảnh Đế|Cảnh-đế nhà Hán]], [[:w:Lưu Bị|họ Lưu, tên Bị]], tự là Huyền Đức.
Ngày trước con Lưu Thắng là Lưu Trinh, về đời vua [[:w:Hán Vũ Đế|Hán Vũ]], được phong làm Trác-lộc Đình-hầu, sau vì tội góp thiếu tiền cúng tế bị mất chức, vì vậy còn sót một ngành ở Trác-quận.
Ông của Huyền Đức là Lưu Hùng, cha là Lưu Hoằng. Hoằng thi đỗ hiếu-liêm, đã từng làm quan, nhưng mất sớm. Huyền Đức bồ côi cha, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn.
Nhà ở thôn Lâu-tang. Mé đông-nam nhà Huyền Đức có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, xa trông từng lớp trên xoè ra như cái tán che cỗ xe. Có người thầy tướng đi qua trông thấy khen rằng: “Nhà có cây dâu này tất sinh quý tử”. Lúc Huyền Đức còn thơ ấu, cùng trẻ con chơi dưới gốc dâu, thường vẫn nói rằng: “Ngày sau ta làm vua, cũng ngự cái xe có tàn che như cây dâu này”. Người chú là Lưu nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ bảo rằng: “Thằng bé này không phải người thường”. Nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo, thường tư cấp cho.
Huyền Đức, năm 15 tuổi, mẹ cho đi học, thờ Trịnh Huyền và Lưu Thực làm thầy và cùng với [[:w:Công Tôn Toản|Công tôn Toản]] kết bạn học. Lúc Lưu Yên treo bảng mộ quân, thì Huyền Đức 28 tuổi.
Bấy giờ Huyền Đức đọc bảng văn rồi thở dài. Bỗng thấy một người đứng phía sau nói lớn lên rằng: “Đại trượng phu như ông, không ra giúp nước, đứng thở dài đó, được việc chi?”.
Huyền Đức ngoảnh lại nhìn: người ấy mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng vang như sấm. Huyền Đức thấy dung mạo khác thường, liền hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Trương Phi|họ Trương tên Phi]], tự là Dực Đức, ở Trác-quận đã lâu đời. Gia tư có ít ruộng, vườn, trại và mở ngôi hàng bán rượu, thịt chó. Tôi chỉ thích kết giao với hào kiệt trong thiên hạ. Vừa rồi thấy ông xem bảng văn rồi thở dài, nên tôi mới hỏi.
Huyền Đức nói:
- Tôi đây vốn dòng dõi nhà Hán, họ Lưu tên Bị; nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, có chí ra dẹp giặc yên dân, chỉ hiềm sức mình không nổi, nên mới thở dài.
Phi nói:
- Nhà tôi gia tư cũng khá. Ý tôi muốn chiêu mộ hương dũng, cùng ông mưu đồ việc lớn, ông tính sao?
Huyền Đức mừng lắm. Hai người bèn rủ nhau vào hàng uống rượu.
Đương đánh chén, bỗng thấy một người cao lớn lực lưỡng, đẩy một cỗ xe đến cửa, vào hàng ngồi phịch xuống, gọi nhà hàng:
- Rượu mau lên! Để ta uống xong còn vào thành ứng mộ!
Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt như hai quả táo chồng lên nhau, môi như tô son, mắt phượng mày tằm oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Quan Vũ|họ Quan tên Vũ]], tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân Trường, người làng Giải-lương, tỉnh Hà-đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế hiếp người tôi bèn giết chết rồi đi trốn tránh, đã năm, sáu năm nay rồi. Nay nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc, nên tôi đến ứng mộ.
Huyền Đức cũng đem chí mình ra nói, Vân Trường rất mừng. Bèn cùng đến trại của Trương Phi bàn tính việc lớn. Phi nói:
- Sau trại tôi có một vườn đào đang nở hoa đẹp lắm; ngày mai nên làm lễ tế trời đất ở trong vườn, ba chúng ta kết làm anh em, cùng lòng hợp sức, sau mới có thể tính được việc lớn.
Huyền Đức, Vân Trường đều nói:
- Như thế tốt lắm.
[[Tập tin:Peach garden ceremony.jpg|nhỏ|phải|Kết nghĩa vườn đào. Tranh đời Minh (1591).]]
Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người đốt hương lạy hai lạy thề rằng:
- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh em, thì phải cùng lòng hợp sức, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định nạn dân. Chúng tôi không cần sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu thể, soi xét lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết.
Thề xong, tôn Huyền Đức làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út. Mổ trâu đặt tiệc, tụ họp dũng sĩ trong làng được ba trăm người, cũng đến vườn đào uống một bữa thật say. Hôm sau sửa soạn khí giới, đương lo còn thiếu ngựa cưỡi, thì thấy báo có hai người lái buôn dắt một đàn ngựa đến trại.
Huyền Đức nói:
- Thực là trời giúp chúng ta.
Nói đoạn ba người cùng ra cửa trại đón.
Nguyên hai người khách ấy đều là lái buôn lớn ở huyện [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]], một người tên Trương thế Bình, một người tên Tô Song, hàng năm vẫn đem ngựa lên bán miền bắc, chỉ vì lúc ấy dọc đường nhiều giặc cướp, nên quay trở về. Huyền Đức mời hai người vào trại, làm rượu khoản đãi, và nói rõ ý mình đang muốn dẹp giặc yên dân. Hai người cả mừng, tình nguyện tặng năm mươi con ngựa tốt, năm trăm lạng vàng bạc và một nghìn cân sắt để làm khí giới.
[[Tập tin:Guan yu -Summer Palace, Beijing.JPG|phải|nhỏ|Vân Trường cầm thanh long đao. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Huyền Đức cảm tạ hai người khách và tiễn lên đường, rồi sai gọi thợ sắt đến đánh hai thanh kiếm. Vân Trường đánh một thanh long đao nặng tám mươi hai cân, Trương Phi đánh một ngọn xà mâu dài một trượng tám thước. Mỗi người làm một bộ áo giáp, họp hương dũng được hơn năm trăm người, đem nhau đến gặp Châu Tĩnh. Châu Tĩnh đưa đi yết kiến quan thái thú Lưu Yên. Ba người thi lễ xong, đều xưng họ tên. Huyền Đức kể rõ tôn phái, Lưu Yên cả mừng nhận Huyền Đức là cháu.
Vài hôm sau, có tin báo tướng giặc khăn vàng là Trình viễn Chí đem năm vạn quân đến đánh Trác-quận. Lưu Yên sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân đi trước phá giặc. Ba anh em Huyền Đức vui mừng hớn hở đi ngay. Lúc đến dưới núi Đại-hưng, thấy quân giặc đều xoã tóc chít khăn vàng. Hai bên đối trận, Huyền Đức nhảy ngựa vụt ra, tả có Vân Trường, hữu có Dực Đức, giơ roi mắng lớn:
- Quân giặc phản nước kia! Sao không xuống ngựa hàng ngay đi.
[[Tập tin:Three Brothers during the Yellow Turban Rebellion.jpg|nhỏ|phải|Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu.]]
Trình viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu ra đánh. Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu. Đặng Mậu ngã lăn xuống ngựa chết.
Trình viễn Chí thấy vậy, thúc ngựa múa đao xông thẳng vào định chém Trương Phi. Tức thì Vân Trường múa long đao tế ngựa ra đón địch. Trình viễn Chí trông thấy hoảng sợ, chưa kịp trở tay đã bị đao Vân Trường xả làm hai đoạn.
Đời sau có thơ khen rằng:
<poem>
''Anh hùng xuất hiện buổi sơ đầu''
''Người thử siêu đao kẻ thử mâu.''
''Mới bước chân ra uy đã dữ''
''Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau.''
</poem>
Quân giặc thấy Trình viễn Chí bị chém, đều vác ngược giáo ù té chạy. Huyền Đức thúc quân đuổi theo, giặc hàng không biết bao nhiêu mà kể. Ba người đại thắng kéo quân trở về, Lưu Yên thân ra đón tiếp, khao thưởng ba quân.
Hôm sau, Lưu Yên tiếp được tờ điệp của quan thái thú [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]] tên là Cung Cảnh, báo tin bị giặc khăn vàng bao vây, thành sắp vỡ, kíp xin cho quân đến cứu. Lưu Yên bàn với Huyền Đức. Huyền Đức nói:
- Bị này tình nguyện đem quân đi cứu.
Lưu Yên bèn sai Châu Tĩnh đem năm nghìn quân cùng Huyền Đức, Quan, Trương kéo đến Thanh-châu.
Giặc thấy có quân đến cứu, chia quân đón đánh. Huyền Đức thấy quân mình ít, khó đánh được, lui ba mươi dặm đóng trại. Huyền Đức bảo Quan, Trương rằng:
- Giặc nhiều, ta ít, tất phải dùng kỳ binh mới có thể thắng được.
Bèn sai Vân Trường dẫn một nghìn quân phục bên tả núi, Trương Phi dẫn một nghìn quân phục bên hữu núi, hẹn rằng nghe tiếng chiêng thì cùng kéo ra tiếp ứng.
Ngày hôm sau Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân đánh trống hò reo thẳng tiến. Quân giặc vội vã kéo ra đón đánh, Huyền Đức lui binh ngay. Giặc thừa thế đuổi tràn. Vừa qua sườn núi, trong quân Huyền Đức khua chiêng vang lên. Hai đạo quân tả hữu xô ra. Huyền Đức thúc quân quay lại, ba mặt giáp đánh, quân giặc thua to, chạy đến dưới thành Thanh-châu, quan thái thú Cung Cảnh cũng đem dân binh ra trợ chiến, quân giặc bị chết rất nhiều, giải được vòng vây.
Đời sau có thơ khen Huyền Đức rằng:
<poem>
''Bày mưu đặt mẹo khéo ra công,''
''Đôi hổ chung quy kém một rồng.''
''Buổi mới đã nên công trạng lớn,''
''Chia ba chân vạc đáng anh hùng.''
</poem>
Cung Cảnh khao quân xong, Châu Tĩnh muốn về. Huyền Đức nói:
- Mới rồi nghe tin quan trung-lang-tướng Lư Thực cùng Trương Giốc đánh nhau ở [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]. Bị này trước kia có học Lư tướng quân, nghĩa đạo thầy trò, muốn sang giúp sức.
Châu Tĩnh dẫn quân về một mình, còn Huyền Đức cùng Quan, Trương dẫn năm trăm quân bản bộ sang Quảng-tôn.
Khi ba người đến dinh quân Lư Thực, vào trướng thi lễ, bày tỏ ý kiến mình, thì Lư Thực mừng lắm, lưu ở trướng tiền đợi khi dùng đến.
Bấy giờ quân Trương Giốc mười lăm vạn, quân Lư Thực năm vạn, đang chống nhau ở Quảng-tôn, chưa rõ bên nào thua được.
Một hôm Lư Thực bảo Huyền Đức rằng:
- Trương Giốc đã bị ta vây ở đây rồi. Duy hai em nó là Trương Bảo, Trương Lương đang chống nhau với Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn ở [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]. Ông nên đem quân ngay bản bộ và một nghìn quân ta giúp thêm, đến thẳng Dĩnh-xuyên dò xem tin tức ra sao, rồi cùng nhau hẹn ngày tiến đánh.
Huyền Đức lĩnh mệnh, đem quân đi cả ngày đêm đến Dĩnh Xuyên.
Lúc ấy Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đem quân đánh giặc, giặc bị thua luôn, phải lui về [[:w:Trường Cát|Trường-xã]], dựa theo bụi rậm đóng trại. Tung bàn với Tuấn rằng:
- Quân giặc dựa vào chỗ có cỏ rậm đóng quân thì ta nên dùng mẹo hoả công.
Bèn sai quân sĩ mỗi người bó một bó cỏ, ngầm đi mai phục. Đêm ấy trời nổi cơn gió lớn, vào khoảng canh hai, quân phục kéo vào phóng hoả, Tung và Tuấn đều dẫn quân đến đánh, khói lửa ngụt trời, quân giặc hoảng sợ, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp thắng yên, xô nhau mà chạy. Đôi bên đánh nhau đến sáng, Trương Lương, Trương Bảo phải dẫn tàn quân cướp đường mà chạy. Bỗng thấy một toán quân mã kéo toàn cờ đỏ xông ra chặn đường. Một tướng đi đầu, mình cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài.
[[Tập tin:Cao_Cao_Portrait_ROTK.jpg|nhỏ|phải|Tào Tháo. Tranh minh họa đời [[:w:Nhà Thanh|Thanh]].]]
Viên tướng ấy là ai? Tức là quan kỵ-đô-uý, người ở [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]] nước Bái, [[:w:Tào Tháo|họ Tào tên Tháo]] tự là Mạnh Đức.
Cha Tào Tháo là [[:w:Tào Tung|Tào Tung]], vốn xưa họ Hạ hầu, nhận làm con nuôi quan trung-thường-thị [[:w:Tào Đằng|Tào Đằng]], nên đổi theo họ Tào. Tháo tiểu tự là A Man, và đặt một tên nữa là Cát Lợi. Lúc Tháo còn trẻ, thì chỉ thích chơi săn, ham múa hát, nổi tiếng là một tay cơ biến quyền mưu. Người chú Tháo thấy Tháo chơi bời hoang phiếm, giận lắm, đem nói với Tào Tung. Tung trách mắng Tháo. Tháo nghĩ ngay một kế, lúc thấy chú đến, giả tảng nằm quay ra đất, làm như trúng phong. Chú Tháo thấy vậy cả sợ, chạy đến bảo Tung, Tung vội lại xem, thấy Tháo không có bệnh chi cả, bèn hỏi:
- Chú mày nói mày trúng phong, đã khỏi rồi à?
- Thưa cha, thuở bé đến giờ con có bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú con ghét con cho nên đặt điều ra thế.
Tung tưởng thật. Từ đấy người chú kể tội Tháo, Tung đều không nghe nữa, nhân thế Tháo càng được tự do phóng đãng hơn xưa.
Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì không sao yên được loạn. Làm được như thế có lẽ chỉ có bác.
Người đất [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]] là Hà Ngung một hôm trông thấy Tháo cũng tán tụng rằng:
- Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chắc chỉ có người này!
Người đất [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]] là Hứa Thiệu có tiếng là giỏi biết người, Tháo thân đến hỏi:
- Như tôi là người thế nào?
Thiệu không giả lời.
Tháo hỏi lại lần nữa.
Thiệu nói:
- Anh là năng thần<ref>Ông quan giỏi.</ref> của đời trị và gian hùng của đời loạn.
Tháo nghe nói cả mừng.
Năm Tháo hai mươi tuổi thi đỗ hiếu-liêm, bổ làm quan lang, sau lại thăng chức đô-uý huyện Lạc-dương. Lúc mới đến nhậm chức, Tháo sai treo hơn mười cái roi ngũ sắc ở bốn cửa huyện, không kể hào quý hễ ai phạm phép đều không tha. Chú quan trung-thường-thị Kiển Thạc vác dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt được cũng đem nọc đánh ngay. Bởi thế trong ngoài kinh sợ, không ai dám làm trái phép. Sau Tháo thăng chức lệnh-doãn [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]. Nhân giặc khăn vàng nổi loạn, lại được thăng làm quan kỵ-đô-uý, đem năm nghìn quân mã bộ đến Dĩnh-xuyên giúp đánh, tình cờ dọc đường, gặp Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tháo đón đánh một trận kịch liệt chém giết hơn một vạn người, cướp được cờ, trống, ngựa, khí giới rất nhiều. Lương, Bảo cố chết mới chạy thoát. Tháo vào hội kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn rồi lại dẫn quân đi đuổi Trương Lương, Trương Bảo ngay.
Nhắc lại Huyền Đức dẫn Quan, Trương đi gần đến Dĩnh-xuyên, nghe tiếng reo hò đánh nhau, lại trông thấy lửa sáng rực trời, vội thúc quân kéo đến, tới nơi giặc đã chạy tan hết rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn, đem ý kiến Lư Thực ra bày tỏ, Tung nói:
- Nay Trương Lương, Trương Bảo thế cùng lực kiệt, tất chạy đến Quảng-tôn nương nhờ Trương Giốc. Ông nên đi gấp đường về giúp ngay Lư Thực.
Huyền Đức nghe lời, dẫn quân trở lại.
Khi mới đi được nửa đường, gặp một toán người ngựa, áp giải một tù xa<ref>Xe chở người tù.</ref>, trên xe có một cái cũi nhốt một người tù té ra chính là Lư Thực. Huyền Đức giật mình kinh hãi, vội chạy xuống ngựa đến hỏi thăm. Thực nói:
- Ta vây đánh Trương Giốc, sắp sửa phá tan, chỉ vì Giốc dùng yêu thuật, nên còn nhùng nhằng chưa phá hẳn được. Triều đình sai viên hoàng môn tên là Tả Phong đến dò xét quân lính. Phong đòi ăn của đút không được, vì lương quân còn thiếu, tiền đâu mà cung đốn họ, bởi thế Tả Phong căm giận, về triều tâu man cho ta lười biếng không chịu đánh giặc, làm cho lòng quân chán nản. Triều đình nổi giận, sai quan trung-lang-tướng [[:w:Đổng Trác|Đổng Trác]] đến cầm quân thay ta, và bắt ta về kinh hỏi tội.
Trương Phi nghe nói, nổi giận đùng đùng, toan giết hết toán quân áp giải để cứu Lư Thực. Huyền Đức vội ngăn lại bảo rằng:
- Không nên, triều đình đã có công luận, chú không được xử sự một cách nóng nảy như thế.
Quân sĩ lại giải Lư Thực đi.
Quan Công nói:
- Nay Lư trung-lang đã bị bắt, người khác thay quyền, chúng ta đến đấy cũng vô ích, chi bằng hãy về Trác-quận.
Huyền Đức lấy làm phải, bèn dẫn quân về phía bắc.
Đi được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng đánh nhau hò hét. Huyền Đức cùng Quan, Trương cưỡi ngựa lên đồi cao trông xem, thấy quân Hán bị thua đương chạy, giặc khăn vàng đông như kiến cỏ đương đuổi theo sau, trên lá cờ viết bốn chữ “Thiên công tướng quân” rất lớn. Huyền Đức nói:
- Trương Giốc đây rồi, đánh ngay đi.
Ba người đều phi ngựa dẫn quân ra đánh. Lúc ấy Trương Giốc đương thừa thắng đuổi Đổng Trác, bỗng gặp ba người đem quân chẹn đánh, quân Giốc hoảng loạn, phải thua chạy đến ngoài năm mươi dặm.
[[Tập tin:Dong_Zhuo_Portrait.jpg|phải|nhỏ|Đổng Trác. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Ba người cứu được Đổng Trác về trại, Trác hỏi ba người hiện làm quan gì?
Huyền Đức nói còn là chân trắng.
Trác khinh thường, không thèm đáp tạ lại.
Huyền Đức đi ra, Trương Phi cả giận nói rằng:
- Thằng “mọi” này láo quá. Chúng ta lăn lộn vào đất chết để cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người đến thế, nếu không giết nó, không sao hả được giận này.
Bèn cầm dao vào trướng định giết Đổng Trác.
Đó chính là:
<poem>
''Nhân tình thế lợi vẫn xưa nay''
''Ai biết anh hùng lúc trắng tay''
''Nếu được người người như Dực Đức.''
''Trên đời hẳn hết kẻ không hay.''
</poem>
Muốn biết tính mạng Đổng Trác thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích cuối trang}}
eapvf4p3ov1rxp24egb0f81p5ig52f8
141418
141417
2022-08-19T16:00:26Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 1
| trước =
| sau = [[../Hồi 2|Hồi 2]]
| ghi chú =
}}
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Location map+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Những địa danh được đề cập trong Hồi thứ nhất
|places=
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=left|label=1}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=41|lat_min=30.51|lon_deg=108|lon_min=37|background=white|position=left|label=2}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=3|lat_sec=58|lon_deg=115|lon_min=1|lon_sec=8|background=white|position=left|label=3}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=40|lat_min=2|lat_sec=11.25|lon_deg=117|lon_min=23|lon_sec=49.39|background=white|position=left|label=4}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=55|lat_sec=6.24|lon_deg=113|lon_min=53|lon_sec=54.37|background=white|position=left|label=5}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=39|lat_min=29|lon_deg=115|lon_min=58|background=white|position=left|label=6}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=01|lon_deg=110|lon_min=59|background=white|position=left|label=7}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=51|lat_sec=22.63|lon_deg=115|lon_min=28|lon_sec=41.99|background=white|position=left|label=8}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=41|lat_sec=48|lon_deg=118|lon_min=28|lon_sec=47|background=white|position=left|label=9}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=4|lat_sec=22.53|lon_deg=115|lon_min=8|lon_sec=57.69|background=white|position=right|label=10}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=9|lat_sec=48.12|lon_deg=113|lon_min=27|lon_sec=39.06|background=white|position=top|label=11}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=12|lat_sec=49.21|lon_deg=113|lon_min=45|lon_sec=46.55|background=white|position=right|label=12}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=52|lat_sec=26.40|lon_deg=115|lon_min=45|lon_sec=56.88|background=white|position=top|label=13}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=45.53|lon_deg=112|lon_min=31|lon_sec=36.48|background=white|position=left|label=14}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=52.47|lon_deg=114|lon_min=20|lon_sec=32.28|background=white|position=right|label=15}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=53|lat_sec=24.71|lon_deg=115|lon_min=5|lon_sec=20.39|background=white|position=left|label=16}}
}}
</div></div>
{| style="margin-left: auto; margin-right: auto; border: none;"
|
: 1. [[w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]]
: 2. [[w:Ngũ Nguyên|Ngũ Nguyên]]
: 3. [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]]
: 4. U-châu
: 5. [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]]
: 6. [[:w:Trác Châu|Trác-quận]]
|
: 7. Giải-lương
: 8. [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]]
: 9. [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]]
: 10. [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]
: 11. [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]
|
: 12. [[:w:Trường Cát|Trường-xã]]
: 13. [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]]
: 14. [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]]
: 15. [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]]
: 16. [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ NHẤT
<poem>
'''Yến vườn đào, anh hùng kết nghĩa'''
'''Chém khăn vàng, hào kiệt lập công'''</poem>
}}
Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan: như hết đời nhà Chu, bảy nước tranh giành xâu xé nhau rồi sau lại hợp về [[:w:Nhà Tần|nhà Tần]]. Đến khi nhà Tần mất, thì [[:w:Chiến tranh Hán-Sở|Hán, Sở tranh hùng]] rồi sau thiên hạ lại hợp về tay [[:w:Nhà Hán|nhà Hán]].
Nhà Hán, từ lúc [[:w:Hán Cao Tổ|vua Cao tổ (Bái Công)]] chém rắn trắng khởi nghĩa, thống nhất được thiên hạ, sau [[:w:Hán Quang Vũ Đế|vua Quang Vũ]] lên ngôi, rồi truyền mãi đến [[:w:Hán Hiến Đế|vua Hiến-đế]]; lúc bấy giờ lại chia ra thành ba nước. (Do đó có truyện Tam Quốc).
Truy nguyên xem cuộc biến loạn ấy ở đâu mà ra, thì gốc loạn trước hết từ hai vua [[:w:Hán Hoàn Đế|Hoàn-đế]] và [[:w:Hán Linh Đế|Linh-đế]]. Vua Hoàn-đế tin dùng lũ hoạn quan, cấm cố những người hiền sĩ. Đến lúc vua Hoàn-đế mất, vua Linh-đế lên ngôi nối nghiệp, được quan đại tướng quân [[:w:Đậu Vũ|Đậu Vũ]], quan thái phó [[:w:Trần Phồn|Trần Phồn]] là những người tài giỏi giúp đỡ. Khi ấy, trong triều có bọn hoạn quan là lũ [[:w:Tào Tiết (hoạn quan)|Tào Tiết]] lộng quyền, Đậu Vũ, Trần Phồn lập mưu định trừ bọn ấy đi, nhưng vì cơ mưu tiết lộ nên lại bị chúng nó giết mất. Từ đấy, bọn hoạn quan ngày càng ngạo ngược.
Ngày rằm tháng tư năm Kiến Ninh thứ hai (167 sau Thiên chúa) vua ngự điện Ôn Đức. Tự nhiên có cơn gió to ầm ầm từ góc điện nổi lên, rồi thấy một con rắn xanh lớn ở trên xà nhà quăng xuống quằn quại trên long án. Vua kinh hoảng ngã đùng ra, các quan tả hữu vội cứu vực vào cung; ở ngoài văn võ cũng sợ chạy cả. Được một lát con rắn biến mất và bỗng nhiên mưa to, sấm sét ầm ầm; lại thêm mưa đá rào rào mãi đến nửa đêm mới tạnh, đổ nhà đổ cửa không biết bao nhiêu mà kể.
Tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư (169) tỉnh [[:w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]] có động đất, nước bể dâng lên ngập lưng trời, những dân cư ở ven bể bị sóng lớn cuốn trôi đi mất cả.
Năm Quang Hòa thứ nhất (178), một con gà mái tự dưng hóa ra gà sống. Mồng 1 tháng 6 năm ấy, một luồng khí đen dài chừng hơn mười trượng bay vào trong điện Ôn Đức. Qua sang tháng bảy lại có lắm điều gở lạ; cầu vồng mọc ở giữa Ngọc đường; rặng núi [[:w:Ngũ Nguyên|Ngũ nguyên]] bỗng dưng lở sụt xuống.
Vua hạ chiếu hỏi quần thần xem tự đâu mà sinh ra những điềm gở lạ ấy. Có quan nghị lang là Sái Ung dâng sớ lên, lời lẽ thống thiết, nói rằng: cầu vồng sa xuống, gà mái hóa sống, ấy là bởi quyền chính trong nước ở tay đàn bà và ở tay kẻ hoạn... Vua xem sớ ngậm ngùi thở dài, đứng dậy thay áo. Tào Tiết khi ấy đứng hầu sau ngai nghe trộm thấy, trong lòng căm giận, bèn mách bảo đồng bọn, bàn mưu kiếm cớ vu hãm Sái Ung, cách quan đuổi về quê quán.
Về sau bọn hoạn quan là [[:w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]], [[:w:Triệu Trung|Triệu Trung]], Phong Tư, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoán, Hạ Huy, Quách Thắng, cả thảy mười người gọi là mười quan “Thường Thị”, bè đảng với nhau kéo cánh làm càn. Nhà vua tin dùng tôn trọng Trương Nhượng, gọi là “á phụ” (nghĩa là vua coi hắn như cha).
Từ đấy chính sự trong triều ngày càng đổ nát, lòng người náo loạn, giặc cướp nổi lên như ong.
Khi ấy ở đất [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]], có một nhà ba anh em: anh cả là [[:w:Trương Giác|Trương Giốc]], em hai là [[:w:Trương Bảo (Khăn Vàng)|Trương Bảo]], em út là [[:w:Trương Lương (Khăn Vàng)|Trương Lương]].
Trương Giốc vốn là học trò đi thi hỏng, nhân thế bực mình vào núi hái thuốc. Đi đường gặp một cụ già mặt tròn mắt biếc, tay chống gậy lê, gọi Trương Giốc vào trong một cái động, trao cho ba quyển sách và bảo rằng: “Thuật mầu nhiệm làm cho thiên hạ thái bình đều ở trong sách này. Ngươi nên thay trời dạy người, để cứu lấy đời. Nếu sau này manh tâm tà gian ắt bị ác báo”. Trương Giốc sụp xuống lạy, hỏi họ tên thì cụ già nói: “Ta là Nam Hoa lão tiên”, nói đoạn, hóa một trận gió biến mất.
Trương Giốc được ba quyển sách ấy đem về ngày đêm học tập, không bao lâu biết đủ các phép gió gọi mưa, tự xưng là ''Thái-bình đạo nhân''.
Đến tháng giêng, năm Trung Bình thứ nhất (184), có bệnh ôn dịch. Trương Giốc làm ra nước phép chữa bệnh, cứu được nhiều người, tự xưng là ''Đại hiền lương sư''. Giốc có đồ đệ năm trăm người, đi dạo các nơi, ai cũng biết phép thư phù niệm chú. Về sau đồ đệ càng ngày càng đông, Giốc bèn chia học trò ra ba mươi sáu phương, phương lớn hơn một vạn người, phương nhỏ sáu bảy nghìn người, phương nào cũng đặt một người làm thủ lĩnh xưng là đại tướng quân. Nói phao lên rằng: ''“Trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng”''. Lại nói: ''“Đến năm giáp tí, thiên hạ thái bình”''. Sai người lấy đất thó trắng viết hai chữ ''“Giáp tý”'' ở ngay giữa cửa. Nhân dân tám châu Thanh, U, Từ, Kế, Kinh, Dương, Duyện, Dự, nhà nào cũng thờ mấy chữ hiệu: ''“Đại hiền lương sư Trương Giốc”''.
Trương Giốc lại sai đồng đảng là [[:w:Mã Nguyên Nghĩa|Mã nguyên Nghĩa]] mật đem vàng lụa vào kinh kết giao với tên hoạn quan Phong Tư, để làm nội ứng, rồi bàn với hai em rằng: “Không gì khó bằng thu phục được lòng dân, nay lòng dân đã quy thuận về ta, nếu không thừa thế chiếm lấy thiên hạ thì thật là đáng tiếc lắm”.
Bèn một mặt sai may cờ vàng, hẹn ngày khởi sự, một mặt sai đồ đệ là Đường Châu đem thư báo cho Phong Tư biết. Nhưng Đường Châu lại đi thẳng đến cửa cung tố cáo.
[[Tập tin:He Jin Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Hà Tiến]]
Được tin, vua liền triệu quan đại tướng quân là [[:w:Hà Tiến|Hà Tiến]] điều binh bắt chém Mã nguyên Nghĩa và bắt cả bọn Phong Tư bỏ ngục. Trương Giốc thấy việc đã tiết lộ, vội vàng cử binh khởi sự, tự xưng là ''Thiên công tướng quân'', Trương Bảo xưng ''Địa công tướng quân'', Trương Lương xưng ''Nhân công tướng quân''; nói với mọi người rằng: “Nay vận nhà Hán sắp hết. Đại thánh nhân ra đời. Các ngươi nên thuận mệnh trời, theo về ta để cùng vui hưởng thái bình!”
Nhân dân bốn phương đội khăn vàng, đi theo Trương Giốc có tới bốn năm mươi vạn người. Thế giặc dữ dội, quan quân thua chạy như cỏ lướt theo ngọn gió. Hà Tiến một mặt tâu vua, xin hoả tốc xuống chiếu cho các nơi phòng giữ; một mặt sai ba quan trung-lang-tướng là [[:w:Lư Thực|Lư Thực]], [[:w:Hoàng Phủ Tung|Hoàng phủ Tung]], [[:w:Chu Tuấn|Chu Tuấn]] đem quân tinh nhuệ chia ra làm ba ngả dẹp giặc.
Trong khi ấy, quân Trương Giốc có một toán phạm vào bờ cõi U-châu. Quan Thái thú châu ấy là [[:w:Lưu Yên|Lưu Yên]], người làng [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]] đất Giang-hạ, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Dư|Lỗ Cung Vương nhà Hán]], nghe tin quân giặc sắp đến, liền triệu quan hiệu úy Châu Tĩnh đến bàn bạc. Tĩnh nói:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, ông nên tức khắc chiêu mộ thêm quân thì mới kịp ứng phó.
Lưu Yên cho là phải, bèn sai treo bảng mộ quân.
Khi bảng treo đến [[:w:Trác Châu|Trác-quận]] thì có ngay một vị anh hùng ra ứng mộ. Vị anh hùng ấy không thích đọc sách mấy, tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, vốn có chí lớn, chỉ thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Kể dáng người thì mình cao tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Thắng (Trung Sơn vương)|Trung-sơn Tĩnh-vương Lưu Thắng]], cháu năm đời vua [[:w:Hán Cảnh Đế|Cảnh-đế nhà Hán]], [[:w:Lưu Bị|họ Lưu, tên Bị]], tự là Huyền Đức.
Ngày trước con Lưu Thắng là Lưu Trinh, về đời vua [[:w:Hán Vũ Đế|Hán Vũ]], được phong làm Trác-lộc Đình-hầu, sau vì tội góp thiếu tiền cúng tế bị mất chức, vì vậy còn sót một ngành ở Trác-quận.
Ông của Huyền Đức là Lưu Hùng, cha là Lưu Hoằng. Hoằng thi đỗ hiếu-liêm, đã từng làm quan, nhưng mất sớm. Huyền Đức bồ côi cha, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn.
Nhà ở thôn Lâu-tang. Mé đông-nam nhà Huyền Đức có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, xa trông từng lớp trên xoè ra như cái tán che cỗ xe. Có người thầy tướng đi qua trông thấy khen rằng: “Nhà có cây dâu này tất sinh quý tử”. Lúc Huyền Đức còn thơ ấu, cùng trẻ con chơi dưới gốc dâu, thường vẫn nói rằng: “Ngày sau ta làm vua, cũng ngự cái xe có tàn che như cây dâu này”. Người chú là Lưu nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ bảo rằng: “Thằng bé này không phải người thường”. Nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo, thường tư cấp cho.
Huyền Đức, năm 15 tuổi, mẹ cho đi học, thờ Trịnh Huyền và Lưu Thực làm thầy và cùng với [[:w:Công Tôn Toản|Công tôn Toản]] kết bạn học. Lúc Lưu Yên treo bảng mộ quân, thì Huyền Đức 28 tuổi.
Bấy giờ Huyền Đức đọc bảng văn rồi thở dài. Bỗng thấy một người đứng phía sau nói lớn lên rằng: “Đại trượng phu như ông, không ra giúp nước, đứng thở dài đó, được việc chi?”.
Huyền Đức ngoảnh lại nhìn: người ấy mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng vang như sấm. Huyền Đức thấy dung mạo khác thường, liền hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Trương Phi|họ Trương tên Phi]], tự là Dực Đức, ở Trác-quận đã lâu đời. Gia tư có ít ruộng, vườn, trại và mở ngôi hàng bán rượu, thịt chó. Tôi chỉ thích kết giao với hào kiệt trong thiên hạ. Vừa rồi thấy ông xem bảng văn rồi thở dài, nên tôi mới hỏi.
Huyền Đức nói:
- Tôi đây vốn dòng dõi nhà Hán, họ Lưu tên Bị; nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, có chí ra dẹp giặc yên dân, chỉ hiềm sức mình không nổi, nên mới thở dài.
Phi nói:
- Nhà tôi gia tư cũng khá. Ý tôi muốn chiêu mộ hương dũng, cùng ông mưu đồ việc lớn, ông tính sao?
Huyền Đức mừng lắm. Hai người bèn rủ nhau vào hàng uống rượu.
Đương đánh chén, bỗng thấy một người cao lớn lực lưỡng, đẩy một cỗ xe đến cửa, vào hàng ngồi phịch xuống, gọi nhà hàng:
- Rượu mau lên! Để ta uống xong còn vào thành ứng mộ!
Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt như hai quả táo chồng lên nhau, môi như tô son, mắt phượng mày tằm oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Quan Vũ|họ Quan tên Vũ]], tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân Trường, người làng Giải-lương, tỉnh Hà-đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế hiếp người tôi bèn giết chết rồi đi trốn tránh, đã năm, sáu năm nay rồi. Nay nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc, nên tôi đến ứng mộ.
Huyền Đức cũng đem chí mình ra nói, Vân Trường rất mừng. Bèn cùng đến trại của Trương Phi bàn tính việc lớn. Phi nói:
- Sau trại tôi có một vườn đào đang nở hoa đẹp lắm; ngày mai nên làm lễ tế trời đất ở trong vườn, ba chúng ta kết làm anh em, cùng lòng hợp sức, sau mới có thể tính được việc lớn.
Huyền Đức, Vân Trường đều nói:
- Như thế tốt lắm.
[[Tập tin:Oath of the Peach Garden at Long Corridor.JPG|nhỏ|giữa|500px|Lưu Quan Trương kết nghĩa vườn đào. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người đốt hương lạy hai lạy thề rằng:
- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh em, thì phải cùng lòng hợp sức, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định nạn dân. Chúng tôi không cần sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu thể, soi xét lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết.
Thề xong, tôn Huyền Đức làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út. Mổ trâu đặt tiệc, tụ họp dũng sĩ trong làng được ba trăm người, cũng đến vườn đào uống một bữa thật say. Hôm sau sửa soạn khí giới, đương lo còn thiếu ngựa cưỡi, thì thấy báo có hai người lái buôn dắt một đàn ngựa đến trại.
Huyền Đức nói:
- Thực là trời giúp chúng ta.
Nói đoạn ba người cùng ra cửa trại đón.
Nguyên hai người khách ấy đều là lái buôn lớn ở huyện [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]], một người tên Trương thế Bình, một người tên Tô Song, hàng năm vẫn đem ngựa lên bán miền bắc, chỉ vì lúc ấy dọc đường nhiều giặc cướp, nên quay trở về. Huyền Đức mời hai người vào trại, làm rượu khoản đãi, và nói rõ ý mình đang muốn dẹp giặc yên dân. Hai người cả mừng, tình nguyện tặng năm mươi con ngựa tốt, năm trăm lạng vàng bạc và một nghìn cân sắt để làm khí giới.
[[Tập tin:Guan yu -Summer Palace, Beijing.JPG|phải|nhỏ|Vân Trường cầm thanh long đao. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Huyền Đức cảm tạ hai người khách và tiễn lên đường, rồi sai gọi thợ sắt đến đánh hai thanh kiếm. Vân Trường đánh một thanh long đao nặng tám mươi hai cân, Trương Phi đánh một ngọn xà mâu dài một trượng tám thước. Mỗi người làm một bộ áo giáp, họp hương dũng được hơn năm trăm người, đem nhau đến gặp Châu Tĩnh. Châu Tĩnh đưa đi yết kiến quan thái thú Lưu Yên. Ba người thi lễ xong, đều xưng họ tên. Huyền Đức kể rõ tôn phái, Lưu Yên cả mừng nhận Huyền Đức là cháu.
Vài hôm sau, có tin báo tướng giặc khăn vàng là Trình viễn Chí đem năm vạn quân đến đánh Trác-quận. Lưu Yên sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân đi trước phá giặc. Ba anh em Huyền Đức vui mừng hớn hở đi ngay. Lúc đến dưới núi Đại-hưng, thấy quân giặc đều xoã tóc chít khăn vàng. Hai bên đối trận, Huyền Đức nhảy ngựa vụt ra, tả có Vân Trường, hữu có Dực Đức, giơ roi mắng lớn:
- Quân giặc phản nước kia! Sao không xuống ngựa hàng ngay đi.
[[Tập tin:Three Brothers during the Yellow Turban Rebellion.jpg|nhỏ|phải|Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu.]]
Trình viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu ra đánh. Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu. Đặng Mậu ngã lăn xuống ngựa chết.
Trình viễn Chí thấy vậy, thúc ngựa múa đao xông thẳng vào định chém Trương Phi. Tức thì Vân Trường múa long đao tế ngựa ra đón địch. Trình viễn Chí trông thấy hoảng sợ, chưa kịp trở tay đã bị đao Vân Trường xả làm hai đoạn.
Đời sau có thơ khen rằng:
<poem>
''Anh hùng xuất hiện buổi sơ đầu''
''Người thử siêu đao kẻ thử mâu.''
''Mới bước chân ra uy đã dữ''
''Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau.''
</poem>
Quân giặc thấy Trình viễn Chí bị chém, đều vác ngược giáo ù té chạy. Huyền Đức thúc quân đuổi theo, giặc hàng không biết bao nhiêu mà kể. Ba người đại thắng kéo quân trở về, Lưu Yên thân ra đón tiếp, khao thưởng ba quân.
Hôm sau, Lưu Yên tiếp được tờ điệp của quan thái thú [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]] tên là Cung Cảnh, báo tin bị giặc khăn vàng bao vây, thành sắp vỡ, kíp xin cho quân đến cứu. Lưu Yên bàn với Huyền Đức. Huyền Đức nói:
- Bị này tình nguyện đem quân đi cứu.
Lưu Yên bèn sai Châu Tĩnh đem năm nghìn quân cùng Huyền Đức, Quan, Trương kéo đến Thanh-châu.
Giặc thấy có quân đến cứu, chia quân đón đánh. Huyền Đức thấy quân mình ít, khó đánh được, lui ba mươi dặm đóng trại. Huyền Đức bảo Quan, Trương rằng:
- Giặc nhiều, ta ít, tất phải dùng kỳ binh mới có thể thắng được.
Bèn sai Vân Trường dẫn một nghìn quân phục bên tả núi, Trương Phi dẫn một nghìn quân phục bên hữu núi, hẹn rằng nghe tiếng chiêng thì cùng kéo ra tiếp ứng.
Ngày hôm sau Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân đánh trống hò reo thẳng tiến. Quân giặc vội vã kéo ra đón đánh, Huyền Đức lui binh ngay. Giặc thừa thế đuổi tràn. Vừa qua sườn núi, trong quân Huyền Đức khua chiêng vang lên. Hai đạo quân tả hữu xô ra. Huyền Đức thúc quân quay lại, ba mặt giáp đánh, quân giặc thua to, chạy đến dưới thành Thanh-châu, quan thái thú Cung Cảnh cũng đem dân binh ra trợ chiến, quân giặc bị chết rất nhiều, giải được vòng vây.
Đời sau có thơ khen Huyền Đức rằng:
<poem>
''Bày mưu đặt mẹo khéo ra công,''
''Đôi hổ chung quy kém một rồng.''
''Buổi mới đã nên công trạng lớn,''
''Chia ba chân vạc đáng anh hùng.''
</poem>
Cung Cảnh khao quân xong, Châu Tĩnh muốn về. Huyền Đức nói:
- Mới rồi nghe tin quan trung-lang-tướng Lư Thực cùng Trương Giốc đánh nhau ở [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]. Bị này trước kia có học Lư tướng quân, nghĩa đạo thầy trò, muốn sang giúp sức.
Châu Tĩnh dẫn quân về một mình, còn Huyền Đức cùng Quan, Trương dẫn năm trăm quân bản bộ sang Quảng-tôn.
Khi ba người đến dinh quân Lư Thực, vào trướng thi lễ, bày tỏ ý kiến mình, thì Lư Thực mừng lắm, lưu ở trướng tiền đợi khi dùng đến.
Bấy giờ quân Trương Giốc mười lăm vạn, quân Lư Thực năm vạn, đang chống nhau ở Quảng-tôn, chưa rõ bên nào thua được.
Một hôm Lư Thực bảo Huyền Đức rằng:
- Trương Giốc đã bị ta vây ở đây rồi. Duy hai em nó là Trương Bảo, Trương Lương đang chống nhau với Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn ở [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]. Ông nên đem quân ngay bản bộ và một nghìn quân ta giúp thêm, đến thẳng Dĩnh-xuyên dò xem tin tức ra sao, rồi cùng nhau hẹn ngày tiến đánh.
Huyền Đức lĩnh mệnh, đem quân đi cả ngày đêm đến Dĩnh Xuyên.
Lúc ấy Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đem quân đánh giặc, giặc bị thua luôn, phải lui về [[:w:Trường Cát|Trường-xã]], dựa theo bụi rậm đóng trại. Tung bàn với Tuấn rằng:
- Quân giặc dựa vào chỗ có cỏ rậm đóng quân thì ta nên dùng mẹo hoả công.
Bèn sai quân sĩ mỗi người bó một bó cỏ, ngầm đi mai phục. Đêm ấy trời nổi cơn gió lớn, vào khoảng canh hai, quân phục kéo vào phóng hoả, Tung và Tuấn đều dẫn quân đến đánh, khói lửa ngụt trời, quân giặc hoảng sợ, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp thắng yên, xô nhau mà chạy. Đôi bên đánh nhau đến sáng, Trương Lương, Trương Bảo phải dẫn tàn quân cướp đường mà chạy. Bỗng thấy một toán quân mã kéo toàn cờ đỏ xông ra chặn đường. Một tướng đi đầu, mình cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài.
[[Tập tin:Cao_Cao_Portrait_ROTK.jpg|nhỏ|phải|Tào Tháo. Tranh minh họa đời [[:w:Nhà Thanh|Thanh]].]]
Viên tướng ấy là ai? Tức là quan kỵ-đô-uý, người ở [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]] nước Bái, [[:w:Tào Tháo|họ Tào tên Tháo]] tự là Mạnh Đức.
Cha Tào Tháo là [[:w:Tào Tung|Tào Tung]], vốn xưa họ Hạ hầu, nhận làm con nuôi quan trung-thường-thị [[:w:Tào Đằng|Tào Đằng]], nên đổi theo họ Tào. Tháo tiểu tự là A Man, và đặt một tên nữa là Cát Lợi. Lúc Tháo còn trẻ, thì chỉ thích chơi săn, ham múa hát, nổi tiếng là một tay cơ biến quyền mưu. Người chú Tháo thấy Tháo chơi bời hoang phiếm, giận lắm, đem nói với Tào Tung. Tung trách mắng Tháo. Tháo nghĩ ngay một kế, lúc thấy chú đến, giả tảng nằm quay ra đất, làm như trúng phong. Chú Tháo thấy vậy cả sợ, chạy đến bảo Tung, Tung vội lại xem, thấy Tháo không có bệnh chi cả, bèn hỏi:
- Chú mày nói mày trúng phong, đã khỏi rồi à?
- Thưa cha, thuở bé đến giờ con có bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú con ghét con cho nên đặt điều ra thế.
Tung tưởng thật. Từ đấy người chú kể tội Tháo, Tung đều không nghe nữa, nhân thế Tháo càng được tự do phóng đãng hơn xưa.
Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì không sao yên được loạn. Làm được như thế có lẽ chỉ có bác.
Người đất [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]] là Hà Ngung một hôm trông thấy Tháo cũng tán tụng rằng:
- Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chắc chỉ có người này!
Người đất [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]] là Hứa Thiệu có tiếng là giỏi biết người, Tháo thân đến hỏi:
- Như tôi là người thế nào?
Thiệu không giả lời.
Tháo hỏi lại lần nữa.
Thiệu nói:
- Anh là năng thần<ref>Ông quan giỏi.</ref> của đời trị và gian hùng của đời loạn.
Tháo nghe nói cả mừng.
Năm Tháo hai mươi tuổi thi đỗ hiếu-liêm, bổ làm quan lang, sau lại thăng chức đô-uý huyện Lạc-dương. Lúc mới đến nhậm chức, Tháo sai treo hơn mười cái roi ngũ sắc ở bốn cửa huyện, không kể hào quý hễ ai phạm phép đều không tha. Chú quan trung-thường-thị Kiển Thạc vác dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt được cũng đem nọc đánh ngay. Bởi thế trong ngoài kinh sợ, không ai dám làm trái phép. Sau Tháo thăng chức lệnh-doãn [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]. Nhân giặc khăn vàng nổi loạn, lại được thăng làm quan kỵ-đô-uý, đem năm nghìn quân mã bộ đến Dĩnh-xuyên giúp đánh, tình cờ dọc đường, gặp Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tháo đón đánh một trận kịch liệt chém giết hơn một vạn người, cướp được cờ, trống, ngựa, khí giới rất nhiều. Lương, Bảo cố chết mới chạy thoát. Tháo vào hội kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn rồi lại dẫn quân đi đuổi Trương Lương, Trương Bảo ngay.
Nhắc lại Huyền Đức dẫn Quan, Trương đi gần đến Dĩnh-xuyên, nghe tiếng reo hò đánh nhau, lại trông thấy lửa sáng rực trời, vội thúc quân kéo đến, tới nơi giặc đã chạy tan hết rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn, đem ý kiến Lư Thực ra bày tỏ, Tung nói:
- Nay Trương Lương, Trương Bảo thế cùng lực kiệt, tất chạy đến Quảng-tôn nương nhờ Trương Giốc. Ông nên đi gấp đường về giúp ngay Lư Thực.
Huyền Đức nghe lời, dẫn quân trở lại.
Khi mới đi được nửa đường, gặp một toán người ngựa, áp giải một tù xa<ref>Xe chở người tù.</ref>, trên xe có một cái cũi nhốt một người tù té ra chính là Lư Thực. Huyền Đức giật mình kinh hãi, vội chạy xuống ngựa đến hỏi thăm. Thực nói:
- Ta vây đánh Trương Giốc, sắp sửa phá tan, chỉ vì Giốc dùng yêu thuật, nên còn nhùng nhằng chưa phá hẳn được. Triều đình sai viên hoàng môn tên là Tả Phong đến dò xét quân lính. Phong đòi ăn của đút không được, vì lương quân còn thiếu, tiền đâu mà cung đốn họ, bởi thế Tả Phong căm giận, về triều tâu man cho ta lười biếng không chịu đánh giặc, làm cho lòng quân chán nản. Triều đình nổi giận, sai quan trung-lang-tướng [[:w:Đổng Trác|Đổng Trác]] đến cầm quân thay ta, và bắt ta về kinh hỏi tội.
Trương Phi nghe nói, nổi giận đùng đùng, toan giết hết toán quân áp giải để cứu Lư Thực. Huyền Đức vội ngăn lại bảo rằng:
- Không nên, triều đình đã có công luận, chú không được xử sự một cách nóng nảy như thế.
Quân sĩ lại giải Lư Thực đi.
Quan Công nói:
- Nay Lư trung-lang đã bị bắt, người khác thay quyền, chúng ta đến đấy cũng vô ích, chi bằng hãy về Trác-quận.
Huyền Đức lấy làm phải, bèn dẫn quân về phía bắc.
Đi được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng đánh nhau hò hét. Huyền Đức cùng Quan, Trương cưỡi ngựa lên đồi cao trông xem, thấy quân Hán bị thua đương chạy, giặc khăn vàng đông như kiến cỏ đương đuổi theo sau, trên lá cờ viết bốn chữ “Thiên công tướng quân” rất lớn. Huyền Đức nói:
- Trương Giốc đây rồi, đánh ngay đi.
Ba người đều phi ngựa dẫn quân ra đánh. Lúc ấy Trương Giốc đương thừa thắng đuổi Đổng Trác, bỗng gặp ba người đem quân chẹn đánh, quân Giốc hoảng loạn, phải thua chạy đến ngoài năm mươi dặm.
[[Tập tin:Dong_Zhuo_Portrait.jpg|phải|nhỏ|Đổng Trác. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Ba người cứu được Đổng Trác về trại, Trác hỏi ba người hiện làm quan gì?
Huyền Đức nói còn là chân trắng.
Trác khinh thường, không thèm đáp tạ lại.
Huyền Đức đi ra, Trương Phi cả giận nói rằng:
- Thằng “mọi” này láo quá. Chúng ta lăn lộn vào đất chết để cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người đến thế, nếu không giết nó, không sao hả được giận này.
Bèn cầm dao vào trướng định giết Đổng Trác.
Đó chính là:
<poem>
''Nhân tình thế lợi vẫn xưa nay''
''Ai biết anh hùng lúc trắng tay''
''Nếu được người người như Dực Đức.''
''Trên đời hẳn hết kẻ không hay.''
</poem>
Muốn biết tính mạng Đổng Trác thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích cuối trang}}
ibaorc086k5sngbojvht4yq20wdxtor
141419
141418
2022-08-19T16:01:12Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 1
| trước =
| sau = [[../Hồi 2|Hồi 2]]
| ghi chú =
}}
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Location map+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Những địa danh được đề cập trong Hồi thứ nhất
|places=
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=left|label=1}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=41|lat_min=30.51|lon_deg=108|lon_min=37|background=white|position=left|label=2}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=3|lat_sec=58|lon_deg=115|lon_min=1|lon_sec=8|background=white|position=left|label=3}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=40|lat_min=2|lat_sec=11.25|lon_deg=117|lon_min=23|lon_sec=49.39|background=white|position=left|label=4}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=55|lat_sec=6.24|lon_deg=113|lon_min=53|lon_sec=54.37|background=white|position=left|label=5}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=39|lat_min=29|lon_deg=115|lon_min=58|background=white|position=left|label=6}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=01|lon_deg=110|lon_min=59|background=white|position=left|label=7}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=51|lat_sec=22.63|lon_deg=115|lon_min=28|lon_sec=41.99|background=white|position=left|label=8}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=41|lat_sec=48|lon_deg=118|lon_min=28|lon_sec=47|background=white|position=left|label=9}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=4|lat_sec=22.53|lon_deg=115|lon_min=8|lon_sec=57.69|background=white|position=right|label=10}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=9|lat_sec=48.12|lon_deg=113|lon_min=27|lon_sec=39.06|background=white|position=top|label=11}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=12|lat_sec=49.21|lon_deg=113|lon_min=45|lon_sec=46.55|background=white|position=right|label=12}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=52|lat_sec=26.40|lon_deg=115|lon_min=45|lon_sec=56.88|background=white|position=top|label=13}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=45.53|lon_deg=112|lon_min=31|lon_sec=36.48|background=white|position=left|label=14}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=52.47|lon_deg=114|lon_min=20|lon_sec=32.28|background=white|position=right|label=15}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=53|lat_sec=24.71|lon_deg=115|lon_min=5|lon_sec=20.39|background=white|position=left|label=16}}
}}
</div></div>
{| style="margin-left: auto; margin-right: auto; border: none;"
|
: 1. [[w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]]
: 2. [[w:Ngũ Nguyên|Ngũ Nguyên]]
: 3. [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]]
: 4. U-châu
: 5. [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]]
: 6. [[:w:Trác Châu|Trác-quận]]
|
: 7. Giải-lương
: 8. [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]]
: 9. [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]]
: 10. [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]
: 11. [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]
|
: 12. [[:w:Trường Cát|Trường-xã]]
: 13. [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]]
: 14. [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]]
: 15. [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]]
: 16. [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ NHẤT
<poem>
'''Yến vườn đào, anh hùng kết nghĩa'''
'''Chém khăn vàng, hào kiệt lập công'''</poem>
}}
Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan: như hết đời nhà Chu, bảy nước tranh giành xâu xé nhau rồi sau lại hợp về [[:w:Nhà Tần|nhà Tần]]. Đến khi nhà Tần mất, thì [[:w:Chiến tranh Hán-Sở|Hán, Sở tranh hùng]] rồi sau thiên hạ lại hợp về tay [[:w:Nhà Hán|nhà Hán]].
Nhà Hán, từ lúc [[:w:Hán Cao Tổ|vua Cao tổ (Bái Công)]] chém rắn trắng khởi nghĩa, thống nhất được thiên hạ, sau [[:w:Hán Quang Vũ Đế|vua Quang Vũ]] lên ngôi, rồi truyền mãi đến [[:w:Hán Hiến Đế|vua Hiến-đế]]; lúc bấy giờ lại chia ra thành ba nước. (Do đó có truyện Tam Quốc).
Truy nguyên xem cuộc biến loạn ấy ở đâu mà ra, thì gốc loạn trước hết từ hai vua [[:w:Hán Hoàn Đế|Hoàn-đế]] và [[:w:Hán Linh Đế|Linh-đế]]. Vua Hoàn-đế tin dùng lũ hoạn quan, cấm cố những người hiền sĩ. Đến lúc vua Hoàn-đế mất, vua Linh-đế lên ngôi nối nghiệp, được quan đại tướng quân [[:w:Đậu Vũ|Đậu Vũ]], quan thái phó [[:w:Trần Phồn|Trần Phồn]] là những người tài giỏi giúp đỡ. Khi ấy, trong triều có bọn hoạn quan là lũ [[:w:Tào Tiết (hoạn quan)|Tào Tiết]] lộng quyền, Đậu Vũ, Trần Phồn lập mưu định trừ bọn ấy đi, nhưng vì cơ mưu tiết lộ nên lại bị chúng nó giết mất. Từ đấy, bọn hoạn quan ngày càng ngạo ngược.
Ngày rằm tháng tư năm Kiến Ninh thứ hai (167 sau Thiên chúa) vua ngự điện Ôn Đức. Tự nhiên có cơn gió to ầm ầm từ góc điện nổi lên, rồi thấy một con rắn xanh lớn ở trên xà nhà quăng xuống quằn quại trên long án. Vua kinh hoảng ngã đùng ra, các quan tả hữu vội cứu vực vào cung; ở ngoài văn võ cũng sợ chạy cả. Được một lát con rắn biến mất và bỗng nhiên mưa to, sấm sét ầm ầm; lại thêm mưa đá rào rào mãi đến nửa đêm mới tạnh, đổ nhà đổ cửa không biết bao nhiêu mà kể.
Tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư (169) tỉnh [[:w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]] có động đất, nước bể dâng lên ngập lưng trời, những dân cư ở ven bể bị sóng lớn cuốn trôi đi mất cả.
Năm Quang Hòa thứ nhất (178), một con gà mái tự dưng hóa ra gà sống. Mồng 1 tháng 6 năm ấy, một luồng khí đen dài chừng hơn mười trượng bay vào trong điện Ôn Đức. Qua sang tháng bảy lại có lắm điều gở lạ; cầu vồng mọc ở giữa Ngọc đường; rặng núi [[:w:Ngũ Nguyên|Ngũ nguyên]] bỗng dưng lở sụt xuống.
Vua hạ chiếu hỏi quần thần xem tự đâu mà sinh ra những điềm gở lạ ấy. Có quan nghị lang là Sái Ung dâng sớ lên, lời lẽ thống thiết, nói rằng: cầu vồng sa xuống, gà mái hóa sống, ấy là bởi quyền chính trong nước ở tay đàn bà và ở tay kẻ hoạn... Vua xem sớ ngậm ngùi thở dài, đứng dậy thay áo. Tào Tiết khi ấy đứng hầu sau ngai nghe trộm thấy, trong lòng căm giận, bèn mách bảo đồng bọn, bàn mưu kiếm cớ vu hãm Sái Ung, cách quan đuổi về quê quán.
Về sau bọn hoạn quan là [[:w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]], [[:w:Triệu Trung|Triệu Trung]], Phong Tư, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoán, Hạ Huy, Quách Thắng, cả thảy mười người gọi là mười quan “Thường Thị”, bè đảng với nhau kéo cánh làm càn. Nhà vua tin dùng tôn trọng Trương Nhượng, gọi là “á phụ” (nghĩa là vua coi hắn như cha).
Từ đấy chính sự trong triều ngày càng đổ nát, lòng người náo loạn, giặc cướp nổi lên như ong.
Khi ấy ở đất [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]], có một nhà ba anh em: anh cả là [[:w:Trương Giác|Trương Giốc]], em hai là [[:w:Trương Bảo (Khăn Vàng)|Trương Bảo]], em út là [[:w:Trương Lương (Khăn Vàng)|Trương Lương]].
Trương Giốc vốn là học trò đi thi hỏng, nhân thế bực mình vào núi hái thuốc. Đi đường gặp một cụ già mặt tròn mắt biếc, tay chống gậy lê, gọi Trương Giốc vào trong một cái động, trao cho ba quyển sách và bảo rằng: “Thuật mầu nhiệm làm cho thiên hạ thái bình đều ở trong sách này. Ngươi nên thay trời dạy người, để cứu lấy đời. Nếu sau này manh tâm tà gian ắt bị ác báo”. Trương Giốc sụp xuống lạy, hỏi họ tên thì cụ già nói: “Ta là Nam Hoa lão tiên”, nói đoạn, hóa một trận gió biến mất.
Trương Giốc được ba quyển sách ấy đem về ngày đêm học tập, không bao lâu biết đủ các phép gió gọi mưa, tự xưng là ''Thái-bình đạo nhân''.
Đến tháng giêng, năm Trung Bình thứ nhất (184), có bệnh ôn dịch. Trương Giốc làm ra nước phép chữa bệnh, cứu được nhiều người, tự xưng là ''Đại hiền lương sư''. Giốc có đồ đệ năm trăm người, đi dạo các nơi, ai cũng biết phép thư phù niệm chú. Về sau đồ đệ càng ngày càng đông, Giốc bèn chia học trò ra ba mươi sáu phương, phương lớn hơn một vạn người, phương nhỏ sáu bảy nghìn người, phương nào cũng đặt một người làm thủ lĩnh xưng là đại tướng quân. Nói phao lên rằng: ''“Trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng”''. Lại nói: ''“Đến năm giáp tí, thiên hạ thái bình”''. Sai người lấy đất thó trắng viết hai chữ ''“Giáp tý”'' ở ngay giữa cửa. Nhân dân tám châu Thanh, U, Từ, Kế, Kinh, Dương, Duyện, Dự, nhà nào cũng thờ mấy chữ hiệu: ''“Đại hiền lương sư Trương Giốc”''.
Trương Giốc lại sai đồng đảng là [[:w:Mã Nguyên Nghĩa|Mã nguyên Nghĩa]] mật đem vàng lụa vào kinh kết giao với tên hoạn quan Phong Tư, để làm nội ứng, rồi bàn với hai em rằng: “Không gì khó bằng thu phục được lòng dân, nay lòng dân đã quy thuận về ta, nếu không thừa thế chiếm lấy thiên hạ thì thật là đáng tiếc lắm”.
Bèn một mặt sai may cờ vàng, hẹn ngày khởi sự, một mặt sai đồ đệ là Đường Châu đem thư báo cho Phong Tư biết. Nhưng Đường Châu lại đi thẳng đến cửa cung tố cáo.
[[Tập tin:He Jin Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Hà Tiến]]
Được tin, vua liền triệu quan đại tướng quân là [[:w:Hà Tiến|Hà Tiến]] điều binh bắt chém Mã nguyên Nghĩa và bắt cả bọn Phong Tư bỏ ngục. Trương Giốc thấy việc đã tiết lộ, vội vàng cử binh khởi sự, tự xưng là ''Thiên công tướng quân'', Trương Bảo xưng ''Địa công tướng quân'', Trương Lương xưng ''Nhân công tướng quân''; nói với mọi người rằng: “Nay vận nhà Hán sắp hết. Đại thánh nhân ra đời. Các ngươi nên thuận mệnh trời, theo về ta để cùng vui hưởng thái bình!”
Nhân dân bốn phương đội khăn vàng, đi theo Trương Giốc có tới bốn năm mươi vạn người. Thế giặc dữ dội, quan quân thua chạy như cỏ lướt theo ngọn gió. Hà Tiến một mặt tâu vua, xin hoả tốc xuống chiếu cho các nơi phòng giữ; một mặt sai ba quan trung-lang-tướng là [[:w:Lư Thực|Lư Thực]], [[:w:Hoàng Phủ Tung|Hoàng phủ Tung]], [[:w:Chu Tuấn|Chu Tuấn]] đem quân tinh nhuệ chia ra làm ba ngả dẹp giặc.
Trong khi ấy, quân Trương Giốc có một toán phạm vào bờ cõi U-châu. Quan Thái thú châu ấy là [[:w:Lưu Yên|Lưu Yên]], người làng [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]] đất Giang-hạ, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Dư|Lỗ Cung Vương nhà Hán]], nghe tin quân giặc sắp đến, liền triệu quan hiệu úy Châu Tĩnh đến bàn bạc. Tĩnh nói:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, ông nên tức khắc chiêu mộ thêm quân thì mới kịp ứng phó.
Lưu Yên cho là phải, bèn sai treo bảng mộ quân.
Khi bảng treo đến [[:w:Trác Châu|Trác-quận]] thì có ngay một vị anh hùng ra ứng mộ. Vị anh hùng ấy không thích đọc sách mấy, tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, vốn có chí lớn, chỉ thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Kể dáng người thì mình cao tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Thắng (Trung Sơn vương)|Trung-sơn Tĩnh-vương Lưu Thắng]], cháu năm đời vua [[:w:Hán Cảnh Đế|Cảnh-đế nhà Hán]], [[:w:Lưu Bị|họ Lưu, tên Bị]], tự là Huyền Đức.
Ngày trước con Lưu Thắng là Lưu Trinh, về đời vua [[:w:Hán Vũ Đế|Hán Vũ]], được phong làm Trác-lộc Đình-hầu, sau vì tội góp thiếu tiền cúng tế bị mất chức, vì vậy còn sót một ngành ở Trác-quận.
Ông của Huyền Đức là Lưu Hùng, cha là Lưu Hoằng. Hoằng thi đỗ hiếu-liêm, đã từng làm quan, nhưng mất sớm. Huyền Đức bồ côi cha, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn.
Nhà ở thôn Lâu-tang. Mé đông-nam nhà Huyền Đức có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, xa trông từng lớp trên xoè ra như cái tán che cỗ xe. Có người thầy tướng đi qua trông thấy khen rằng: “Nhà có cây dâu này tất sinh quý tử”. Lúc Huyền Đức còn thơ ấu, cùng trẻ con chơi dưới gốc dâu, thường vẫn nói rằng: “Ngày sau ta làm vua, cũng ngự cái xe có tàn che như cây dâu này”. Người chú là Lưu nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ bảo rằng: “Thằng bé này không phải người thường”. Nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo, thường tư cấp cho.
Huyền Đức, năm 15 tuổi, mẹ cho đi học, thờ Trịnh Huyền và Lưu Thực làm thầy và cùng với [[:w:Công Tôn Toản|Công tôn Toản]] kết bạn học. Lúc Lưu Yên treo bảng mộ quân, thì Huyền Đức 28 tuổi.
Bấy giờ Huyền Đức đọc bảng văn rồi thở dài. Bỗng thấy một người đứng phía sau nói lớn lên rằng: “Đại trượng phu như ông, không ra giúp nước, đứng thở dài đó, được việc chi?”.
Huyền Đức ngoảnh lại nhìn: người ấy mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng vang như sấm. Huyền Đức thấy dung mạo khác thường, liền hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Trương Phi|họ Trương tên Phi]], tự là Dực Đức, ở Trác-quận đã lâu đời. Gia tư có ít ruộng, vườn, trại và mở ngôi hàng bán rượu, thịt chó. Tôi chỉ thích kết giao với hào kiệt trong thiên hạ. Vừa rồi thấy ông xem bảng văn rồi thở dài, nên tôi mới hỏi.
Huyền Đức nói:
- Tôi đây vốn dòng dõi nhà Hán, họ Lưu tên Bị; nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, có chí ra dẹp giặc yên dân, chỉ hiềm sức mình không nổi, nên mới thở dài.
Phi nói:
- Nhà tôi gia tư cũng khá. Ý tôi muốn chiêu mộ hương dũng, cùng ông mưu đồ việc lớn, ông tính sao?
Huyền Đức mừng lắm. Hai người bèn rủ nhau vào hàng uống rượu.
Đương đánh chén, bỗng thấy một người cao lớn lực lưỡng, đẩy một cỗ xe đến cửa, vào hàng ngồi phịch xuống, gọi nhà hàng:
- Rượu mau lên! Để ta uống xong còn vào thành ứng mộ!
Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt như hai quả táo chồng lên nhau, môi như tô son, mắt phượng mày tằm oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Quan Vũ|họ Quan tên Vũ]], tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân Trường, người làng Giải-lương, tỉnh Hà-đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế hiếp người tôi bèn giết chết rồi đi trốn tránh, đã năm, sáu năm nay rồi. Nay nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc, nên tôi đến ứng mộ.
Huyền Đức cũng đem chí mình ra nói, Vân Trường rất mừng. Bèn cùng đến trại của Trương Phi bàn tính việc lớn. Phi nói:
- Sau trại tôi có một vườn đào đang nở hoa đẹp lắm; ngày mai nên làm lễ tế trời đất ở trong vườn, ba chúng ta kết làm anh em, cùng lòng hợp sức, sau mới có thể tính được việc lớn.
Huyền Đức, Vân Trường đều nói:
- Như thế tốt lắm.
[[Tập tin:Oath of the Peach Garden at Long Corridor.JPG|nhỏ|giữa|500px|Lưu Quan Trương kết nghĩa vườn đào. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người đốt hương lạy hai lạy thề rằng:
- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh em, thì phải cùng lòng hợp sức, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định nạn dân. Chúng tôi không cần sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu thể, soi xét lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết.
Thề xong, tôn Huyền Đức làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út. Mổ trâu đặt tiệc, tụ họp dũng sĩ trong làng được ba trăm người, cũng đến vườn đào uống một bữa thật say. Hôm sau sửa soạn khí giới, đương lo còn thiếu ngựa cưỡi, thì thấy báo có hai người lái buôn dắt một đàn ngựa đến trại.
Huyền Đức nói:
- Thực là trời giúp chúng ta.
Nói đoạn ba người cùng ra cửa trại đón.
Nguyên hai người khách ấy đều là lái buôn lớn ở huyện [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]], một người tên Trương thế Bình, một người tên Tô Song, hàng năm vẫn đem ngựa lên bán miền bắc, chỉ vì lúc ấy dọc đường nhiều giặc cướp, nên quay trở về. Huyền Đức mời hai người vào trại, làm rượu khoản đãi, và nói rõ ý mình đang muốn dẹp giặc yên dân. Hai người cả mừng, tình nguyện tặng năm mươi con ngựa tốt, năm trăm lạng vàng bạc và một nghìn cân sắt để làm khí giới.
[[Tập tin:Guan yu -Summer Palace, Beijing.JPG|giữa|nhỏ|500px|Vân Trường cầm thanh long đao. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Huyền Đức cảm tạ hai người khách và tiễn lên đường, rồi sai gọi thợ sắt đến đánh hai thanh kiếm. Vân Trường đánh một thanh long đao nặng tám mươi hai cân, Trương Phi đánh một ngọn xà mâu dài một trượng tám thước. Mỗi người làm một bộ áo giáp, họp hương dũng được hơn năm trăm người, đem nhau đến gặp Châu Tĩnh. Châu Tĩnh đưa đi yết kiến quan thái thú Lưu Yên. Ba người thi lễ xong, đều xưng họ tên. Huyền Đức kể rõ tôn phái, Lưu Yên cả mừng nhận Huyền Đức là cháu.
Vài hôm sau, có tin báo tướng giặc khăn vàng là Trình viễn Chí đem năm vạn quân đến đánh Trác-quận. Lưu Yên sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân đi trước phá giặc. Ba anh em Huyền Đức vui mừng hớn hở đi ngay. Lúc đến dưới núi Đại-hưng, thấy quân giặc đều xoã tóc chít khăn vàng. Hai bên đối trận, Huyền Đức nhảy ngựa vụt ra, tả có Vân Trường, hữu có Dực Đức, giơ roi mắng lớn:
- Quân giặc phản nước kia! Sao không xuống ngựa hàng ngay đi.
[[Tập tin:Three Brothers during the Yellow Turban Rebellion.jpg|nhỏ|phải|Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu.]]
Trình viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu ra đánh. Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu. Đặng Mậu ngã lăn xuống ngựa chết.
Trình viễn Chí thấy vậy, thúc ngựa múa đao xông thẳng vào định chém Trương Phi. Tức thì Vân Trường múa long đao tế ngựa ra đón địch. Trình viễn Chí trông thấy hoảng sợ, chưa kịp trở tay đã bị đao Vân Trường xả làm hai đoạn.
Đời sau có thơ khen rằng:
<poem>
''Anh hùng xuất hiện buổi sơ đầu''
''Người thử siêu đao kẻ thử mâu.''
''Mới bước chân ra uy đã dữ''
''Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau.''
</poem>
Quân giặc thấy Trình viễn Chí bị chém, đều vác ngược giáo ù té chạy. Huyền Đức thúc quân đuổi theo, giặc hàng không biết bao nhiêu mà kể. Ba người đại thắng kéo quân trở về, Lưu Yên thân ra đón tiếp, khao thưởng ba quân.
Hôm sau, Lưu Yên tiếp được tờ điệp của quan thái thú [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]] tên là Cung Cảnh, báo tin bị giặc khăn vàng bao vây, thành sắp vỡ, kíp xin cho quân đến cứu. Lưu Yên bàn với Huyền Đức. Huyền Đức nói:
- Bị này tình nguyện đem quân đi cứu.
Lưu Yên bèn sai Châu Tĩnh đem năm nghìn quân cùng Huyền Đức, Quan, Trương kéo đến Thanh-châu.
Giặc thấy có quân đến cứu, chia quân đón đánh. Huyền Đức thấy quân mình ít, khó đánh được, lui ba mươi dặm đóng trại. Huyền Đức bảo Quan, Trương rằng:
- Giặc nhiều, ta ít, tất phải dùng kỳ binh mới có thể thắng được.
Bèn sai Vân Trường dẫn một nghìn quân phục bên tả núi, Trương Phi dẫn một nghìn quân phục bên hữu núi, hẹn rằng nghe tiếng chiêng thì cùng kéo ra tiếp ứng.
Ngày hôm sau Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân đánh trống hò reo thẳng tiến. Quân giặc vội vã kéo ra đón đánh, Huyền Đức lui binh ngay. Giặc thừa thế đuổi tràn. Vừa qua sườn núi, trong quân Huyền Đức khua chiêng vang lên. Hai đạo quân tả hữu xô ra. Huyền Đức thúc quân quay lại, ba mặt giáp đánh, quân giặc thua to, chạy đến dưới thành Thanh-châu, quan thái thú Cung Cảnh cũng đem dân binh ra trợ chiến, quân giặc bị chết rất nhiều, giải được vòng vây.
Đời sau có thơ khen Huyền Đức rằng:
<poem>
''Bày mưu đặt mẹo khéo ra công,''
''Đôi hổ chung quy kém một rồng.''
''Buổi mới đã nên công trạng lớn,''
''Chia ba chân vạc đáng anh hùng.''
</poem>
Cung Cảnh khao quân xong, Châu Tĩnh muốn về. Huyền Đức nói:
- Mới rồi nghe tin quan trung-lang-tướng Lư Thực cùng Trương Giốc đánh nhau ở [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]. Bị này trước kia có học Lư tướng quân, nghĩa đạo thầy trò, muốn sang giúp sức.
Châu Tĩnh dẫn quân về một mình, còn Huyền Đức cùng Quan, Trương dẫn năm trăm quân bản bộ sang Quảng-tôn.
Khi ba người đến dinh quân Lư Thực, vào trướng thi lễ, bày tỏ ý kiến mình, thì Lư Thực mừng lắm, lưu ở trướng tiền đợi khi dùng đến.
Bấy giờ quân Trương Giốc mười lăm vạn, quân Lư Thực năm vạn, đang chống nhau ở Quảng-tôn, chưa rõ bên nào thua được.
Một hôm Lư Thực bảo Huyền Đức rằng:
- Trương Giốc đã bị ta vây ở đây rồi. Duy hai em nó là Trương Bảo, Trương Lương đang chống nhau với Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn ở [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]. Ông nên đem quân ngay bản bộ và một nghìn quân ta giúp thêm, đến thẳng Dĩnh-xuyên dò xem tin tức ra sao, rồi cùng nhau hẹn ngày tiến đánh.
Huyền Đức lĩnh mệnh, đem quân đi cả ngày đêm đến Dĩnh Xuyên.
Lúc ấy Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đem quân đánh giặc, giặc bị thua luôn, phải lui về [[:w:Trường Cát|Trường-xã]], dựa theo bụi rậm đóng trại. Tung bàn với Tuấn rằng:
- Quân giặc dựa vào chỗ có cỏ rậm đóng quân thì ta nên dùng mẹo hoả công.
Bèn sai quân sĩ mỗi người bó một bó cỏ, ngầm đi mai phục. Đêm ấy trời nổi cơn gió lớn, vào khoảng canh hai, quân phục kéo vào phóng hoả, Tung và Tuấn đều dẫn quân đến đánh, khói lửa ngụt trời, quân giặc hoảng sợ, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp thắng yên, xô nhau mà chạy. Đôi bên đánh nhau đến sáng, Trương Lương, Trương Bảo phải dẫn tàn quân cướp đường mà chạy. Bỗng thấy một toán quân mã kéo toàn cờ đỏ xông ra chặn đường. Một tướng đi đầu, mình cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài.
[[Tập tin:Cao_Cao_Portrait_ROTK.jpg|nhỏ|phải|Tào Tháo. Tranh minh họa đời [[:w:Nhà Thanh|Thanh]].]]
Viên tướng ấy là ai? Tức là quan kỵ-đô-uý, người ở [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]] nước Bái, [[:w:Tào Tháo|họ Tào tên Tháo]] tự là Mạnh Đức.
Cha Tào Tháo là [[:w:Tào Tung|Tào Tung]], vốn xưa họ Hạ hầu, nhận làm con nuôi quan trung-thường-thị [[:w:Tào Đằng|Tào Đằng]], nên đổi theo họ Tào. Tháo tiểu tự là A Man, và đặt một tên nữa là Cát Lợi. Lúc Tháo còn trẻ, thì chỉ thích chơi săn, ham múa hát, nổi tiếng là một tay cơ biến quyền mưu. Người chú Tháo thấy Tháo chơi bời hoang phiếm, giận lắm, đem nói với Tào Tung. Tung trách mắng Tháo. Tháo nghĩ ngay một kế, lúc thấy chú đến, giả tảng nằm quay ra đất, làm như trúng phong. Chú Tháo thấy vậy cả sợ, chạy đến bảo Tung, Tung vội lại xem, thấy Tháo không có bệnh chi cả, bèn hỏi:
- Chú mày nói mày trúng phong, đã khỏi rồi à?
- Thưa cha, thuở bé đến giờ con có bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú con ghét con cho nên đặt điều ra thế.
Tung tưởng thật. Từ đấy người chú kể tội Tháo, Tung đều không nghe nữa, nhân thế Tháo càng được tự do phóng đãng hơn xưa.
Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì không sao yên được loạn. Làm được như thế có lẽ chỉ có bác.
Người đất [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]] là Hà Ngung một hôm trông thấy Tháo cũng tán tụng rằng:
- Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chắc chỉ có người này!
Người đất [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]] là Hứa Thiệu có tiếng là giỏi biết người, Tháo thân đến hỏi:
- Như tôi là người thế nào?
Thiệu không giả lời.
Tháo hỏi lại lần nữa.
Thiệu nói:
- Anh là năng thần<ref>Ông quan giỏi.</ref> của đời trị và gian hùng của đời loạn.
Tháo nghe nói cả mừng.
Năm Tháo hai mươi tuổi thi đỗ hiếu-liêm, bổ làm quan lang, sau lại thăng chức đô-uý huyện Lạc-dương. Lúc mới đến nhậm chức, Tháo sai treo hơn mười cái roi ngũ sắc ở bốn cửa huyện, không kể hào quý hễ ai phạm phép đều không tha. Chú quan trung-thường-thị Kiển Thạc vác dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt được cũng đem nọc đánh ngay. Bởi thế trong ngoài kinh sợ, không ai dám làm trái phép. Sau Tháo thăng chức lệnh-doãn [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]. Nhân giặc khăn vàng nổi loạn, lại được thăng làm quan kỵ-đô-uý, đem năm nghìn quân mã bộ đến Dĩnh-xuyên giúp đánh, tình cờ dọc đường, gặp Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tháo đón đánh một trận kịch liệt chém giết hơn một vạn người, cướp được cờ, trống, ngựa, khí giới rất nhiều. Lương, Bảo cố chết mới chạy thoát. Tháo vào hội kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn rồi lại dẫn quân đi đuổi Trương Lương, Trương Bảo ngay.
Nhắc lại Huyền Đức dẫn Quan, Trương đi gần đến Dĩnh-xuyên, nghe tiếng reo hò đánh nhau, lại trông thấy lửa sáng rực trời, vội thúc quân kéo đến, tới nơi giặc đã chạy tan hết rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn, đem ý kiến Lư Thực ra bày tỏ, Tung nói:
- Nay Trương Lương, Trương Bảo thế cùng lực kiệt, tất chạy đến Quảng-tôn nương nhờ Trương Giốc. Ông nên đi gấp đường về giúp ngay Lư Thực.
Huyền Đức nghe lời, dẫn quân trở lại.
Khi mới đi được nửa đường, gặp một toán người ngựa, áp giải một tù xa<ref>Xe chở người tù.</ref>, trên xe có một cái cũi nhốt một người tù té ra chính là Lư Thực. Huyền Đức giật mình kinh hãi, vội chạy xuống ngựa đến hỏi thăm. Thực nói:
- Ta vây đánh Trương Giốc, sắp sửa phá tan, chỉ vì Giốc dùng yêu thuật, nên còn nhùng nhằng chưa phá hẳn được. Triều đình sai viên hoàng môn tên là Tả Phong đến dò xét quân lính. Phong đòi ăn của đút không được, vì lương quân còn thiếu, tiền đâu mà cung đốn họ, bởi thế Tả Phong căm giận, về triều tâu man cho ta lười biếng không chịu đánh giặc, làm cho lòng quân chán nản. Triều đình nổi giận, sai quan trung-lang-tướng [[:w:Đổng Trác|Đổng Trác]] đến cầm quân thay ta, và bắt ta về kinh hỏi tội.
Trương Phi nghe nói, nổi giận đùng đùng, toan giết hết toán quân áp giải để cứu Lư Thực. Huyền Đức vội ngăn lại bảo rằng:
- Không nên, triều đình đã có công luận, chú không được xử sự một cách nóng nảy như thế.
Quân sĩ lại giải Lư Thực đi.
Quan Công nói:
- Nay Lư trung-lang đã bị bắt, người khác thay quyền, chúng ta đến đấy cũng vô ích, chi bằng hãy về Trác-quận.
Huyền Đức lấy làm phải, bèn dẫn quân về phía bắc.
Đi được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng đánh nhau hò hét. Huyền Đức cùng Quan, Trương cưỡi ngựa lên đồi cao trông xem, thấy quân Hán bị thua đương chạy, giặc khăn vàng đông như kiến cỏ đương đuổi theo sau, trên lá cờ viết bốn chữ “Thiên công tướng quân” rất lớn. Huyền Đức nói:
- Trương Giốc đây rồi, đánh ngay đi.
Ba người đều phi ngựa dẫn quân ra đánh. Lúc ấy Trương Giốc đương thừa thắng đuổi Đổng Trác, bỗng gặp ba người đem quân chẹn đánh, quân Giốc hoảng loạn, phải thua chạy đến ngoài năm mươi dặm.
[[Tập tin:Dong_Zhuo_Portrait.jpg|phải|nhỏ|Đổng Trác. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Ba người cứu được Đổng Trác về trại, Trác hỏi ba người hiện làm quan gì?
Huyền Đức nói còn là chân trắng.
Trác khinh thường, không thèm đáp tạ lại.
Huyền Đức đi ra, Trương Phi cả giận nói rằng:
- Thằng “mọi” này láo quá. Chúng ta lăn lộn vào đất chết để cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người đến thế, nếu không giết nó, không sao hả được giận này.
Bèn cầm dao vào trướng định giết Đổng Trác.
Đó chính là:
<poem>
''Nhân tình thế lợi vẫn xưa nay''
''Ai biết anh hùng lúc trắng tay''
''Nếu được người người như Dực Đức.''
''Trên đời hẳn hết kẻ không hay.''
</poem>
Muốn biết tính mạng Đổng Trác thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích cuối trang}}
9ner9b2tafm6mvi6ougsk5zz263tcpp
141427
141419
2022-08-20T03:54:53Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 1
| trước =
| sau = [[../Hồi 2|Hồi 2]]
| ghi chú =
}}
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Location map+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Những địa danh được đề cập trong Hồi thứ nhất
|places=
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=left|label=1}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=41|lat_min=30.51|lon_deg=108|lon_min=37|background=white|position=left|label=2}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=3|lat_sec=58|lon_deg=115|lon_min=1|lon_sec=8|background=white|position=left|label=3}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=40|lat_min=2|lat_sec=11.25|lon_deg=117|lon_min=23|lon_sec=49.39|background=white|position=left|label=4}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=55|lat_sec=6.24|lon_deg=113|lon_min=53|lon_sec=54.37|background=white|position=left|label=5}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=39|lat_min=29|lon_deg=115|lon_min=58|background=white|position=left|label=6}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=01|lon_deg=110|lon_min=59|background=white|position=left|label=7}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=51|lat_sec=22.63|lon_deg=115|lon_min=28|lon_sec=41.99|background=white|position=left|label=8}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=41|lat_sec=48|lon_deg=118|lon_min=28|lon_sec=47|background=white|position=left|label=9}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=4|lat_sec=22.53|lon_deg=115|lon_min=8|lon_sec=57.69|background=white|position=right|label=10}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=9|lat_sec=48.12|lon_deg=113|lon_min=27|lon_sec=39.06|background=white|position=top|label=11}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=12|lat_sec=49.21|lon_deg=113|lon_min=45|lon_sec=46.55|background=white|position=right|label=12}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=52|lat_sec=26.40|lon_deg=115|lon_min=45|lon_sec=56.88|background=white|position=top|label=13}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=45.53|lon_deg=112|lon_min=31|lon_sec=36.48|background=white|position=left|label=14}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=32|lat_min=59|lat_sec=52.47|lon_deg=114|lon_min=20|lon_sec=32.28|background=white|position=right|label=15}}
{{Location map~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=53|lat_sec=24.71|lon_deg=115|lon_min=5|lon_sec=20.39|background=white|position=left|label=16}}
}}
</div></div>
{| style="margin-left: auto; margin-right: auto; border: none;"
|
: 1. [[w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]]
: 2. [[w:Ngũ Nguyên|Ngũ Nguyên]]
: 3. [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]]
: 4. U-châu
: 5. [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]]
: 6. [[:w:Trác Châu|Trác-quận]]
|
: 7. Giải-lương
: 8. [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]]
: 9. [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]]
: 10. [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]
: 11. [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]
|
: 12. [[:w:Trường Cát|Trường-xã]]
: 13. [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]]
: 14. [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]]
: 15. [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]]
: 16. [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ NHẤT
<poem>
'''Yến vườn đào, anh hùng kết nghĩa'''
'''Chém khăn vàng, hào kiệt lập công'''</poem>
}}
Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan: như hết đời nhà Chu, bảy nước tranh giành xâu xé nhau rồi sau lại hợp về [[:w:Nhà Tần|nhà Tần]]. Đến khi nhà Tần mất, thì [[:w:Chiến tranh Hán-Sở|Hán, Sở tranh hùng]] rồi sau thiên hạ lại hợp về tay [[:w:Nhà Hán|nhà Hán]].
Nhà Hán, từ lúc [[:w:Hán Cao Tổ|vua Cao tổ (Bái Công)]] chém rắn trắng khởi nghĩa, thống nhất được thiên hạ, sau [[:w:Hán Quang Vũ Đế|vua Quang Vũ]] lên ngôi, rồi truyền mãi đến [[:w:Hán Hiến Đế|vua Hiến-đế]]; lúc bấy giờ lại chia ra thành ba nước. (Do đó có truyện Tam Quốc).
Truy nguyên xem cuộc biến loạn ấy ở đâu mà ra, thì gốc loạn trước hết từ hai vua [[:w:Hán Hoàn Đế|Hoàn-đế]] và [[:w:Hán Linh Đế|Linh-đế]]. Vua Hoàn-đế tin dùng lũ hoạn quan, cấm cố những người hiền sĩ. Đến lúc vua Hoàn-đế mất, vua Linh-đế lên ngôi nối nghiệp, được quan đại tướng quân [[:w:Đậu Vũ|Đậu Vũ]], quan thái phó [[:w:Trần Phồn|Trần Phồn]] là những người tài giỏi giúp đỡ. Khi ấy, trong triều có bọn hoạn quan là lũ [[:w:Tào Tiết (hoạn quan)|Tào Tiết]] lộng quyền, Đậu Vũ, Trần Phồn lập mưu định trừ bọn ấy đi, nhưng vì cơ mưu tiết lộ nên lại bị chúng nó giết mất. Từ đấy, bọn hoạn quan ngày càng ngạo ngược.
Ngày rằm tháng tư năm Kiến Ninh thứ hai (167 sau Thiên chúa) vua ngự điện Ôn Đức. Tự nhiên có cơn gió to ầm ầm từ góc điện nổi lên, rồi thấy một con rắn xanh lớn ở trên xà nhà quăng xuống quằn quại trên long án. Vua kinh hoảng ngã đùng ra, các quan tả hữu vội cứu vực vào cung; ở ngoài văn võ cũng sợ chạy cả. Được một lát con rắn biến mất và bỗng nhiên mưa to, sấm sét ầm ầm; lại thêm mưa đá rào rào mãi đến nửa đêm mới tạnh, đổ nhà đổ cửa không biết bao nhiêu mà kể.
Tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư (169) tỉnh [[:w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc-dương]] có động đất, nước bể dâng lên ngập lưng trời, những dân cư ở ven bể bị sóng lớn cuốn trôi đi mất cả.
Năm Quang Hòa thứ nhất (178), một con gà mái tự dưng hóa ra gà sống. Mồng 1 tháng 6 năm ấy, một luồng khí đen dài chừng hơn mười trượng bay vào trong điện Ôn Đức. Qua sang tháng bảy lại có lắm điều gở lạ; cầu vồng mọc ở giữa Ngọc đường; rặng núi [[:w:Ngũ Nguyên|Ngũ nguyên]] bỗng dưng lở sụt xuống.
Vua hạ chiếu hỏi quần thần xem tự đâu mà sinh ra những điềm gở lạ ấy. Có quan nghị lang là Sái Ung dâng sớ lên, lời lẽ thống thiết, nói rằng: cầu vồng sa xuống, gà mái hóa sống, ấy là bởi quyền chính trong nước ở tay đàn bà và ở tay kẻ hoạn... Vua xem sớ ngậm ngùi thở dài, đứng dậy thay áo. Tào Tiết khi ấy đứng hầu sau ngai nghe trộm thấy, trong lòng căm giận, bèn mách bảo đồng bọn, bàn mưu kiếm cớ vu hãm Sái Ung, cách quan đuổi về quê quán.
Về sau bọn hoạn quan là [[:w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]], [[:w:Triệu Trung|Triệu Trung]], Phong Tư, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoán, Hạ Huy, Quách Thắng, cả thảy mười người gọi là mười quan “Thường Thị”, bè đảng với nhau kéo cánh làm càn. Nhà vua tin dùng tôn trọng Trương Nhượng, gọi là “á phụ” (nghĩa là vua coi hắn như cha).
Từ đấy chính sự trong triều ngày càng đổ nát, lòng người náo loạn, giặc cướp nổi lên như ong.
Khi ấy ở đất [[:w:Bình Hương, Hình Đài|Cự-lộc]], có một nhà ba anh em: anh cả là [[:w:Trương Giác|Trương Giốc]], em hai là [[:w:Trương Bảo (Khăn Vàng)|Trương Bảo]], em út là [[:w:Trương Lương (Khăn Vàng)|Trương Lương]].
Trương Giốc vốn là học trò đi thi hỏng, nhân thế bực mình vào núi hái thuốc. Đi đường gặp một cụ già mặt tròn mắt biếc, tay chống gậy lê, gọi Trương Giốc vào trong một cái động, trao cho ba quyển sách và bảo rằng: “Thuật mầu nhiệm làm cho thiên hạ thái bình đều ở trong sách này. Ngươi nên thay trời dạy người, để cứu lấy đời. Nếu sau này manh tâm tà gian ắt bị ác báo”. Trương Giốc sụp xuống lạy, hỏi họ tên thì cụ già nói: “Ta là Nam Hoa lão tiên”, nói đoạn, hóa một trận gió biến mất.
Trương Giốc được ba quyển sách ấy đem về ngày đêm học tập, không bao lâu biết đủ các phép gió gọi mưa, tự xưng là ''Thái-bình đạo nhân''.
Đến tháng giêng, năm Trung Bình thứ nhất (184), có bệnh ôn dịch. Trương Giốc làm ra nước phép chữa bệnh, cứu được nhiều người, tự xưng là ''Đại hiền lương sư''. Giốc có đồ đệ năm trăm người, đi dạo các nơi, ai cũng biết phép thư phù niệm chú. Về sau đồ đệ càng ngày càng đông, Giốc bèn chia học trò ra ba mươi sáu phương, phương lớn hơn một vạn người, phương nhỏ sáu bảy nghìn người, phương nào cũng đặt một người làm thủ lĩnh xưng là đại tướng quân. Nói phao lên rằng: ''“Trời xanh đã chết, trời vàng nên dựng”''. Lại nói: ''“Đến năm giáp tí, thiên hạ thái bình”''. Sai người lấy đất thó trắng viết hai chữ ''“Giáp tý”'' ở ngay giữa cửa. Nhân dân tám châu Thanh, U, Từ, Kế, Kinh, Dương, Duyện, Dự, nhà nào cũng thờ mấy chữ hiệu: ''“Đại hiền lương sư Trương Giốc”''.
Trương Giốc lại sai đồng đảng là [[:w:Mã Nguyên Nghĩa|Mã nguyên Nghĩa]] mật đem vàng lụa vào kinh kết giao với tên hoạn quan Phong Tư, để làm nội ứng, rồi bàn với hai em rằng: “Không gì khó bằng thu phục được lòng dân, nay lòng dân đã quy thuận về ta, nếu không thừa thế chiếm lấy thiên hạ thì thật là đáng tiếc lắm”.
Bèn một mặt sai may cờ vàng, hẹn ngày khởi sự, một mặt sai đồ đệ là Đường Châu đem thư báo cho Phong Tư biết. Nhưng Đường Châu lại đi thẳng đến cửa cung tố cáo.
[[Tập tin:He Jin Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Hà Tiến]]
Được tin, vua liền triệu quan đại tướng quân là [[:w:Hà Tiến|Hà Tiến]] điều binh bắt chém Mã nguyên Nghĩa và bắt cả bọn Phong Tư bỏ ngục. Trương Giốc thấy việc đã tiết lộ, vội vàng cử binh khởi sự, tự xưng là ''Thiên công tướng quân'', Trương Bảo xưng ''Địa công tướng quân'', Trương Lương xưng ''Nhân công tướng quân''; nói với mọi người rằng: “Nay vận nhà Hán sắp hết. Đại thánh nhân ra đời. Các ngươi nên thuận mệnh trời, theo về ta để cùng vui hưởng thái bình!”
Nhân dân bốn phương đội khăn vàng, đi theo Trương Giốc có tới bốn năm mươi vạn người. Thế giặc dữ dội, quan quân thua chạy như cỏ lướt theo ngọn gió. Hà Tiến một mặt tâu vua, xin hoả tốc xuống chiếu cho các nơi phòng giữ; một mặt sai ba quan trung-lang-tướng là [[:w:Lư Thực|Lư Thực]], [[:w:Hoàng Phủ Tung|Hoàng phủ Tung]], [[:w:Chu Tuấn|Chu Tuấn]] đem quân tinh nhuệ chia ra làm ba ngả dẹp giặc.
Trong khi ấy, quân Trương Giốc có một toán phạm vào bờ cõi U-châu. Quan Thái thú châu ấy là [[:w:Lưu Yên|Lưu Yên]], người làng [[:w:Thiên Môn|Kính-lăng]] đất Giang-hạ, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Dư|Lỗ Cung Vương nhà Hán]], nghe tin quân giặc sắp đến, liền triệu quan hiệu úy Châu Tĩnh đến bàn bạc. Tĩnh nói:
- Quân giặc nhiều, quân ta ít, ông nên tức khắc chiêu mộ thêm quân thì mới kịp ứng phó.
Lưu Yên cho là phải, bèn sai treo bảng mộ quân.
Khi bảng treo đến [[:w:Trác Châu|Trác-quận]] thì có ngay một vị anh hùng ra ứng mộ. Vị anh hùng ấy không thích đọc sách mấy, tính ôn hoà, ít cười nói, mừng giận không hề lộ ra mặt, vốn có chí lớn, chỉ thích kết giao với những tay hào kiệt trong thiên hạ. Kể dáng người thì mình cao tám thước, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông khỏi đầu gối, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son, tức là dòng dõi [[:w:Lưu Thắng (Trung Sơn vương)|Trung-sơn Tĩnh-vương Lưu Thắng]], cháu năm đời vua [[:w:Hán Cảnh Đế|Cảnh-đế nhà Hán]], [[:w:Lưu Bị|họ Lưu, tên Bị]], tự là Huyền Đức.
Ngày trước con Lưu Thắng là Lưu Trinh, về đời vua [[:w:Hán Vũ Đế|Hán Vũ]], được phong làm Trác-lộc Đình-hầu, sau vì tội góp thiếu tiền cúng tế bị mất chức, vì vậy còn sót một ngành ở Trác-quận.
Ông của Huyền Đức là Lưu Hùng, cha là Lưu Hoằng. Hoằng thi đỗ hiếu-liêm, đã từng làm quan, nhưng mất sớm. Huyền Đức bồ côi cha, thờ mẹ rất hiếu, nhà nghèo, phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu kiếm ăn.
Nhà ở thôn Lâu-tang. Mé đông-nam nhà Huyền Đức có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, xa trông từng lớp trên xoè ra như cái tán che cỗ xe. Có người thầy tướng đi qua trông thấy khen rằng: “Nhà có cây dâu này tất sinh quý tử”. Lúc Huyền Đức còn thơ ấu, cùng trẻ con chơi dưới gốc dâu, thường vẫn nói rằng: “Ngày sau ta làm vua, cũng ngự cái xe có tàn che như cây dâu này”. Người chú là Lưu nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ bảo rằng: “Thằng bé này không phải người thường”. Nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo, thường tư cấp cho.
Huyền Đức, năm 15 tuổi, mẹ cho đi học, thờ Trịnh Huyền và Lưu Thực làm thầy và cùng với [[:w:Công Tôn Toản|Công tôn Toản]] kết bạn học. Lúc Lưu Yên treo bảng mộ quân, thì Huyền Đức 28 tuổi.
Bấy giờ Huyền Đức đọc bảng văn rồi thở dài. Bỗng thấy một người đứng phía sau nói lớn lên rằng: “Đại trượng phu như ông, không ra giúp nước, đứng thở dài đó, được việc chi?”.
Huyền Đức ngoảnh lại nhìn: người ấy mình cao tám thước, đầu như đầu báo, hai mắt tròn xoe, hàm én, râu hùm, tiếng vang như sấm. Huyền Đức thấy dung mạo khác thường, liền hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Trương Phi|họ Trương tên Phi]], tự là Dực Đức, ở Trác-quận đã lâu đời. Gia tư có ít ruộng, vườn, trại và mở ngôi hàng bán rượu, thịt chó. Tôi chỉ thích kết giao với hào kiệt trong thiên hạ. Vừa rồi thấy ông xem bảng văn rồi thở dài, nên tôi mới hỏi.
Huyền Đức nói:
- Tôi đây vốn dòng dõi nhà Hán, họ Lưu tên Bị; nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, có chí ra dẹp giặc yên dân, chỉ hiềm sức mình không nổi, nên mới thở dài.
Phi nói:
- Nhà tôi gia tư cũng khá. Ý tôi muốn chiêu mộ hương dũng, cùng ông mưu đồ việc lớn, ông tính sao?
Huyền Đức mừng lắm. Hai người bèn rủ nhau vào hàng uống rượu.
Đương đánh chén, bỗng thấy một người cao lớn lực lưỡng, đẩy một cỗ xe đến cửa, vào hàng ngồi phịch xuống, gọi nhà hàng:
- Rượu mau lên! Để ta uống xong còn vào thành ứng mộ!
Huyền Đức nhìn xem thấy người ấy mình cao chín thước, râu dài hai thước, mặt như hai quả táo chồng lên nhau, môi như tô son, mắt phượng mày tằm oai phong lẫm liệt. Huyền Đức bèn mời cùng ngồi và hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tôi [[:w:Quan Vũ|họ Quan tên Vũ]], tự là Trương Sinh, sau đổi là Vân Trường, người làng Giải-lương, tỉnh Hà-đông. Nhân thấy có đứa thổ hào ỷ thế hiếp người tôi bèn giết chết rồi đi trốn tránh, đã năm, sáu năm nay rồi. Nay nghe ở đây có lệnh chiêu binh phá giặc, nên tôi đến ứng mộ.
Huyền Đức cũng đem chí mình ra nói, Vân Trường rất mừng. Bèn cùng đến trại của Trương Phi bàn tính việc lớn. Phi nói:
- Sau trại tôi có một vườn đào đang nở hoa đẹp lắm; ngày mai nên làm lễ tế trời đất ở trong vườn, ba chúng ta kết làm anh em, cùng lòng hợp sức, sau mới có thể tính được việc lớn.
Huyền Đức, Vân Trường đều nói:
- Như thế tốt lắm.
[[Tập tin:Oath of the Peach Garden at Long Corridor.JPG|nhỏ|giữa|500px|Lưu Quan Trương kết nghĩa vườn đào. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Ngày hôm sau sửa soạn trâu đen ngựa trắng và các lễ vật ở trong vườn đào, ba người đốt hương lạy hai lạy thề rằng:
- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, dẫu rằng khác họ, song đã kết làm anh em, thì phải cùng lòng hợp sức, cứu khốn phù nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định nạn dân. Chúng tôi không cần sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu thể, soi xét lòng này. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết.
Thề xong, tôn Huyền Đức làm anh cả, Quan Vũ thứ hai, Trương Phi em út. Mổ trâu đặt tiệc, tụ họp dũng sĩ trong làng được ba trăm người, cũng đến vườn đào uống một bữa thật say. Hôm sau sửa soạn khí giới, đương lo còn thiếu ngựa cưỡi, thì thấy báo có hai người lái buôn dắt một đàn ngựa đến trại.
Huyền Đức nói:
- Thực là trời giúp chúng ta.
Nói đoạn ba người cùng ra cửa trại đón.
Nguyên hai người khách ấy đều là lái buôn lớn ở huyện [[:w:Trung Sơn (nước)|Trung-sơn]], một người tên Trương thế Bình, một người tên Tô Song, hàng năm vẫn đem ngựa lên bán miền bắc, chỉ vì lúc ấy dọc đường nhiều giặc cướp, nên quay trở về. Huyền Đức mời hai người vào trại, làm rượu khoản đãi, và nói rõ ý mình đang muốn dẹp giặc yên dân. Hai người cả mừng, tình nguyện tặng năm mươi con ngựa tốt, năm trăm lạng vàng bạc và một nghìn cân sắt để làm khí giới.
[[Tập tin:Guan yu -Summer Palace, Beijing.JPG|giữa|nhỏ|500px|Vân Trường cầm thanh long đao. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Huyền Đức cảm tạ hai người khách và tiễn lên đường, rồi sai gọi thợ sắt đến đánh hai thanh kiếm. Vân Trường đánh một thanh long đao nặng tám mươi hai cân, Trương Phi đánh một ngọn xà mâu dài một trượng tám thước. Mỗi người làm một bộ áo giáp, họp hương dũng được hơn năm trăm người, đem nhau đến gặp Châu Tĩnh. Châu Tĩnh đưa đi yết kiến quan thái thú Lưu Yên. Ba người thi lễ xong, đều xưng họ tên. Huyền Đức kể rõ tôn phái, Lưu Yên cả mừng nhận Huyền Đức là cháu.
Vài hôm sau, có tin báo tướng giặc khăn vàng là Trình viễn Chí đem năm vạn quân đến đánh Trác-quận. Lưu Yên sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân đi trước phá giặc. Ba anh em Huyền Đức vui mừng hớn hở đi ngay. Lúc đến dưới núi Đại-hưng, thấy quân giặc đều xoã tóc chít khăn vàng. Hai bên đối trận, Huyền Đức nhảy ngựa vụt ra, tả có Vân Trường, hữu có Dực Đức, giơ roi mắng lớn:
- Quân giặc phản nước kia! Sao không xuống ngựa hàng ngay đi.
[[Tập tin:Three Brothers during the Yellow Turban Rebellion.jpg|nhỏ|phải|Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu.]]
Trình viễn Chí cả giận, sai phó tướng Đặng Mậu ra đánh. Trương Phi cầm mâu xông ra đâm trúng vào bụng Đặng Mậu. Đặng Mậu ngã lăn xuống ngựa chết.
Trình viễn Chí thấy vậy, thúc ngựa múa đao xông thẳng vào định chém Trương Phi. Tức thì Vân Trường múa long đao tế ngựa ra đón địch. Trình viễn Chí trông thấy hoảng sợ, chưa kịp trở tay đã bị đao Vân Trường xả làm hai đoạn.
Đời sau có thơ khen rằng:
<poem>
''Anh hùng xuất hiện buổi sơ đầu''
''Người thử siêu đao kẻ thử mâu.''
''Mới bước chân ra uy đã dữ''
''Tiếng tăm lừng lẫy cuộc ganh nhau.''
</poem>
Quân giặc thấy Trình viễn Chí bị chém, đều vác ngược giáo ù té chạy. Huyền Đức thúc quân đuổi theo, giặc hàng không biết bao nhiêu mà kể. Ba người đại thắng kéo quân trở về, Lưu Yên thân ra đón tiếp, khao thưởng ba quân.
Hôm sau, Lưu Yên tiếp được tờ điệp của quan thái thú [[:w:Thanh Châu, Duy Phường|Thanh-châu]] tên là Cung Cảnh, báo tin bị giặc khăn vàng bao vây, thành sắp vỡ, kíp xin cho quân đến cứu. Lưu Yên bàn với Huyền Đức. Huyền Đức nói:
- Bị này tình nguyện đem quân đi cứu.
Lưu Yên bèn sai Châu Tĩnh đem năm nghìn quân cùng Huyền Đức, Quan, Trương kéo đến Thanh-châu.
Giặc thấy có quân đến cứu, chia quân đón đánh. Huyền Đức thấy quân mình ít, khó đánh được, lui ba mươi dặm đóng trại. Huyền Đức bảo Quan, Trương rằng:
- Giặc nhiều, ta ít, tất phải dùng kỳ binh mới có thể thắng được.
Bèn sai Vân Trường dẫn một nghìn quân phục bên tả núi, Trương Phi dẫn một nghìn quân phục bên hữu núi, hẹn rằng nghe tiếng chiêng thì cùng kéo ra tiếp ứng.
Ngày hôm sau Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân đánh trống hò reo thẳng tiến. Quân giặc vội vã kéo ra đón đánh, Huyền Đức lui binh ngay. Giặc thừa thế đuổi tràn. Vừa qua sườn núi, trong quân Huyền Đức khua chiêng vang lên. Hai đạo quân tả hữu xô ra. Huyền Đức thúc quân quay lại, ba mặt giáp đánh, quân giặc thua to, chạy đến dưới thành Thanh-châu, quan thái thú Cung Cảnh cũng đem dân binh ra trợ chiến, quân giặc bị chết rất nhiều, giải được vòng vây.
Đời sau có thơ khen Huyền Đức rằng:
<poem>
''Bày mưu đặt mẹo khéo ra công,''
''Đôi hổ chung quy kém một rồng.''
''Buổi mới đã nên công trạng lớn,''
''Chia ba chân vạc đáng anh hùng.''
</poem>
Cung Cảnh khao quân xong, Châu Tĩnh muốn về. Huyền Đức nói:
- Mới rồi nghe tin quan trung-lang-tướng Lư Thực cùng Trương Giốc đánh nhau ở [[:w:Quảng Tông|Quảng-tôn]]. Bị này trước kia có học Lư tướng quân, nghĩa đạo thầy trò, muốn sang giúp sức.
Châu Tĩnh dẫn quân về một mình, còn Huyền Đức cùng Quan, Trương dẫn năm trăm quân bản bộ sang Quảng-tôn.
Khi ba người đến dinh quân Lư Thực, vào trướng thi lễ, bày tỏ ý kiến mình, thì Lư Thực mừng lắm, lưu ở trướng tiền đợi khi dùng đến.
Bấy giờ quân Trương Giốc mười lăm vạn, quân Lư Thực năm vạn, đang chống nhau ở Quảng-tôn, chưa rõ bên nào thua được.
Một hôm Lư Thực bảo Huyền Đức rằng:
- Trương Giốc đã bị ta vây ở đây rồi. Duy hai em nó là Trương Bảo, Trương Lương đang chống nhau với Hoàng phủ Tung và Chu Tuấn ở [[:w:Vũ Châu|Dĩnh-xuyên]]. Ông nên đem quân ngay bản bộ và một nghìn quân ta giúp thêm, đến thẳng Dĩnh-xuyên dò xem tin tức ra sao, rồi cùng nhau hẹn ngày tiến đánh.
Huyền Đức lĩnh mệnh, đem quân đi cả ngày đêm đến Dĩnh Xuyên.
Lúc ấy Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn đem quân đánh giặc, giặc bị thua luôn, phải lui về [[:w:Trường Cát|Trường-xã]], dựa theo bụi rậm đóng trại. Tung bàn với Tuấn rằng:
- Quân giặc dựa vào chỗ có cỏ rậm đóng quân thì ta nên dùng mẹo hoả công.
Bèn sai quân sĩ mỗi người bó một bó cỏ, ngầm đi mai phục. Đêm ấy trời nổi cơn gió lớn, vào khoảng canh hai, quân phục kéo vào phóng hoả, Tung và Tuấn đều dẫn quân đến đánh, khói lửa ngụt trời, quân giặc hoảng sợ, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp thắng yên, xô nhau mà chạy. Đôi bên đánh nhau đến sáng, Trương Lương, Trương Bảo phải dẫn tàn quân cướp đường mà chạy. Bỗng thấy một toán quân mã kéo toàn cờ đỏ xông ra chặn đường. Một tướng đi đầu, mình cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài.
[[Tập tin:Cao_Cao_Portrait_ROTK.jpg|nhỏ|phải|Tào Tháo. Tranh minh họa đời [[:w:Nhà Thanh|Thanh]].]]
Viên tướng ấy là ai? Tức là quan kỵ-đô-uý, người ở [[:w:Bạc Châu|Tiên quận]] nước Bái, [[:w:Tào Tháo|họ Tào tên Tháo]] tự là Mạnh Đức.
Cha Tào Tháo là [[:w:Tào Tung|Tào Tung]], vốn xưa họ Hạ hầu, nhận làm con nuôi quan trung-thường-thị [[:w:Tào Đằng|Tào Đằng]], nên đổi theo họ Tào. Tháo tiểu tự là A Man, và đặt một tên nữa là Cát Lợi. Lúc Tháo còn trẻ, thì chỉ thích chơi săn, ham múa hát, nổi tiếng là một tay cơ biến quyền mưu. Người chú Tháo thấy Tháo chơi bời hoang phiếm, giận lắm, đem nói với Tào Tung. Tung trách mắng Tháo. Tháo nghĩ ngay một kế, lúc thấy chú đến, giả tảng nằm quay ra đất, làm như trúng phong. Chú Tháo thấy vậy cả sợ, chạy đến bảo Tung, Tung vội lại xem, thấy Tháo không có bệnh chi cả, bèn hỏi:
- Chú mày nói mày trúng phong, đã khỏi rồi à?
- Thưa cha, thuở bé đến giờ con có bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú con ghét con cho nên đặt điều ra thế.
Tung tưởng thật. Từ đấy người chú kể tội Tháo, Tung đều không nghe nữa, nhân thế Tháo càng được tự do phóng đãng hơn xưa.
Bấy giờ có người tên là Kiều Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì không sao yên được loạn. Làm được như thế có lẽ chỉ có bác.
Người đất [[:w:Nam Dương, Hà Nam|Nam-dương]] là Hà Ngung một hôm trông thấy Tháo cũng tán tụng rằng:
- Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chắc chỉ có người này!
Người đất [[:w:Nhữ Nam|Nhữ-nam]] là Hứa Thiệu có tiếng là giỏi biết người, Tháo thân đến hỏi:
- Như tôi là người thế nào?
Thiệu không giả lời.
Tháo hỏi lại lần nữa.
Thiệu nói:
- Anh là năng thần<ref>Ông quan giỏi.</ref> của đời trị và gian hùng của đời loạn.
Tháo nghe nói cả mừng.
Năm Tháo hai mươi tuổi thi đỗ hiếu-liêm, bổ làm quan lang, sau lại thăng chức đô-uý huyện Lạc-dương. Lúc mới đến nhậm chức, Tháo sai treo hơn mười cái roi ngũ sắc ở bốn cửa huyện, không kể hào quý hễ ai phạm phép đều không tha. Chú quan trung-thường-thị Kiển Thạc vác dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt được cũng đem nọc đánh ngay. Bởi thế trong ngoài kinh sợ, không ai dám làm trái phép. Sau Tháo thăng chức lệnh-doãn [[:w:Thanh Phong (huyện)|Đốn-kỳ]]. Nhân giặc khăn vàng nổi loạn, lại được thăng làm quan kỵ-đô-uý, đem năm nghìn quân mã bộ đến Dĩnh-xuyên giúp đánh, tình cờ dọc đường, gặp Trương Lương, Trương Bảo thua chạy, Tháo đón đánh một trận kịch liệt chém giết hơn một vạn người, cướp được cờ, trống, ngựa, khí giới rất nhiều. Lương, Bảo cố chết mới chạy thoát. Tháo vào hội kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn rồi lại dẫn quân đi đuổi Trương Lương, Trương Bảo ngay.
Nhắc lại Huyền Đức dẫn Quan, Trương đi gần đến Dĩnh-xuyên, nghe tiếng reo hò đánh nhau, lại trông thấy lửa sáng rực trời, vội thúc quân kéo đến, tới nơi giặc đã chạy tan hết rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn, đem ý kiến Lư Thực ra bày tỏ, Tung nói:
- Nay Trương Lương, Trương Bảo thế cùng lực kiệt, tất chạy đến Quảng-tôn nương nhờ Trương Giốc. Ông nên đi gấp đường về giúp ngay Lư Thực.
Huyền Đức nghe lời, dẫn quân trở lại.
Khi mới đi được nửa đường, gặp một toán người ngựa, áp giải một tù xa<ref>Xe chở người tù.</ref>, trên xe có một cái cũi nhốt một người tù té ra chính là Lư Thực. Huyền Đức giật mình kinh hãi, vội chạy xuống ngựa đến hỏi thăm. Thực nói:
- Ta vây đánh Trương Giốc, sắp sửa phá tan, chỉ vì Giốc dùng yêu thuật, nên còn nhùng nhằng chưa phá hẳn được. Triều đình sai viên hoàng môn tên là Tả Phong đến dò xét quân lính. Phong đòi ăn của đút không được, vì lương quân còn thiếu, tiền đâu mà cung đốn họ, bởi thế Tả Phong căm giận, về triều tâu man cho ta lười biếng không chịu đánh giặc, làm cho lòng quân chán nản. Triều đình nổi giận, sai quan trung-lang-tướng [[:w:Đổng Trác|Đổng Trác]] đến cầm quân thay ta, và bắt ta về kinh hỏi tội.
Trương Phi nghe nói, nổi giận đùng đùng, toan giết hết toán quân áp giải để cứu Lư Thực. Huyền Đức vội ngăn lại bảo rằng:
- Không nên, triều đình đã có công luận, chú không được xử sự một cách nóng nảy như thế.
Quân sĩ lại giải Lư Thực đi.
Quan Công nói:
- Nay Lư trung-lang đã bị bắt, người khác thay quyền, chúng ta đến đấy cũng vô ích, chi bằng hãy về Trác-quận.
Huyền Đức lấy làm phải, bèn dẫn quân về phía bắc.
Đi được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng đánh nhau hò hét. Huyền Đức cùng Quan, Trương cưỡi ngựa lên đồi cao trông xem, thấy quân Hán bị thua đương chạy, giặc khăn vàng đông như kiến cỏ đương đuổi theo sau, trên lá cờ viết bốn chữ “Thiên công tướng quân” rất lớn. Huyền Đức nói:
- Trương Giốc đây rồi, đánh ngay đi.
Ba người đều phi ngựa dẫn quân ra đánh. Lúc ấy Trương Giốc đương thừa thắng đuổi Đổng Trác, bỗng gặp ba người đem quân chẹn đánh, quân Giốc hoảng loạn, phải thua chạy đến ngoài năm mươi dặm.
[[Tập tin:Dong_Zhuo_Portrait.jpg|phải|nhỏ|Đổng Trác. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Ba người cứu được Đổng Trác về trại, Trác hỏi ba người hiện làm quan gì?
Huyền Đức nói còn là chân trắng.
Trác khinh thường, không thèm đáp tạ lại.
Huyền Đức đi ra, Trương Phi cả giận nói rằng:
- Thằng “mọi” này láo quá. Chúng ta lăn lộn vào đất chết để cứu nó ra, nó không ơn thì chớ, lại còn làm phách khinh người đến thế, nếu không giết nó, không sao hả được giận này.
Bèn cầm dao vào trướng định giết Đổng Trác.
Đó chính là:
<poem>
''Nhân tình thế lợi vẫn xưa nay''
''Ai biết anh hùng lúc trắng tay''
''Nếu được người người như Dực Đức.''
''Trên đời hẳn hết kẻ không hay.''
</poem>
Muốn biết tính mạng Đổng Trác thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích nhỏ|vạch=có}}
39tj97so7d4sccxj1skzja13tap8ipz
Tam quốc diễn nghĩa/Hồi 2
0
4049
141420
141241
2022-08-19T16:02:14Z
Vinhtantran
484
ẩn bản đồ vì làm xô lệch trình bày trang
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 2
| trước = [[../Hồi 1|Hồi 1]]
| sau = [[../Hồi 3|Hồi 3]]
| ghi chú =
}}
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Bản đồ định vị+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Places in Chapter 2|places=
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc||lat_deg=34|lat_min=26|lat_sec=13.95|lon_deg=104|lon_min=1|lon_sec=49.45|background=white|position=left|label=1}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=35|lat_min=01|lon_deg=110|lon_min=59|background=white|position=left|label=2}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=37|lon_deg=114|lon_min=41|background=white|position=left|label=3}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=27|lat_sec=19|lon_deg=113|lon_min=1|lon_sec=31|background=white|position=top|label=4}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=left|label=5}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=44|lon_deg=115|lon_min=42|background=white|position=right|label=6}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=40|lon_deg=116|lon_min=59|background=white|position=bottom|label=7}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=00|lon_deg=112|lon_min=32|background=white|position=left|label=8}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=3|lat_sec=33|lon_deg=119|lon_min=56|lon_sec=45|background=white|position=left|label=9}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=15|lon_deg=120|lon_min=10|background=white|position=right|label=10}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=00|lon_deg=120|lon_min=35|background=white|position=bottom|label=11}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=23|lon_deg=120|lon_min=7|background=white|position=left|label=12}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=00|lat_sec=22|lon_deg=118|lon_min=29|lon_sec=39|background=white|position=left|label=13}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=16|lon_deg=117|lon_min=10|background=white|position=right|label=14}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=30|lon_deg=115|lon_min=00|background=white|position=bottom|label=15}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=39|lat_min=3|lat_sec=49|lon_deg=112|lon_min=56|lon_sec=35|background=white|position=left|label=16}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=28|lat_min=11|lat_sec=46|lon_deg=112|lon_min=58|lon_sec=20|background=white|position=left|label=17}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=40|lat_min=2|lat_sec=11.25|lon_deg=117|lon_min=23|lon_sec=49.39|background=white|position=left|label=18}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=55|lat_sec=6.24|lon_deg=113|lon_min=53|lon_sec=54.37|background=white|position=left|label=19}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=30|lat_min=52|lon_deg=120|lon_min=06|background=white|position=top|label=20}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=40|lat_min=2|lat_sec=11.25|lon_deg=117|lon_min=23|lon_sec=49.39|background=white|position=right|label=21}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=48|lon_deg=119|lon_min=26|background=white|position=left|label=22}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=51|lon_deg=116|lon_min=14|background=white|position=left|label=23}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=10|lon_deg=116|lon_min=26|background=white|position=right|label=24}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=25|lon_deg=115|lon_min=19|background=white|position=top|label=25}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=47|lon_deg=114|lon_min=21|background=white|position=right|label=26}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=38|lat_min=26|lon_deg=116|lon_min=04|background=white|position=right|label=27}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=33|lat_min=26|lon_deg=113|lon_min=36|background=white|position=right|label=28}}
}}
</div></div>
{|
|
: 1. [[:w:Lâm Thao, Định Tây|Lâm-thao]]
: 2. Hà-đông
: 3. [[:w:Khúc Dương|Khúc-dương]]
: 4. [[:w:Đăng Phong|Dương-thành]]
: 5. [[:w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Kinh sư (Lạc Dương)]]
: 6. [[:w:Ký Châu|Ký-châu]]
: 7. [[:w:Tế Nam|Tế-nam]]
|
: 8. [[:w:Nam Dương, Hồ Nam|Uyển-thành]]
: 9. [[:w:Phú Dương, Hàng Châu|Phú-xuân]]
: 10. [[:w:Hàng Châu|Tiền-đường]]
: 11. [[:w:Thiệu Hưng|Cối-kê]]
: 12. [[:w:Diêm Thành|Giêm-độc]]
: 13. [[:w:Hu Dị|Vu-thai]]
: 14. [[:w:Bi Châu|Hạ-bì]]
|
: 15. [[:w:Định Châu|An-hỷ]]
: 16. [[:w:Đại (huyện)|Đại-châu]]
: 17. [[w:Trường Sa, Hồ Nam|Trường-sa]]
: 18. [[w:Kế Châu|Ngư-dương]]
: 19. [[w:Giang Hạ|Giang-hạ]]
: 20. [[w:Hồ Châu|Ô-trình]]
: 21. U-châu
|
: 22. [[w:Duy Phường|Hạ-mật]]
: 23. [[w:Liêu Thành|Cao-đường]]
: 24. [[w:Đức Châu, Sơn Đông|Bình-nguyên]]
: 25. Giải-độc Đình
: 26. [[w:Khai Phong|Trần lưu]]
: 27. [[w:Thương Châu, Hà Bắc|Hà-gian]]
: 28. [[w:Vũ Dương (huyện)|Vũ dương]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ HAI
<poem>
'''Trương Dực Đức giận đánh Đốc Bưu '''
'''Hà quốc cữu mưu giết Hoạn Thụ'''
</poem>
}}
[[:w:Đổng Trác|Đổng Trác]] tên chữ là Trọng Dĩnh, quê ở huyện [[:w:Lâm Thao, Định Tây|Lâm-thao]], quận Lũng-tây, làm quan thái thú ở Hà-đông, xưa nay vốn tính kiêu ngạo. Lúc ấy vì khinh ba anh em [[:w:Lưu Bị|Huyền Đức]], nên [[:w:Trương Phi|Trương Phi]] nổi nóng muốn vào giết ngay. Huyền Đức, [[:w:Quan Công|Quan Công]] vội ngăn mà rằng:
- Không nên, hắn là quan triều đình, em chớ nên tự tiện giết hắn.
Phi nói:
- Nếu không giết nó, mà lại ở đây làm đày tớ cho nó sai khiến, thì tôi không thể chịu được. Nếu hai anh muốn ở đây thì tôi xin đi ngay nơi khác.
Huyền Đức nói:
- Ba anh em kết nghĩa cùng sống chết, sao nỡ lìa nhau. Thôi cùng đi nơi khác là tiện hơn cả.
Phi nói:
- Có như thế thì cái tức này mới hơi hả.
Ngay đêm ấy ba người dẫn quân đến ở với [[:w:Chu Tuấn|Chu Tuấn]]. Tuấn khoản đãi rất hậu, cùng nhau hợp quân, tiến đánh [[:w:Trương Bảo (Khăn Vàng)|Trương Bảo]].
Bấy giờ [[:w:Tào Tháo|Tào Tháo]] đương theo [[:w:Hoàng Phủ Tung|Hoàng phủ Tung]] đánh [[:w:Trương Lương (Khăn Vàng)|Trương Lương]], hai bên đánh nhau một trận ở [[:w:Khúc Dương|Khúc-dương]] rất lớn.
Bên này Chu Tuấn tiến đánh Trương Bảo, Bảo dẫn tám chín vạn quân đóng ở mé sau núi. Tuấn sai Huyền Đức dẫn đội tiên phong ra đối địch với giặc. Trương Bảo sai phó tướng Cao Thăng phi ngựa ra thách đánh, Huyền Đức sai Trương Phi cự với Cao Thăng. Phi phóng ngựa cầm mâu cùng Thăng giao chiến, chưa được vài hiệp đã đâm Thăng ngã ngựa. Huyền Đức thúc quân xông lên, Trương Bảo ngồi trên ngựa, xõa tóc múa gươm giở yêu thuật, phút chốc sấm gió ầm ầm, một luồng khí đen tự trên không tỏa xuống, trong luồng khí đen có vô số người ngựa xông ra, quân Huyền Đức sợ hãi rối loạn, Huyền Đức vội vàng thu quân về, cùng Chu Tuấn bàn mưu định kế. Tuấn nói:
- Nó dùng yêu thuật thì ta phá cũng dễ. Ngày mai nên sai quân chứa sẵn máu lợn, máu chó phục ở trên núi, đợi quân giặc kéo đến, đứng trên vảy xuống, tự khắc giải được phép yêu.
Huyền Đức tuân lệnh, sai Quan Công, Trương Phi mỗi người dẫn một nghìn quân đem sẵn máu chó, máu lợn và đồ uế vật phục trên đỉnh núi.
Hôm sau Trương Bảo lại kéo cờ gióng trống đem quân đến thách đánh. Huyền Đức tự ra nghênh địch. Trương Bảo lại dùng phép yêu, phút chốc gió, sấm nổi lên, cát đá tung trời, trong luồng khí đen kéo ra vô số người ngựa. Huyền Đức quay ngựa chạy, Trương Bảo thúc quân đuổi theo, khi vào đến gần núi, quân mai phục của Quan, Trương nổ một tiếng trống lệnh, uế vật vung ra, tức thì những người ngựa bằng giấy tự trên không rơi xuống, sấm gió yên lặng, cát đá không bay nữa.
Trương Bảo thấy phép yêu đã bị phá, vội vã lui quân, song tả có Quan Công, hữu có Trương Phi, hai bên đổ ra, sau lưng có Huyền Đức, Chu Tuấn kéo đến, quân giặc bị thua to. Huyền Đức trông thấy hiệu cờ ''“Địa công tướng quân”'' phi ngựa đuổi theo. Trương Bảo cuống cuồng chạy trốn, Huyền Đức bắn ngay một phát tên trúng cánh tay trái, Trương Bảo đeo tên cố chết mà chạy vào [[:w:Đăng Phong|Dương-thành]], đóng chặt cửa không dám ra nữa.
Chu Tuấn đem quân vây thành, một mặt sai người đi dò, xem tin tức Hoàng phủ Tung. Thám tử về báo:
- Hoàng phủ Tung đánh trận nào thắng trận ấy. Triều đình thấy Đổng Trác thua luôn, hạ lệnh cho Tung thay Trác. Lúc Tung đến nơi thì Trương Giốc đã chết rồi. Trương Lương thống xuất cả quân ấy cùng quân Tung chống cự, bị Tung đánh thắng luôn bảy trận chém được Trương Lương ở Khúc-dương. Trương Giốc chết rồi cũng bị quật mả, cắt lấy thủ cấp đem về bêu ở [[:w:Lạc Dương (Trung Quốc)|kinh sư]], còn quân giặc ra hàng hết cả.
Hoàng phủ Tung có công, triều đình gia phong làm Sa kỵ tướng quân, lĩnh chức [[:w:Ký Châu|Ký-châu]]-mục.
Hoàng phủ Tung dâng biểu tâu [[:w:Lư Thực|Lư Thực]] có công không tội, triều đình lại cho Lư Thực giữ nguyên chức cũ. Tào Tháo cũng có công, được thăng [[:w:Tế Nam|Tế-nam]]-tướng, sắp sửa ban quân phó nhậm.
Chu Tuấn nghe nói, hạ lệnh thúc quân hết sức đánh lấy Dương-thành. Thế giặc bấy giờ rất nguy khốn. Một tên tướng giặc là Nghiêm Chánh đâm chết Trương Bảo, cắt lấy thủ cấp đầu hàng. Chu Tuấn đem quân bình luôn được mấy quận, rồi dâng biểu tâu bày việc thắng trận.
Bấy giờ còn ba tên dư đảng giặc khăn vàng là Triệu Hoằng, Hàn Trung và Tôn Trọng, hợp quân vài vạn, đi đến đâu cũng cướp của đốt nhà, nói là báo thù cho Trương Giốc. Triều đình giáng chỉ cho Chu Tuấn đem quân đắc thắng đi đánh. Tuấn vội vàng dẫn quân tiến ngay.
Lúc ấy giặc đương chiếm giữ [[:w:Nam Dương, Hồ Nam|Uyển-thành]], Tuấn đem quân đến đánh, Triệu Hoằng sai Hàn Trung ra đối địch.
Tuấn phái Huyền Đức, Quan, Trương đánh góc thành tây-nam. Hàn Trung sợ góc tây-nam thất thủ, đem hết quân tinh nhuệ ra chống cự. Chu Tuấn đem hai nghìn quân thiết kỵ đến đánh góc đông-bắc, giặc sợ thành hãm, vội bỏ góc tây-nam. Huyền Đức đem quân đánh mạnh đằng sau, quân giặc thua to, phải chạy vào thành. Chu Tuấn chia quân vây kín bốn mặt, trong thành lương cạn, Hàn Trung sai người ra xin hàng. Tuấn không cho. Huyền Đức nói:
- Xưa vua Cao Tổ lấy được thiên hạ, cũng vì hay chiêu kẻ hàng, dong kẻ thuận, nay Hàn Trung đã hàng thuận, sao ông không cho?
Tuấn nói:
- Cái đó mỗi lúc mỗi khác, không thể câu nệ được. Xưa vào đời Tần, Sở, thiên hạ rối loạn, dân không biết ai là chủ, cho nên chiêu kẻ hàng, thưởng kẻ phục để khuyến khích kẻ khác về với mình. Nay bốn bể đã về một mối, chỉ có giặc khăn vàng phản nghịch, nếu dong cho nó hàng, thì không sao khuyên được người lương thiện. Bọn giặc lúc đắc ý thì tha hồ giết người cướp của, lúc bị thua lại ra đầu hàng. Nếu nhận cho chúng đầu hàng, tức là nuôi cái mầm phản nghịch cho chúng nó, không phải là chính sách hay.
Huyền Đức nói:
- Ngài dạy cũng phải, nhưng bây giờ bốn mặt thành vây kín như bờ rào sắt, giặc xin hàng không được, tất nhiên phải cố chết mà đánh. Nghìn người một bụng còn khó đương nổi, nữa là trong thành còn những mấy vạn người liều mạng. Chi bằng bỏ trống hai mặt đông, nam, chỉ đánh hai mặt tây, bắc. Giặc thấy có đường tháo, tất bỏ thành mà chạy, không còn bụng nào ham đánh, ta có thể bắt sống được chúng.
Tuấn lấy làm phải, lập tức hạ lệnh rút quân hai mặt đông, nam, dồn lại đánh vào mặt tây mặt bắc. Quả nhiên Hàn Trung dẫn quân bỏ thành chạy. Tuấn cùng Huyền Đức, Quan, Trương thúc quân đuổi đánh, bắt chết Hàn Trung, quân giặc đều tan vỡ chạy trốn.
Trong khi đang đuổi đánh xô xát, gặp ngay Triệu Hoằng, Tôn Trọng dẫn quân đến, cùng Tuấn đánh nhau. Tuấn thấy quân Hoằng thế mạnh, đem quân tạm lui. Hoằng thừa thế lại cướp được Uyển-thành. Tuấn đóng trại cách thành mười dặm để đánh vào.
Chu Tuấn đang sắp sửa đánh thành, bỗng thấy một toán ngựa tự phía đông dẫn đến, một viên tướng đi đầu mặt to trán rộng, mình hổ lưng gấu.
[[Tập tin:Sun Jian Qing dynasty illustration.jpg|nhỏ|phải|Tôn Kiên. Tranh minh họa [[:w:Nhà Thanh|đời Thanh]].]]
Tướng ấy [[:w:Tôn Kiên|họ Tôn tên Kiên]], tên chữ là Văn Đài, dòng dõi [[:w:Tôn Vũ|Tôn Vũ]] ngày xưa, quê ở huyện [[:w:Phú Dương, Hàng Châu|Phú-xuân]] thuộc Ngô-quận.
Tôn Kiên năm mười bảy tuổi, một hôm cùng cha đi thuyền đến sông [[:w:Hàng Châu|Tiền-đường]], thấy một bọn giặc bể hơn mười đứa vừa cướp được tiền của khách buôn, đang chia nhau ở trên bờ. Kiên nói với cha rằng: “Con xin lên bắt lũ giặc này”. Bèn cầm đao nhảy vọt lên bờ, vừa múa đao vừa thét, chỉ đông chỉ tây như cách ra hiệu gọi người. Giặc tưởng quan quân đến, bỏ hết của cải chạy trốn. Kiên đuổi giết được một đứa, bởi thế nổi tiếng ở mấy quận huyện, được tiến cử làm chức hiệu-úy. Sau quân [[:w:Thiệu Hưng|Cối-kê]] có đứa yêu tặc là Hứa Xương làm phản, tự xưng là ''Dương-minh hoàng-đế'', tụ họp đến mấy vạn quân. Kiên cùng quan tư-mã quận ấy chiêu mộ dũng sĩ được hơn nghìn người hợp với quân mấy châu quận đánh tan giặc ấy, chém được Hứa Xương và con là Hứa Thiều. Quan thứ-sử Tang Mân dâng biểu tâu công cho Kiên, triều đình bổ Kiên làm quan thừa ở [[:w:Diêm Thành|Giêm-độc]]; sau lại đổi làm thừa ở [[:w:Hu Dị|Vu-thai]], làm thừa ở [[:w:Bi Châu|Hạ-bì]]. Nay thấy giặc khăn vàng nổi loạn, Kiên tụ tập thiếu niên trong làng cùng bọn khách buôn và quân tinh binh ở Hoài, Tứ cả thảy được một nghìn năm trăm người, dẫn đến tiếp ứng.
Chu Tuấn cả mừng, liền sai Kiên đánh cửa nam, Huyền Đức đánh cửa bắc, Tuấn tự đánh cửa tây, để cửa đông cho giặc chạy.
Tôn Kiên đi trước nhảy lên thành, chém luôn hơn hai mươi tên giặc, quân giặc sợ hãi bỏ chạy. Triệu Hoằng cầm giáo phi ngựa ra địch Tôn Kiên. Kiên bèn tự trên mặt thành nhảy xuống, cướp giáo của Hoằng đâm Hoằng ngã ngựa, rồi lại nhảy lên ngựa Hoằng xông vào giết giặc.
Tôn Trọng dẫn quân lẻn ra cửa bắc, gặp ngay Huyền Đức, không còn bụng nào đối địch, chỉ chực chạy thoát thân. Huyền Đức bắn một phát tên, Trọng tự trên ngựa lăn xuống.
Lúc ấy đại quân Chu Tuấn tự sau dồn đến, chém được vài vạn đầu giặc. Giặc đầu hàng không biết bao nhiêu mà kể. Một dải Nam-dương hơn mười quận đều yên. Tuấn ban quân về kinh, được phong làm sa-kỵ tướng-quân, lĩnh chức Hà-nam lệnh-doãn.
Tuấn dâng biểu tâu công Tôn Kiên và Lưu Bị. Vì Kiên có thầy thợ tay trong, nên được bổ làm Tư-mã đi nhậm chức ngay. Còn Lưu Bị chờ đợi mãi vẫn không được bổ dụng. Ba người buồn bã không vui, một hôm đi chơi rong đường phố, gặp quan lang-trung Trương Quân. Huyền Đức đến chào, nhân kể luôn công mình đánh giặc cho Quân nghe. Quân lấy làm kinh ngạc, bèn vào triều bệ kiến, và tâu rằng:
- Trước đây giặc khăn vàng phản nghịch, căn do cũng bởi bọn thường-thị mười người bán quan buôn tước, phi người thân không dùng, phi kẻ thù không giết, cho nên thiên hạ rối loạn. Xin bệ hạ sai chém ngay mười tên này, bêu đầu ở Nam-giao, rồi sai sứ giả đi bố cáo thiên hạ, ai có công trọng thưởng ngay. Như thế thì bốn bể tự khắc bình yên.
Mười thường-thị vội tâu vua rằng:
- Trương Quân đặt điều tâu bậy, đáng tội khi quân.
Vua sai võ sĩ đuổi Trương Quân ra.
Mười thường-thị bàn với nhau rằng: “Chắc hẳn có kẻ nào có công đánh giặc khăn vàng chưa được bổ dụng nên sinh ra oán hận. Ta hãy bảo nha môn ghi tên một số người, cất nhắc cho họ một chút, rồi sau sẽ liệu”.
Bởi vậy Huyền Đức được bổ làm quan úy huyện [[:w:Định Châu|An-hỷ]], và phái đi nhậm chức ngay.
Huyền Đức giải tán cho quân về làng, chỉ đem theo hơn hai mươi người thân tùy, cùng Quan, Trương đến huyện An-hỷ, làm việc quan suốt một tháng, chẳng lấy lễ của dân một chút gì, nên ai nấy đều cảm phục. Sau khi nhậm chức, cùng Quan, Trương ăn một mâm, nằm một chiếu; khi Huyền Đức ngồi chỗ đông người, thì Quan, Trương đứng hầu hai bên, cả ngày không biết mỏi.
Đến huyện chưa được bốn tháng, bỗng triều đình xuống chiếu: “Những người nào có công đánh giặc mà làm trưởng lại, thì đều bị thải hồi”.
Huyền Đức nghĩ mình có lẽ cũng ở trong số bị thải ấy, còn đang nghi hoặc, bỗng thấy báo có quan thanh tra là Đốc Bưu đến huyện. Huyền Đức vội đi đón tiếp. Lúc gặp Đốc Bưu, Huyền Đức vái chào một cách cung kính, Đốc Bưu ngồi trên mình ngựa, chỉ vẫy đầu roi đáp lại. Quan, Trương thấy vậy, tức giận vô cùng.
Khi đến nhà quán dịch (nhà để tiếp các quan to), Đốc Bưu ngoảnh mặt hướng nam ngồi cao ngất ngưởng. Huyền Đức đứng hầu ở dưới thềm. Lúc lâu Đốc Bưu cất tiếng hỏi:
- Thầy huyện Lưu do chân gì xuất thân?
Huyền Đức đáp:
- Bị này dòng dõi [[:w:Lưu Thắng (Trung Sơn vương)|Trung-sơn Tĩnh Vương]], khởi thân từ Trác-quận, chém giết giặc khăn vàng, lớn nhỏ hơn ba mươi trận đánh, có chút công lao, nên được bổ chức này.
Đốc Bưu thét mắng:
- Mi giả mạo hoàng thân, báo càn công trạng, hiện nay triều đình xuống chiếu, chính để thải bớt những bọn tham quan ô lại như mi đó!
Huyền Đức vâng dạ luôn mấy tiếng, lui về huyện nha, cùng viên đề lại bàn tính. Đề lại nói:
- Lão Đốc Bưu làm dữ như vậy, chẳng qua chỉ chực đòi của đút đấy thôi.
Huyền Đức nói:
- Ta không tơ hào của dân một tý gì, lấy đâu mà cung đốn hắn?
Ngày hôm Đốc Bưu đòi đề lại đến trước, bắt ép phải khai man là quan huyện hại dân.
Huyền Đức mấy lần đến để kêu van, cũng bị quân gác cửa không cho vào.
Lúc ấy Trương Phi vừa uống mấy chén rượu giải buồn, cưỡi ngựa đi chơi phiếm qua nhà quán dịch, thấy năm, sáu mươi ông già đang khóc than ở trước cửa. Phi hỏi cớ sao thì các lão đều nói:
- Đốc Bưu cố ép đề lại khai man để hại ông Lưu. Chúng tôi biết tin, đến đây kêu giúp, nhưng không cho vào, lại sai quân gác cửa đánh đuổi chúng tôi.
Trương Phi cả giận, giương mắt tròn xoe, hai hàm răng nghiến ken két, nhảy vùng ngay xuống ngựa, chạy sấn vào nhà quán dịch, những quân gác cửa không tài nào cản lại được. Phi chạy thẳng vào hậu đường, thấy Đốc Bưu đang ngồi chĩnh chện trên sảnh, đề lại bị trói ở dưới đất. Phi thét lớn lên rằng:
- Th{{SIC|ắ|ằ}}ng mọt dân kia! Có biết ta là ai không?
Đốc Bưu chưa kịp nói câu gì, đã bị Trương Phi túm tóc lôi tuột ra ngoài quán dịch, kéo thẳng về trước huyện, trói vào tầu ngựa, rồi bẻ cành liễu đánh vào hai mông đít Đốc Bưu, đánh gãy luôn đến hơn mười cành liễu.
Huyền Đức đang lúc ngồi buồn, bỗng nghe ngoài cửa huyện có tiếng xôn xao bèn hỏi, tả hữu nói rằng:
- Trương tướng quân đang trói đánh một người nào ở cửa huyện.
Huyền Đức vội chạy ra xem, tưởng trói đánh ai, té ra là quan Đốc Bưu! Huyền Đức kinh ngạc, hỏi đầu đuôi.
Phi nói:
- Cái thằng hại nước mọt dân này, chẳng đánh cho chết còn đợi đến bao giờ!
Đốc Bưu kêu:
- Ông Huyền Đức ơi! Cứu tôi mấy!
Huyền Đức vốn người nhân từ, trong lòng không nỡ, liền bảo Trương Phi không được đánh nữa.
Quan Công cũng chạy lại nói rằng:
- Huynh trưởng làm nên biết bao công lớn, chỉ mới được bổ chức huyện úy nhỏ mọn này. Nay lại còn bị thằng Đốc Bưu nó sỉ nhục. Tôi nghĩ cái bụi chông gai không phải là nơi chim loan hoàng đậu. Bất nhược ta giết quách thằng Đốc Bưu này đi, rồi bỏ quan về làng, mưu tính việc lớn còn hơn.
Huyền Đức bèn đem thao ấn treo vào cổ Đốc Bưu mà mắng rằng:
- Cứ cái tội mày hại dân, đáng nên giết chết mới phải, nhưng tao hãy tạm tha cho mày. Thao ấn đây, tao trả chúng mày. Từ nay chúng tao không ở đây nữa.
Đốc Bưu được sống sót, về nói với quan thái thú Định-châu, quan thái thú tư giấy đi các nơi, sai người nã bắt anh em Huyền Đức.
Huyền Đức cùng Quan, Trương sang [[:w:Đại (huyện)|Đại-châu]] ở với Lưu Khôi. Khôi thấy Huyền Đức là người tôn thất nhà Hán, bèn giấu ở trong nhà, không cho ai biết.
Nói về mười tên thường-thị, trong tay đã giữ trọng quyền, bèn bàn tính với nhau: hễ ai không theo chúng đều giết đi cả. [[w:Triệu Trung|Triệu Trung]], [[w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]] sai người đến yêu sách các tướng có công phá giặc khăn vàng ngày trước phải lễ vàng bạc mới được làm quan, bằng không thì tâu vua bắt bãi chức. Vì lẽ ấy mà Hoàng phủ Tung, Chu Tuấn không chịu đút lót, đều bị bãi cả. Vua lại phong Triệu Trung làm sa-kỵ tướng quân, bọn Trương Nhượng mười ba người đều phong tước hầu, triều chánh mỗi ngày một suy đồi, nhân dân đâu cũng ta oán.
Bởi thế ở [[w:Trường Sa, Hồ Nam|Trường-sa]] có Khu Tinh nổi loạn, ở [[w:Kế Châu|Ngư-dương]] có Trương Thuần, Trương Cử làm phản. Cử tự xưng là thiên-tử, Thuần xưng là đại tướng quân. Những tờ biểu cáo cấp gửi về triều nhiều như bướm bay, bọn thường-thị đều giấu cả, không tâu vua biết.
Một hôm vua đang cùng mười kẻ thường-thị uống rượu ở vườn hoa sau cung, bỗng thấy quan gián-nghị đại-phu [[w:Lưu Đào (Đông Hán)|Lưu Đào]] đi tắt đến trước mặt vua mà khóc. Vua hỏi vì cớ gì. Đào nói:
- Cái cơ thiên hạ nguy ngập đã hiện ra trước mắt, bệ hạ còn cứ vui say tỉnh với bọn yêm hoạn như thế ru?
Vua nói:
- Nhà nước yên ổn có việc gì mà nguy ngập?
- Tâu bệ hạ! Hiện nay giặc cướp nổi lên tứ tung, xâm chiếm khắp các châu quận, cái vạ ấy đều bởi mười đứa thường-thị bán quan hại dân, lừa dối quân thượng mà ra cả. Cho nên những người chính nhân quân tử bỏ đi hết cả. Đó là vạ nguy đã ở ngay trước mắt rồi còn gì?
Mười kẻ thường-thị đều phủ phục trước mặt vua, tâu rằng:
- Muôn tâu thánh thượng, quan đại thần đã không lượng bao dong, thì chúng tôi biết mình chẳng thoát. Cúi xin thánh thượng cho toàn tính mạng được về quê quán, tình nguyện đem hết gia sản giúp đỡ việc quân.
Nói đoạn đều khóc nức nở.
Vua cả giận mắng Đào rằng:
- Nhà ngươi cũng có người hầu hạ, sao không cho trẫm có người hầu hạ?
Tức thì sai võ sĩ lôi Lưu Đào ra chém.
Lưu Đào vừa đi vừa kêu lớn rằng:
- Trời ôi! Đào này chết không đáng tiếc, chỉ tiếc cái cơ nghiệp nhà Hán hơn bốn trăm năm đến nay tiêu diệt trong khoảnh khắc!
Võ sĩ đem Lưu Đào ra, sắp hành hình thì có một quan đại thần nói to lên rằng:
- Khoan, không được hạ thủ vội, đợi ta vào can vua đã.
Chúng nhìn xem ai, thì là quan tư-đồ Trần Đam.
Đam đi tắt vào cung tâu rằng:
- Tâu bệ hạ! Chẳng hay Lưu gián-nghị can tội gì mà bị giết?
Vua phán:
- Nó dám gièm pha cận thần của trẫm, lại xúc phạm cả trẫm nữa.
Đam tâu:
- Hiện thiên hạ ai cũng muốn nuốt sống ăn tươi mười tên thường-thị. Vậy mà bệ hạ kính nó như cha mẹ. Chúng không có một chút công nào mà được phong đến tước hầu. Huống chi lũ Phong Tư kết liên với giặc khăn vàng, toan làm tay trong cho chúng nó, bệ hạ cũng biết đấy. Nay nếu bệ hạ không tỉnh ngộ, xã tắc đến đổ mất.
Vua phán:
- Phong Tư làm loạn, sự đó mập mờ chưa rõ, còn trong bọn thường-thị mười người, há không có một hai người trung nghĩa hay sao?
Trần Đam đập đầu xuống đất, cố can.
Vua nổi giận, sai lôi Đam ra, bắt bỏ ngục cùng với Lưu Đào.
Ngay đêm hôm ấy bọn thường-thị vào ngục giết cả hai người rồi giả làm chiếu chỉ nhà vua cử Tôn Kiên làm thái-thú Trường-sa và đem quân đi đánh Khu Tinh. Chưa đầy năm mươi ngày có tin báo thắng trận, khu [[w:Giang Hạ|Giang-hạ]] đều bình định cả. Vua xuống chiếu phong Kiên làm [[w:Hồ Châu|Ô-trình]]-hầu, phong [[w:Lưu Ngu|Lưu Ngu]] làm quan mục U-châu, đem quân đến Ngư-dương đánh Trương Thuần, Trương Cử. Lưu Khôi được tin, bèn viết thư tiến dẫn Huyền Đức. Ngu mừng lắm, cử Huyền Đức làm quan đô-úy, đem quân đến tận tổ giặc, đánh mấy trận lớn, giặc bị thua luôn. Trương Thuần tính vốn hung bạo, không được lòng dân, bị tên thủ hạ chặt đầu đem nộp rồi dẫn quân ra hàng.
Trương Cử biết thế mình không sao địch nổi, cũng tự thắt cổ chết.
Thế là cõi Ngư-dương đều bình định cả.
Lưu Ngu dâng biểu tâu công lớn của Lưu Bị. Triều đình tha tội đánh Đốc Bưu và bổ làm quan thừa ở [[w:Duy Phường|Hạ-mật]], sau lại nhắc làm quan úy ở [[w:Liêu Thành|Cao-đường]]. [[w:Công Tôn Toản|Công tôn Toản]] lại dâng biểu tâu công đánh giặc trước của Huyền Đức và tiến cử làm quan tư-mã, lĩnh chức huyện lịnh [[w:Đức Châu, Sơn Đông|Bình-nguyên]]. Huyền Đức ở Bình-nguyên nhờ có lương tiền và quân mã, nên có vẻ phong quang dễ chịu hơn trước. Lưu Ngu cũng có công dẹp giặc, nên được thăng làm thái-úy.
Tháng tư, mùa hạ năm Trung Bình thứ sáu (189) vua [[w:Hán Linh Đế|Linh-đế]] bệnh nặng, triệu quan đại tướng quân [[w:Hà Tiến|Hà Tiến]] vào cung, bàn tính mọi việc quan trọng về sau.
Nguyên Hà Tiến vốn xuất thân con nhà hàng thịt, vì có em gái lấy vua, sinh được hoàng tử tên là [[w:Hán Thiếu Đế|Biện]] nên được lập làm hoàng hậu, và Tiến nhờ đó được quyền cao chức trọng.
Vua lại yêu mến một mỹ nhân nữa họ Vương, sinh được hoàng tử tên là [[w:Hán Hiến Đế|Hiệp]]. [[w:Hà hoàng hậu (Hán Linh Đế)|Hà-hậu]] ghen ghét, bỏ thuốc độc giết Vương mỹ nhân, nên hoàng tử Hiệp phải nuôi ở trong cung [[w:Đổng thái hậu (Nhà Hán)|Đổng thái-hậu]].
Đổng thái-hậu là mẹ vua Linh-đế, nguyên là vợ Giải-độc đình-hầu Lưu Thường. Bởi khi trước vua [[w:Hán Hoàn Đế|Hoàn-đế]] không có con trai, phải đón con trai Giải-độc đình-hầu lên làm vua, tức là vua Linh-đế. Linh-đế lên ngôi, bèn đón mẹ vào phụng dưỡng ở trong cung và tôn làm thái-hậu.
Đổng thái-hậu thường khuyên vua lập hoàng tử Hiệp làm thái tử để nối ngôi vua về sau. Vua cũng yêu Hiệp hơn, nên có ý muốn lập Hiệp. Lúc ấy bệnh vua đã nguy, trung-thường-thị là Kiển Thạc tâu rằng:
- Tâu bệ hạ! Việc này quan hệ rất lớn, nếu muốn lập hoàng tử Hiệp, trước hết xin giết Hà Tiến mới khỏi lo ngại về sau.
Vua lấy làm phải, giáng chỉ vời Tiến vào cung. Tiến vừa đi đến cửa cung, gặp quan tư-mã Phan Ẩn bảo Tiến rằng:
- Đừng vào cung, Kiển Thạc nó định mưu giết ông đấy!
Tiến cả sợ, vội về nhà, triệu các quan đại thần đến hội nghị, muốn giết hết cả bọn hoạn quan.
Một người đứng lên nói:
- Thế lực của bọn hoạn quan, gây ra tự đời vua [[w:Hán Xung Đế|Xung]] vua [[w:Hán Chất Đế|Chất]], ngày nay lan rộng khắp cả trong triều, giết hết thế nào được. Nếu cơ mưu không kín, chết đến cả họ ngay, vậy xin nghĩ cho kỹ.
Tiến nhìn xem ai, thì là quan điển-quân hiệu-úy Tào Tháo.
Tiến mắng Tháo rằng:
- Trẻ con, biết đâu việc lớn của triều đình!
Đang lúc dùng dằng chưa quyết, Phan Ẩn chạy đến báo rằng:
- Linh-đế đã băng hà rồi, hiện Kiển Thạc đang bàn với mười kẻ thường-thị định giấu kín không phát tang. Một mặt giả làm chiếu chỉ, triệu Hà quốc-cữu vào cung, giết đi, rồi lập hoàng tử Hiệp lên ngôi vua.
Nói chưa dứt lời, có sứ giả đến triệu Tiến vào cung.
Tào Tháo nói:
- Việc cốt yếu bây giờ, phải lập vua trước đã, rồi sau hãy nói đến việc trừ giặc.
Tiến nói:
- Có ai dám cùng ta vào cung lập vua mới và đánh giặc không?
Một người đứng phắt dậy nói rằng:
- Tôi xin đem năm nghìn tinh binh, chém khóa cửa cung vào lập vua mới, và giết hết bọn hoạn quan, quét sạch trong triều để yên thiên hạ.
[[Tập tin:Yuan_Shao_Portrait.jpg|nhỏ|phải|Viên Thiệu. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Tiến nhìn xem, thì người ấy là con quan tư-đồ Viên Phùng, cháu [[w:Viên Ngỗi|Viên Ngỗi]], tên là [[w:Viên Thiệu|Thiệu]], tên chữ là Bản Sơ, hiện làm quan tư-lệ hiệu-úy.
Tiến cả mừng, bèn điểm năm nghìn quân ngự lâm giao cho Viên Thiệu. Thiệu nai nịt đem quân đi trước. Hà Tiến dẫn bọn Hà Ngung, [[w:Tuân Du|Tuân Du]], Trịnh Thái, hơn ba mươi quan đại thần đi sau, cùng vào trong cung, đến trước linh cữu vua Linh-đế lập thái tử Biện lên làm vua. Các quan tung hô xong đâu đấy, Viên Thiệu bèn đi vào cung bắt Kiển Thạc. Thạc kinh hoảng chạy nấp vào dưới bụi cây trong vườn ngự uyển, bị trung-thường-thị là Quách Thắng giết chết. Quân cấm binh do Thạc quản lĩnh đều ra hàng thuận hết cả. Viên Thiệu nói với Hà Tiến rằng:
- Bọn trung-quan trước kết đảng với nhau, bây giờ nên thừa thế giết cả đi.
Bọn Trương Nhượng biết tin, sợ hãi hết hồn, vội chạy vào cung van lạy tâu Hà-hậu rằng:
- Bày mưu hại quốc-cữu trước đây chỉ có một mình Kiển Thạc, thực quả không dính dáng gì đến chúng tôi. Nay quốc-cữu nghe lời Viên Thiệu, muốn giết hết cả chúng tôi, thật là oan quá, xin nương nương rủ lòng thương cứu cho.
Hà-hậu nói:
- Chúng mày đừng lo, ta sẽ bảo hộ cho.
Bèn giáng chỉ triệu Hà Tiến vào cung, khẽ bảo rằng:
- Anh em ta hàn vi từ thuở nhỏ, nếu không có bọn Trương Nhượng, sao có phú quý ngày nay? Nay thằng Kiển Thạc bất nhân đã bị giết rồi, sao anh còn tin lời người ta nói mà toan giết cả bọn hoạn quan?
Hà Tiến nghe đoạn, ra bảo các quan rằng:
- Kiển Thạc bày mưu hại ta đem giết cả họ nó đi. Còn những người khác đừng nên giết hại.
Viên Thiệu nói:
- Nhổ cỏ không nhổ hết rễ, rồi có vạ đến mình!
Tiến nói:
- Ý ta đã quyết, ngươi đừng nói lắm nữa.
Các quan đều lui về cả.
Hôm sau thái-hậu cho Hà Tiến tham xét công việc các bộ thượng thư, còn các người khác đều được thăng chức.
Đổng thái-hậu nghe biết chuyện, bèn cho vời bọn Trương Nhượng vào cung phán rằng:
- Con em thằng Hà Tiến, trước kia vì ta bao bọc cất nhắc cho nó mới được nên sung nên sướng. Ngày nay con nó lên ngôi hoàng-đế, các quan trong ngoài đều là vây cánh nó cả, uy thế nó to lắm, ta biết tính sao bây giờ?
Trương Nhượng nói:
- Tâu mẫu hậu, việc đó cũng dễ. Xin mẫu hậu cứ ra ngự triều đường, rủ mành mành coi xét việc chính, phong hoàng-tử Hiệp lên tước vương, gia phong quốc cữu Đổng Trọng lên chức lớn coi giữ binh quyền, và trọng dụng bọn hạ thần thì việc lớn có thể mưu tính xong được.
Đổng thái-hậu cả mừng, sáng hôm sau lâm triều, giáng chỉ phong hoàng tử Hiệp làm [[w:Khai Phong|Trần lưu]] Vương, Đổng Trọng làm phiêu-kỵ tướng-quân. Bọn Trương Nhượng cũng đều được tham dự triều chính.
Hà thái-hậu thấy Đổng thái-hậu chuyên quyền, bèn sửa một tiệc yến ở trong cung, mời Đổng thái-hậu đến dự.
Giữa tiệc, Hà thái-hậu đứng dậy, nâng chén rượu vái hai vái mà thưa rằng:
- Chúng ta đều là lũ đàn bà, không nên tham dự triều chính. Xưa bà Lã Hậu chỉ vì tham giữ trọng quyền, đến nỗi nghìn người trong họ đều bị giết. Nay chúng ta chỉ nên ở yên trong cung cấm, việc triều chính đã có các nguyên-lão đại-thần bàn tính với nhau. Thế mới là hạnh phúc cho nhà nước, cúi xin nương nương soi xét.
Đổng thái-hậu nổi giận mắng rằng:
- Mày đã đem lòng ghen ghét, đánh thuốc độc giết Vương mỹ-nhân. Nay mày cậy có con làm vua, cậy thế lực anh mày là thằng Hà Tiến, dám nói hỗn với tao à? Tao sai quan phiêu-kỵ (trỏ vào Đổng Trọng) chặt cổ anh mày dễ như trở bàn tay cho mà xem.
Hà-hậu cũng nổi xung cãi lại rằng:
- Ta đem lời phải khuyên can, mà lại trở mặt giận à?
Đổng thái-hậu càng tức, lại nhiếc móc Hà-hậu:
- Cái đồ nhà mày bán thịt, còn có kiến thức gì.
Hai người cãi nhau mãi, sau có bọn Trương Nhượng khuyên can, mới người nào về cung người ấy.
Đêm hôm ấy Hà-hậu triệu Hà Tiến vào cung, kể lại việc đã xẩy ra. Tiến về mời các quan tam-công đến thương nghị.
Buổi chầu sáng hôm sau, Tiến xui các đình thần tâu rằng:
- Đổng thái-hậu nguyên là một vị phiên phi<ref>Phiên phi: vợ các tước vương tước hầu.</ref>, không nên để ở lâu trong cung cấm. Xin dời ngay ra an-trí ở [[w:Thương Châu, Hà Bắc|Hà-gian]], hạn lập tức phải đi ngay!
Hà Tiến một mặt sai người đưa Đổng thái-hậu đi, một mặt phái quân cấm binh đến vây nhà phiêu-kỵ tướng-quân Đổng Trọng, đòi lấy ấn thụ. Đổng Trọng biết việc chẳng lành, liền tự vẫn. Lúc người nhà cất tiếng khóc, quân sĩ mới giải vây trở về.
Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê thấy phe Đổng thái-hậu thất bại, bèn đem vàng ngọc, châu báu đút lót em trai Hà Tiến là Hà Miêu và mẹ Tiến là [[w:Vũ Dương (huyện)|Vũ dương]] Quân, nhờ vào nói khéo với Hà thái-hậu che chở cho. Bởi vậy mười tên thường-thị lại được tin dùng.
Tháng sáu năm ấy, Hà Tiến ngầm sai người đến Hà-gian đánh thuốc độc giết Đổng thái-hậu, đem linh cữu về kinh, táng ở Văn-lăng. Tiến cáo bệnh không đi đưa đám.
Một hôm quan tư-lệ hiệu-úy Viên Thiệu vào nói với Tiến rằng:
- Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê đang đi nói phao lên rằng: “Ông đánh thuốc độc giết Đổng thái-hậu, để mưu việc lớn”. Nếu bây giờ ông không giết ngay bọn chúng nó, tất có vạ lớn về sau. Xưa Đậu Vũ muốn trừ bọn yêm-hoạn trong cung, vì mưu mô không kín lại bị chúng giết, tức là cái gương sáng đó. Hiện giờ anh em vây cánh ông, đều là những tay anh tuấn, vả lại quyền ở trong tay, thật là cơ hội trời cho, không nên bỏ lỡ.
Tiến nói:
- Thong thả để sau sẽ bàn tính.
Mấy đứa tả hữu của Hà Tiến nghe lỏm được chuyện ấy, liền đi báo với Trương Nhượng. Bọn Trương Nhượng lại đem rất nhiều của báu lễ đút Hà Miêu. Miêu vào tâu Hà-hậu rằng:
- Đại tướng quân phò tá vua mới, không làm điều nhân từ, chỉ chăm chém giết. Nay tự nhiên vô cớ lại toan giết cả mười quan thường-thị, thật tự mình gây ra mầm loạn.
Hà-hậu cho là phải.
Một chốc Hà Tiến vào tâu xin giết bọn hoạn quan. Hậu nói:
- Bọn thường-thị coi sóc việc trong cung cấm, phép cũ nhà Hán từ xưa vẫn thế. Cớ sao tiên đế vừa mới chầu trời mà ngươi chỉ muốn giết những bầy tôi cũ. Thế không phải là tôn trọng sự thờ cúng đối với tiên đế!
Tiến vốn là một người đù đờ không quyết đoán, nghe Hà thái-hậu nói vậy, vâng dạ luôn miệng rồi lui ra.
Viên Thiệu đứng đón ngoài cửa, hỏi rằng:
- Việc lớn thế nào?
Tiến nói:
- Nhưng thái-hậu không nghe, thì làm thế nào?
Thiệu nói:
- Nên triệu những người anh hùng các nơi đem quân về kinh giết hết bọn yêm-hoạn này đi. Đến lúc việc đã cấp bách thì thái-hậu muốn chẳng nghe cũng chẳng được.
Tiến nói:
- Kế ấy diệu lắm!
Bèn truyền hịch đi các trấn, triệu các tướng lĩnh đem quân về kinh sư.
Quan chủ-bạ Trần Lâm can rằng:
- Việc ấy không nên. Tục ngữ có câu: “Bưng mắt bắt chim”, ấy là mình tự dối mình. Việc nhỏ mọn cũng không thể tự dối mà làm xong, huống chi là việc lớn nước nhà? Nay tướng quân dựa uy vua, cầm quyền lớn, như rồng bay hổ nhảy, muốn làm thế nào cũng được. Việc giết bọn hoạn quan thật dễ không khác quạt lò than đốt mấy sợi tóc. Làm việc một cách quyền biến, quyết đoán ngay, phát động nhanh như sấm sét tức là thuận đạo trời và lòng người. Nay nếu triệu các quan ngoại-trấn, mỗi người một bụng, biết ai thế nào? Có khác đưa chuôi dao cho người cầm mà mình cầm đằng lưỡi không? Như thế không những việc không thành mà lại sinh biến loạn nữa.
Tiến cười nói:
- Đó là kiến thức của hạng người hèn nhát!
Một người đứng lên vỗ tay cười lớn mà rằng:
- Việc ấy dễ như trở bàn tay, hà tất phải bàn cho lắm!
Chúng nhìn xem ai, người ấy chính là Tào Tháo.
Đó chí là:
<poem>
''Muốn giết tiểu nhân bên cạnh chúa,''
''Nên nghe trí sĩ ở trong triều.''
</poem>
Muốn biết Tào Tháo nói thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích nhỏ|vạch=có}}
88wcq107wu7l0u5hs4h69eqqo2mhx7u
Tam quốc diễn nghĩa/Hồi 3
0
4053
141421
141385
2022-08-19T16:02:51Z
Vinhtantran
484
ẩn bản đồ vì làm xô lệch trình bày trang
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 3
| trước = [[../Hồi 2|Hồi 2]]
| sau = [[../Hồi 4|Hồi 4]]
| ghi chú =
}}
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Bản đồ định vị+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Địa danh trong Hồi thứ ba|places=
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=right|label=1}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=16|lat_sec=20|lon_deg=108|background=white|lon_min=06|lon_sec=30|position=left|label=2}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=56|lon_deg=102|lon_min=38|background=white|position=left|label=3}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=46|lon_deg=111|lon_min=45|background=white|position=top|label=4}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=15|lon_deg=117|lon_min=06|background=white|position=left|label=5}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=21|lon_deg=114|lon_min=36|background=white|position=left|label=6}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=51|lon_deg=119|lon_min=24|background=white|position=left|label=7}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=30|lon_deg=110|lon_min=52|background=white|position=left|label=8}}
}}
</div></div>
{|
|
: 1. [[w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc Dương]]
: 2. [[w:Vũ Công|Ngao-hương]]
|
: 3. [[w:Vũ Uy, Cam Túc|Tây-lương]]
: 4. [[w:Thằng Trì|Rẵn-trì]]
|
: 5. [[w:Thái Sơn|Thái-sơn]]
: 6. Đồng-cung
|
: 7. [[w:Duy Phường|Xương Ấp]]
: 8. [[w:Linh Bảo|Hoằng nông]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ BA
<poem>
'''Tiệc Ôn-minh, Đổng Trác mắng Đinh Nguyên;'''
'''Dùng vàng bạc, Lý Túc dụ Lã Bố'''
</poem>
}}
Lúc ấy [[w:Tào Tháo|Tào Tháo]] nói với [[w:Hà Tiến|Hà Tiến]] rằng:
- Cái vạ hoạn quan, đời nào cũng có, nên vua chúa các đời không nên trao quyền bính và tin dùng chúng để chúng hoành hành như ngày nay. Bây giờ muốn trị tội chúng, tưởng chỉ nên giết mấy đứa đầu đảng. Như vậy chỉ cần một kẻ coi ngục cũng đủ, hà tất phải triệu quân ngoài vào. Nếu muốn giết cả bọn chúng, cơ mưu tránh sao khỏi tiết lộ, tôi chắc công việc sẽ thất bại.
Hà Tiến tức giận mà rằng:
- Mạnh Đức cũng hai lòng sao?
Tháo lui ra ngoài nói: “Làm loạn thiên hạ tất là Hà Tiến”.
Tiến không nghe lời Tháo, mật sai người đem chiếu chỉ đi gấp đến các trấn triệu quân vào kinh-sư.
Nói về quan tiền-tướng-quân, tước [[w:Vũ Công|Ngao-hương]]-hầu sung chức thứ-sử [[w:Vũ Uy, Cam Túc|Tây-lương]] là [[w:Đổng Trác|Đổng Trác]], trước vì đánh giặc khăn vàng bị thua, triều đình đã toan trị tội, bởi có đút lót mười kẻ thường-thị nên không can gì. Sau lại khéo kết giao với bọn quyền quý trong triều, làm đến chức lớn, thống lĩnh hai mươi vạn quân [[w:Vũ Uy, Cam Túc|Tây-lương]], vẫn có lòng phản nghịch. Bấy giờ tiếp được chỉ triệu vào kinh, trong lòng hớn hở, liền điểm binh lục tục khởi hành, sai con rể là trung-lang-tướng [[w:Ngưu Phụ|Ngưu Phu]] đóng giữ Thiểm-tây, hắn tự đem bọn [[w:Lý Thôi|Lý Thôi]], [[w:Quách Dĩ|Quách Dĩ]], [[w:Trương Tế|Trương Tế]], [[w:Phàn Trù|Phàn Trù]] dẫn quân đến Lạc-dương. Trác lại có người rể nữa, vừa là mưu sĩ cho hắn, tên là [[w:Lý Nho|Lý Nho]]. Nho bảo Trác rằng:
- Nay tuy phụng chỉ vào kinh, biết đâu trong đó chẳng có nhiều điều ám muội? Chi bằng trước hãy sai người dâng biểu, cho danh nghĩa rõ ràng, mới có thể mưu toan việc lớn được.
Trác cả mừng, bèn sai thảo biểu dâng vào kinh trước.
Biểu rằng:
''“Thiết tưởng thiên hạ đến nỗi loạn mãi thế này, đều bởi bọn hoạn quan [[w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]] khinh nhờn phép nước. Tôi nghĩ: muốn cho nồi nước sôi khỏi dào ra ngoài, cần phải rút bớt củi; mổ cái nhọt có chịu đau một lúc, mới khỏi nọc độc trong mình. Tôi xin bạo dạn gióng trống khua chuông dẫn quân vào Lạc-dương, để giết bọn Nhượng; được như thế xã tắc may lắm, thiên hạ may lắm”.''
Hà Tiến đem tờ biểu đưa các quan xem. Có quan thị ngự-sử Trịnh Thái can rằng:
- Đổng Trác là giống sài lang, dẫn hắn vào kinh, hắn sẽ ăn thịt người.
Tiến nói:
- Anh đa nghi như thế, mưu việc lớn sao được?
[[w:Lư Thực|Lư Thực]] cũng can rằng:
- Tôi vốn biết Đổng Trác là đứa mặt người dạ thú, hễ để cho hắn vào chốn cấm đình, tất sinh tai vạ. Chi bằng ngăn cản cho hắn đừng vào là hơn.
Tiến cũng không nghe.
Trịnh Thái, Lư Thực đều bỏ quan mà đi. Các quan đại thần trong triều cũng bỏ đi quá nửa.
Tiến sai người đón Đổng Trác ở [[w:Thằng Trì|Rẵn-trì]], Trác đóng quân lại không tiến vội.
Bọn Trương Nhượng được tin quân ngoài kéo vào, cùng bàn nhau rằng:
- Đó là mưu của Hà Tiến, nếu chúng ta không hạ thủ trước, sẽ chết cả họ.
Bèn mai phục năm mươi tên đao phủ ở mé trong cửa Gia-đức, cung Trường-lạc, rồi vào tâu [[w:Hà hoàng hậu (Hán Linh Đế)|Hà thái-hậu]] rằng:
- Nay đại tướng quân giả làm chiếu chỉ, triệu quân ngoại trấn vào kinh, lập ý giết cả bọn chúng tôi, xin mẫu hậu rủ lòng thương cứu cho.
Thái hậu nói:
- Các ngươi nên đến dinh đại tướng quân mà tạ tội.
Nhượng nói:
- Tâu mẫu hậu, nếu chúng tôi đến tướng phủ, tất là thịt nát xương tan, còn sống sao được. Xin mẫu hậu tuyên triệu đại tướng quân vào cung mà dụ bảo cho. Nếu mẫu hậu không chút thương tình, thì chúng tôi xin chết ngay ở trước mặt mẫu hậu.
Thái-hậu bèn giáng chỉ triệu Tiến vào.
Tiến tiếp chỉ toan đi ngay.
Trần Lâm can rằng:
- Tờ chiếu này tất là mưu mô của mấy tên thường-thị, ông không nên đi, nếu đi tất có vạ lớn.
Tiến nói:
- Thái-hậu triệu ta, làm gì có tai vạ?
[[w:Viên Thiệu|Viên Thiệu]] nói:
- Bây giờ mưu cơ đã lộ, tướng quân còn muốn vào cung hay sao?
Tào Tháo nói:
- Không gì bằng triệu ngay mười đứa thường-thị ra đây đã, rồi hãy vào!
Tiến cười nói:
- Đó là kiến thức của trẻ con. Hiện quyền bính thiên hạ ở trong tay ta, mấy đứa thường-thị dám làm gì nổi!
Thiệu nói:
- Nay ông đã định vào cung, chúng tôi xin đem quân hộ vệ để phòng sự bất trắc.
Viên Thiệu, Tào Tháo mỗi người kén năm trăm quân giao cho em Viên Thiệu là [[w:Viên Thuật|Viên Thuật]] thống lĩnh. Viên Thiệu nai nịt đâu đấy, dẫn quân dàn ở mé ngoài cửa Thanh-tỏa, Thiệu cùng Tháo đeo gươm đi kèm, hộ vệ Hà Tiến.
Tiến đi đến trước cửa cung Trường-lạc, hoàng-môn-quan truyền chỉ rằng: “Thái Hậu chỉ vời một mình đại tướng quân vào thôi, còn người khác đều không được vào”. Thành ra bọn Viên Thiệu, Tào Tháo đều phải đứng ngoài cả. Một mình Tiến ngang nhiên vào cung. Vừa đi đến cửa Gia-đức, bọn Trương Nhượng quát mắng Tiến rằng:
- Đổng thái-hậu có tội gì mà mày đánh thuốc độc giết chết? Cớ sao đám tang quốc mẫu mày giả tảng ốm không đi đưa? Mày vốn giống đê hèn, làm nghề mổ lợn bán thịt, chúng tao tiến cử đến vua mới được vinh hiển. Đã không báo ơn thì chớ, lại định mưu hại chúng tao? Mày bảo chúng tao là phường ngu trọc, vậy ai là người thanh cao?
Tiến hoảng sợ muốn tìm lối ra, cửa cung đã đóng hết, bọn đao phủ ồ ra, chém Tiến đứt làm hai đoạn.
Đời sau có thơ than rằng:
<poem>
''Nhà Hán thương ôi! Vận đã cùng!''
''Mưu gì Hà Tiến lại tam-công?''
''Mấy phen chẳng biết nghe lời phải''
''Thoát khỏi làm sao kiếm cửa cung?''
</poem>
Viên Thiệu chờ mãi không thấy Tiến ra, bèn gọi lớn lên rằng: “Mời tướng quân ra về”.
Bọn Trương Nhượng đem thủ cấp Hà Tiến từ trên tường ném ra tuyên dụ rằng:
- Hà Tiến mưu phản đã bị giết rồi. Còn những kẻ bị Tiến bắt ép phải theo, đều tha cho cả.
Viên Thiệu cất tiếng hô lớn lên rằng:
- Bọn hoạn quan dám giết đại thần. Ai muốn giết chúng nó mau mau vào đây trợ chiến.
Bộ-tướng của Hà Tiến là Ngô Khuông bèn phóng hỏa đốt cửa Thanh-tỏa. Viên Thiệu dẫn quân sấn vào cung, hễ gặp đứa hoạn quan nào cũng giết hết cả. Viên Thiệu, Tào Tháo phá cửa vào được trong cung, gặp [[w:Triệu Trung|Triệu Trung]], Trình Kháng, Hạ Huy, Quách Thắng, đuổi đến trước lầu Thúy-hoa, lấy kiếm vằm ra như bùn.
Bấy giờ trong cung lửa cháy lưng trời. Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê, [[w:Tào Tiết (hoạn quan)|Tào Tiết]], Hầu Lãm, bắt ép thái hậu, [[w:Hán Thiếu Đế|thái tử]] cùng [[w:Hán Hiến Đế|Trần lưu Vương]] đi vào nội-sảnh rồi lẻn đường sau chạy đi Bắc-cung. Lư Thực dẫu bỏ quan, nhưng chưa đi nơi khác, sực thấy trong cung có biến, bèn mặc giáp cầm giáo, đang đứng ở dưới gác, xa trông thấy Đoàn Khuê đang giục thái-hậu đi mau, bèn thét lớn lên rằng:
- Thằng Khuê kia! Sao dám bắt ép thái-hậu đi đâu?
Đoàn Khuê bỏ chạy, thái-hậu tự trong cửa sổ nhảy ra, Thực vội đến cứu được thoát.
Ngô Khuông đánh vào nội đình, gặp Hà Miêu cầm gươm đi ra, Khuông hô lớn lên rằng:
- Thằng Miêu thông mưu giết anh, nên giết đi thôi.
Chúng đều nói:
- Phải, phải, chém thằng giặc giết anh ấy đi!
Miêu sợ cuống toan chạy, bị bốn mặt vây kín, chém nhừ ra như bột.
Thiệu sai quân chia ra từng bọn đi giết gia quyến mười đứa thường thị, bất cứ già trẻ lớn bé đều giết hết cả, thành ra có nhiều kẻ không có râu bị giết lầm.
Tào Tháo một mặt cứu hỏa trong cung, mời Hà thái-hậu tạm coi quyền chính, một mặt sai quân đuổi theo bọn Trương Nhượng và tìm vua Thiếu-đế.
Nhắc lại bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê ức hiếp vua Thiếu-đế và Trần lưu Vương xông pha khói lửa, đêm chạy đến núi Bắc-mang. Vào khoảng canh hai, bỗng nghe phía sau có tiếng người ngựa reo hò theo đuổi, viên tướng đi đầu là quan trung-bộ duyện-lại ở Hà-nam tên gọi Mẫn Cống hô lớn lên rằng: “Thằng nghịch tặc kia chớ chạy”.
Trương Nhượng thấy nguy cấp quá liền đâm đầu xuống sông tự tử.
Thiếu-đế cùng Trần lưu Vương chưa rõ lành dữ thế nào, đành phải nín hơi nấp vào trong bụi cỏ ở bờ sông, quân sĩ tìm hết tứ phía vẫn không biết vua ở đâu.
Hai anh em vua phục trong bụi cỏ mãi đến canh tư, sương xuống lạnh buốt cả người, trong lòng đói khát, ôm nhau mà khóc, nhưng sợ có người biết, chỉ nuốt nước mắt khóc ngầm trong bụi rậm.
Trần lưu Vương nói:
- Chỗ này không nên ở mãi, phải đi tìm đường khác mới sống.
Nói đoạn hai người nắm áo nhau bò trên bờ sông. Chỗ ấy gai góc rất nhiều, trong đêm tối đường đi không rõ, đương lúc bối rối không biết tính sao, bỗng thấy một đàn đom đóm hàng trăm nghìn con kéo đến, lập lòe bay quanh trước mặt vua.
Trần lưu Vương nói:
- Đó là trời giúp anh em ta!
Bèn đi theo ánh sáng đom đóm, dần dần trông thấy đường cái. Đi đến canh năm đau chân quá không thể bước đi được nữa. Bên sườn núi có một đống cỏ, anh em vua bèn nằm quay ra đó.
Trước mặt đống cỏ là một cái trại. Chủ trại đêm hôm ấy nằm mộng thấy hai vầng mặt trời sa xuống sau nhà, giật mình tỉnh dậy, khoác áo ra trông, thấy trên đồng cỏ bốc lên một luồng khí sáng xông lên tận trời, rất lấy làm lạ, vội chạy ra xem tận nơi, thấy có hai người nằm trên đống cỏ, liền hỏi:
- Hai cậu là con cái nhà ai?
Thiếu-đế sợ không dám cất tiếng.
Trần Lưu Vương trỏ vào Thiếu-đế nói rằng:
- Đây chính là hoàng đế bây giờ, gặp loạn mười đứa thường-thị, phải trốn đến đây; còn ta là hoàng-đệ Trần lưu Vương.
Chủ trại sợ hãi, lạy hai lạy tâu rằng:
- Hạ thần là em tư-đồ Thôi Liệt ngày trước, tên gọi Thôi Nghị, vì thấy bọn thường-thị bán quan hại nước, ghét bỏ người hiền, nên về ở ẩn ở đây.
Bèn đưa hai anh em Thiếu-đế đi vào trong nhà, đem rượu cơm dâng tiến.
Nhắc lại, khi Mẫn Cống đuổi bắt được Đoàn Khuê, hỏi vua ở đâu, Khuê nói đến dọc đường bị lạc, nên không biết. Cống bèn giết Khuê, cắt đầu treo vào cổ ngựa, rồi sai quan đi các nơi tìm vua, còn Cống một mình tự đi tìm một lối. Tình cờ đi đến ngay nhà Thôi Nghị.
Thôi Nghị thấy dưới cổ ngựa có cái đầu người, liền hỏi. Cống thuật lại đầu đuôi. Nghị bèn dẫn Cống vào trong nhà làm lễ triều kiến, vua tôi cùng nhau khóc lóc một hồi. Cống tâu rằng:
- Trong nước không thể một ngày không có vua, xin bệ hạ về kinh ngay cho.
Bấy giờ trong nhà Thôi Nghị chỉ có một con ngựa gầy, đem ra vua ngự. Mẫn Cống cùng Trần lưu Vương cùng cưỡi một con ngựa, khởi hành về kinh.
[[Tập tin:Wang Yun Portrait.jpg|nhỏ|phải|Vương Doãn. Tranh minh họa đời [[w:nhà Thanh|Thanh]].]]
Đi chưa được ba dặm, thì gặp tư-đồ [[w:Vương Doãn|Vương Doãn]], thái-úy [[w:Dương Bưu|Dương Bưu]], tả-quân hiệu-úy [[w:Thuần Vu Quỳnh|Thuần vu Quỳnh]], hữu-quân hiệu-úy Triệu Manh, hậu-quân hiệu-úy Pháo Tín và trung-quân hiệu-úy Viên Thiệu, tất cả vài trăm người ngựa kéo đến nghênh tiếp xa giá, vua tôi đều nhìn nhau mà khóc. Một chốc sai đem thủ cấp Đoàn Khuê về kinh trước bêu lên làm lệnh, rồi đổi hai con ngựa tốt để vua và Trần lưu Vương cưỡi cùng về kinh sư.
Trước đây ít lâu, trẻ con ở kinh thành Lạc-dương thường hát mấy câu như sau:
<poem>
''“Đế chẳng ra đế''
''Vương chẳng ra vương''
''Xe xe ngựa ngựa''
''Chạy ra Bắc-mang.”''
</poem>
Đến bây giờ quả là ứng nghiệm.
Xa giá vừa đi được vài dặm, bỗng thấy cờ kéo rợp trời, bụi bay mờ đất, một đoàn binh mã kéo đến. Các quan thất sắc, vua cũng kinh hoàng. Viên Thiệu tế ngựa ra thét hỏi:
- Binh mã nào đấy?
Dưới bóng ngọn cờ thêu, một tướng phi ngựa ra hỏi lại rằng:
- Vua đâu?
Thiếu-đế sợ run không nói được. Trần lưu Vương sấn ngựa ra mắng rằng:
- Anh là người nào?
Tướng ấy đáp:
- Thứ-sử Tây-lương Đổng Trác!
Trần lưu Vương hỏi vặn:
- Anh đến đây hộ giá hay cướp giá?
- Tôi cốt đến hộ giá.
- Đã đến hộ giá, sao hoàng đế ở kia, anh không xuống ngựa?
Trác cả sợ, vội vàng xuống ngựa, thụp lạy ở bên cạnh đường. Trần lưu Vương lấy lời phủ dụ. Trác, từ đấy ăn nói giữ gìn trước sau không hớ điều gì, trong bụng rất thán phục Trần lưu Vương, đã có ý bỏ vua nọ lập vua kia tự đó.
Ngày hôm ấy, vua về đến kinh, vào cung bái kiến Hà thái-hậu, mẹ con than khóc cùng nhau. Lúc kiểm điểm trong cung, không biết cái ấn ngọc truyền quốc biến đi đâu mất.
Đổng Trác đóng đồn ở ngoài thành, hàng ngày đem quân thiết giáp vào trong thành, đi nghênh ngang các phố, nhân dân rất là sợ hãi. Trác lại tự do vào ra chỗ cung cấm, không kiêng sợ gì cả.
Hậu-quân hiệu-úy Pháo Tín đến chơi Viên Thiệu bàn với Thiệu rằng:
- Đổng Trác muốn như có bụng khác, phải trừ ngay đi.
Thiệu nói:
- Triều đình vừa mới được yên, không nên khinh động.
Pháo Tín lại đến bàn với Vương Doãn. Doãn nói:
- Để rồi sẽ bàn.
Pháo Tín thấy không ai nghe mình, bèn đem quân bản bộ đến đóng ở [[w:Thái Sơn|Thái-sơn]]. Đổng Trác chiêu dụ những quân bộ hạ của anh em Hà Tiến về cả tay mình, rồi bàn mảnh với Lý Nho rằng:
- Ta muốn bỏ Thiếu-đế, lập Trần lưu Vương, có nên không?
Lý Nho nói:
- Nên lắm. Nay đang lúc triều đình vô chủ, nên làm ngay mới được, nếu để chậm sẽ sinh biến. Ngày mai nên triệu các quan hội họp ở trong vườn Ôn-minh, đem việc phế lập ra hiểu dụ. Ai không nghe thì chém; nắm được uy quyền, chính ở lúc này.
Trác mừng lắm, sáng hôm sau mở tiệc yến rất lớn, mời tất cả các công khanh đến. Ai cũng sợ Đổng Trác cho nên không thiếu mặt nào.
[[Tập tin:Dong Zhuo plots to depose Emperor Shao of Han.jpg|nhỏ|phải|Trác mừng lắm, sáng hôm sau mở tiệc yến rất lớn, mời tất cả các công khanh đến.]]
Trác chờ các quan đến đã đông đủ, mới lững thững đến cửa vườn, xuống ngựa đeo gươm vào tiệc.
Rượu được vài tuần, Trác truyền lệnh dừng chén, nghỉ âm nhạc, rồi nói lớn lên rằng:
- Các quan hãy im lặng, nghe ta nói một câu chuyện: “Vua là chủ tể thiên hạ, không có uy nghi không thể nào tôn phụng tôn miếu và xã tắc. Nay hoàng thượng nhu nhược, không bằng Trần lưu Vương thông minh ham học, xứng đáng ngôi rồng. Vậy ý ta muốn bỏ vua Thiếu-đế, lập Trần lưu Vương, các quan nghĩ sao?”.
Các quan nghe đoạn, yên lặng nhìn nhau, không ai dám nói câu gì cả.
Bỗng có một người ngồi trong tiệc đẩy ghế đứng dậy, nói lớn lên rằng:
- Không được! Không được! Mày là thằng nào, dám nói càn rỡ như vậy? Hoàng thượng là con cả đức Tiên-đế, xưa nay không chút lầm lỗi, sao bỗng dưng dám nói bỏ người nọ lập người kia! Mày muốn phản nghịch chăng?
[[Tập tin:Ding_Yuan_Qing_Illustration.jpg|nhỏ|phải|Đinh Nguyên. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Trác nhìn xem mới biết người ấy là quan thứ-sử Kinh-châu tên gọi [[w:Đinh Nguyên|Đinh Nguyên]]. Trác nổi giận quát lên rằng:
- Ai theo ta thì sống, ai chống ta thì chết!
Bèn rút gươm toan chém Đinh Nguyên.
Bấy giờ Lý Nho thấy một người đứng sau lưng Đinh Nguyên, khí vũ hiên ngang, uy phong lẫm lẫm, tay cầm cái phương-thiên họa-kích, có vẻ tức giận trừng mắt mà nhìn, vội vàng đứng dậy nói rằng:
- Hôm nay trong tiệc ăn uống, không nên bàn đến việc nước. Xin đến sáng mai họp bàn tại nhà nghị sự thì hơn!
Mọi người đều khuyên Đinh Nguyên lên ngựa về nhà.
Trác lại hỏi các quan rằng:
- Ta nói thế có hợp lẽ không?
Lư Thực nói:
[[Tập tin:Huo_guang.jpg|nhỏ|phải|Chân dung Hoắc Quang trong sách ''[[w:Tam tài đồ hội|Tam tài đồ hội]]''.]]
- Ông lầm rồi! Xưa vua [[w:Thái Giáp|Thái Giáp]] không minh, [[w:Y Doãn|Y Doãn]] đuổi ra Đồng-cung; vua [[w:Lưu Hạ|Xương Ấp]] lên ngôi vua mới có 27 ngày mà làm hơn 30 điều ác, nên [[w:Hoắc Quang|Hoắc Quang]] phải làm lễ cáo nhà thái-miếu mà bỏ đi. Ngày nay vua dẫu còn trẻ tuổi, song vốn thông minh nhân từ, chưa có một chút lỗi lầm. Ông chẳng qua là thứ-sử đường ngoài, chưa tham dự việc nước, lại không có tài lớn như Hoắc Quang, Y Doãn, sao dám cả gan bàn đến việc bỏ vua nọ lập vua kia? Thánh nhân nói rằng: “Có chí như Y Doãn thì hay, bằng không có chí ấy mà làm thì là thoán nghịch”.
Trác cả giận, rút gươm sấn đến toan chém Lư Thực, quan nghị-lang là Bành Bá can rằng:
- Lư thượng-thư là người có danh vọng lớn ở trong thiên hạ, nếu đem giết đi, e rằng thiên hạ không phục!
Trác mới thôi.
Quan tư-đồ là Vương Doãn nói tiếp rằng:
- Việc phế lập không nên bàn sau khi uống rượu say. Xin để ngày khác lại bàn.
Các quan đều giải tán.
Lúc ấy Trác còn chống gươm đứng giữa cửa vườn, bỗng thấy một người cầm kích phi ngựa ở ngoài cửa. Trác hỏi Lý Nho:
- Người nào đấy?
Nho nói:
- Đấy là con nuôi Đinh Nguyên, [[w:Lã Bố|họ Lã tên Bố]], chữ là Phụng Tiên, chúa công hãy nên tạm tránh đi.
[[Tập tin:Lü_Bu_Portrait.jpg|nhỏ|phải|Lã Bố, tay trái cầm ''phương-thiên họa-kích''. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Trác bèn lẩn trốn vào trong vườn.
Sáng hôm sau có tin báo Đinh Nguyên dẫn quân đến ngoài thành thách đánh. Trác nổi giận, cùng Lý Nho dẫn quân ra đối địch.
Thấy Lã Bố đầu búi tóc đội mũ kim-quan, mình mặc áo chiến-bào thêu trăm hoa, ngoài phủ giáp đường-nghê, thắt dây bảo-đới, phóng ngựa múa kích, theo Đinh Nguyên ra trước trận.
Đinh Nguyên trỏ vào mặt Đổng Trác mắng rằng:
- Nhà nước không may bị bọn yêm-hoạn lộng quyền, đến nỗi nhân dân lầm than. Mày không có chút công cán gì, sao dám mở mồm nói việc phế lập để loạn triều đình?
Đổng Trác chưa kịp trả lời, Lã Bố đã phi ngựa sấn sang. Đổng Trác hoảng chạy, Đinh Nguyên thúc quân đánh tràn, quân Trác thua to, phải lui hơn ba mươi dặm đóng trại. Trác bàn với các tướng rằng:
- Ta xem Lã Bố là kẻ tài giỏi phi thường, nếu được người ấy về với ta, lo gì không được thiên hạ!
Một người ở dưới trướng bước ra thưa rằng:
- Chúa công lo chi điều ấy! Tôi vốn cùng làng với Lã Bố, hắn là người chỉ có sức khỏe mà không có mưu, thấy lợi thì quên nghĩa. Tôi quyết xin ba tấc lưỡi nói cho Lã Bố chắp tay về với chúa công!
Trác cả mừng nhìn xem, người ấy là hổ-bôn trung-lang-tướng [[w:Lý Túc|Lý Túc]]. Trác bèn hỏi:
- Làm thế nào để dụ hắn?
Túc nói:
- Tôi nghe chúa công có một con ngựa tốt tên là [[w:Ngựa Xích Thố|Xích-thố]], mỗi ngày đi ngàn dặm. Nếu đem con ngựa ấy và thêm một số vàng ngọc, lấy lợi dụ hắn, hắn sẽ phản Đinh Nguyên về với chúa công.
Trác quay lại hỏi Lý Nho rằng:
- Lời nói ấy có dùng được không?
Nho nói:
- Chúa công muốn lấy thiên hạ, thì tiếc gì một con ngựa.
Trác vui vẻ cho ngựa, lại cho thêm một nghìn lạng vàng, vài chục hạt châu, và một cái đai bằng ngọc. Lý Túc nhận các món ấy đem sang trại quân Lã Bố, bị quân canh đường vây bắt, Túc bảo rằng:
- Các ngươi vào bẩm Lã tướng quân, có người bạn cũ đến thăm đấy.
Lã Bố sai mời vào.
Túc hỏi Bố rằng:
- Lâu nay hiền đệ vẫn được bình yên?
Lã Bố chắp tay thưa rằng:
- Lâu lắm mới gặp nhau, vậy chớ bây giờ anh ở đâu?
Túc nói:
- Tôi hiện làm chức hổ-bôn trung-lang-tướng, nghe tin hiền đệ trổ tài giúp nước, tôi mừng rỡ vô cùng. Nhân có một con ngựa tốt, ngày đi ngàn dặm, lội nước trèo núi như chạy đường phẳng, gọi là ngựa Xích-thố, thành tâm đem dâng hiền đệ, thêm giúp oai hùng.
Lã Bố sai dắt lại xem, quả nhiên toàn thân con ngựa ấy một màu đỏ như lửa, tuyệt không có cái lông nào tạp, từ đầu đến đuôi dài một trượng, từ móng lên trán cao tám thước, lúc miệng gầm chân cất, có cái vẻ tung mây vượt bể.
Đời sau có người vịnh thơ khen ngựa Xích-thố rằng:
<poem>
''Ngàn dặm mù bay tít nẻo xa,''
''Trèo non vượt nước khéo xông pha!''
''Cương tơ chặt đứt, rung chuông ngọc,''
''Rồng đỏ trên trời hẳn mới xa!''
</poem>
Lã Bố trông thấy ngựa mừng lắm, tạ rằng:
- Anh cho con ngựa hay như thế, biết lấy gì đáp lại.
Túc nói:
- Tôi vì nghĩa đến đây, dám mong gì báo đáp!
Lã Bố sai làm rượu thết đãi. Rượu đã ngà say, Túc nói:
- Tôi với hiền đệ ít khi gặp nhau, nhưng được gặp lệnh tôn luôn.
Lã Bố nói:
- Anh say rồi, cha tôi quy ẩn đã lâu, sao còn hội diện được với anh?
Túc cả cười mà rằng:
- Tôi đã say đâu, tôi nói lệnh tôn là nói Đinh thứ-sử đó!
Bố có ý hổ thẹn nói rằng:
- Tôi ở với ông Đinh kến Dương, cũng là bất đắc dĩ.
Túc nói:
- Hiền đệ có tài ngang trời dọc đất, bốn bể ai chẳng quý trọng, phú quý công danh, coi dễ như thò tay lấy của ở trong túi, sao lại nói là bất đắc dĩ mà cam chịu khuất ở dưới người ta?
Bố thở dài nói:
- Tôi chỉ giận chưa gặp được thầy.
Túc cười nói:
- Chim khôn chọn cây mà đậu, người hiền chọn chúa mà thờ; nếu không sớm liệu cơ, ngày sau hối sao kịp?
- Anh xem ở trong triều, coi ai đáng mặt anh hùng đời nay?
- Tôi xem các quan đại thần bây giờ không ai bằng được Đổng Trác. Đổng Trác tôn người hiền, kính kẻ sĩ, thưởng phạt công minh, chắc sau này làm nên nghiệp lớn.
Bố hăm hở nói:
- Quả vậy, tôi muốn về với ông ta, chỉ hiềm chưa có đường lối.
Túc bèn đem vàng, hạt châu và cái đai ngọc bày la liệt ở trước mặt Lã Bố. Lã Bố kinh hãi nói rằng: “Sao có những thứ này”. Túc sai tả hữu lui cả, rồi bảo Lã Bố rằng:
- Đây là Đổng-công mộ đại danh đã lâu, bảo tôi thân đem các vật này đến dâng hiền đệ; con ngựa Xích-thố cũng của Đổng-công kính tặng.
Lã Bố nói:
- Đổng-công có lòng quá yêu, tôi biết lấy gì đáp lại?
Túc nói:
- Bất tài như tôi còn làm đến chức hổ-bôn trung-lang-tướng. Nếu ông về với Đổng-công thì quý hiển chưa biết chừng nào.
Lã Bố nói:
- Nhưng tôi không có chút công gì làm lễ tiến kiến?
Túc nói:
- Muốn có công cũng dễ lắm, chỉ trở bàn tay là được. Chỉ sợ ông không chịu làm thôi!
Lã Bố ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Tôi muốn giết Đinh Nguyên, dẫn quân về hàng Đổng Trác, có nên không?
Túc nói:
- Làm được như thế, thật là công rất lớn. Nhưng việc phải quả quyết làm ngay mới được.
Lã Bố hẹn đến hôm sau thì đem quân lại hàng.
Túc từ biệt về.
[[Tập tin:Lu Bu murders Ding Yuan.jpg|nhỏ|phải|Lã Bố giết Đinh Nguyên.]]
Đêm hôm ấy, hồi canh hai, Lã Bố cầm dao, vào thẳng màn Đinh Nguyên. Ông này đang thắp nến xem sách, thấy Lã Bố đến ông hỏi:
- Con đến có việc chi đó, con?
Bố nổi giận quát:
- Ta đây đường đường một đấng trượng phu, có đâu chịu làm con mày!
Nguyên nói:
- Phụng Tiên, vì cớ gì thay lòng đổi dạ như thế?
Lã Bố bước thẳng lên, giơ dao chém Nguyên một nhát, chặt lấy đầu rồi gọi lớn tả hữu rằng:
- Đinh Nguyên bất nhân, ta đã giết nó rồi. Ai theo ta thì ở đây, không theo thì đi!
Quân sĩ tan đi quá nửa.
Ngày hôm sau, Lã Bố cầm đầu Đinh Nguyên đến Lý Túc, Túc đưa vào ra mắt Đổng Trác. Trác mừng lắm, làm rượu thết đãi, sụp xuống lạy Lã Bố trước nói rằng:
- Trác nay được tướng quân, ví như lúa nắng lâu mà được trận mưa ngọt!
Lã Bố rước Trác ngồi lên, lạy mà nói rằng:
- Ngài có bụng yêu, tôi xin thờ ngài làm nghĩa phụ.
Trác lấy áo cẩm-bào dát vàng đem ra cho Lã Bố; uống rượu vui vẻ, rồi tan.
Đổng Trác tự đấy uy thế mỗi ngày một lớn; tự lĩnh chức tiền-tướng-quân, phong cho em là Đổng Mân làm tả-tướng-quân, tước Vu-hầu; phong Lã Bố làm kỵ-đô-úy, trung-lang-tướng, tước Đô-đình-hầu.
Lý Nho khuyên Trác định ngay việc phế lập.
Trác bèn đặt một tiệc yến ở trong dinh, mời cả các công khanh đến; sai Lã Bố đem hơn một nghìn quân giáp sĩ, canh gác hai bên.
Hôm ấy quan thái-phó Viên Ngỗi và trăm quan đều đến. Uống rượu được vài tuần, Trác cầm gươm nói rằng:
- Nay vua ngu yếu, không thờ được tôn-miếu; ta muốn theo Y Doãn, Hoắc Quang ngày xưa, bỏ vua cho ra làm [[w:Linh Bảo|Hoằng nông]] Vương, và lập Trần lưu Vương lên nối nghiệp. Ai không theo, ta chém!
Quần thần run sợ, không ai dám đáp lại, duy có quan trung-quân hiệu-úy là Viên Thiệu đứng vụt lên nói:
- Thiên tử mới lên ngôi, không làm điều gì thất đức, mày dám bàn bỏ con đích lập con thứ, định làm phản hay sao?
Trác giận đáp lại:
- Việc thiên hạ ở trong tay tao, nay tao làm đấy! Ai dám không nghe? Mày xem lưỡi gươm tao sắc hay không sắc?
Viên Thiệu cũng rút gươm ra nói rằng:
- Gươm mày sắc, dễ gươm tao không sắc hay sao?
Hai người đối địch nhau ở ngay trên tiệc rượu.
Thế rõ thực là:
<poem>
''Đinh Nguyên trượng nghĩa thân vừa chết,
''Viên Thiệu tranh hùng thế cũng nguy!
</poem>
Chưa biết tính mạng Viên Thiệu thế nào, xem hồi sau thì biết rõ.
{{chú thích nhỏ|vạch=có}}
rlkql4f5jtk69tjhe52phuovrgkrvt5
141422
141421
2022-08-19T16:03:18Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 3
| trước = [[../Hồi 2|Hồi 2]]
| sau = [[../Hồi 4|Hồi 4]]
| ghi chú =
}}
<!--
<div class="thumb" style="margin: 5px; clear: both;">
<div style="overflow: auto; overflow-x: scroll; width: 98%;">
{{Bản đồ định vị+|Trung Quốc|width=1000|float=center|caption=Địa danh trong Hồi thứ ba|places=
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=39|lon_deg=112|lon_min=26|background=white|position=right|label=1}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=16|lat_sec=20|lon_deg=108|background=white|lon_min=06|lon_sec=30|position=left|label=2}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=37|lat_min=56|lon_deg=102|lon_min=38|background=white|position=left|label=3}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=46|lon_deg=111|lon_min=45|background=white|position=top|label=4}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=15|lon_deg=117|lon_min=06|background=white|position=left|label=5}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=21|lon_deg=114|lon_min=36|background=white|position=left|label=6}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=36|lat_min=51|lon_deg=119|lon_min=24|background=white|position=left|label=7}}
{{Bản đồ định vị~|Trung Quốc|lat_deg=34|lat_min=30|lon_deg=110|lon_min=52|background=white|position=left|label=8}}
}}
</div></div>
{|
|
: 1. [[w:Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc Dương]]
: 2. [[w:Vũ Công|Ngao-hương]]
|
: 3. [[w:Vũ Uy, Cam Túc|Tây-lương]]
: 4. [[w:Thằng Trì|Rẵn-trì]]
|
: 5. [[w:Thái Sơn|Thái-sơn]]
: 6. Đồng-cung
|
: 7. [[w:Duy Phường|Xương Ấp]]
: 8. [[w:Linh Bảo|Hoằng nông]]
|}
-->
{{giữa|
HỒI THỨ BA
<poem>
'''Tiệc Ôn-minh, Đổng Trác mắng Đinh Nguyên;'''
'''Dùng vàng bạc, Lý Túc dụ Lã Bố'''
</poem>
}}
Lúc ấy [[w:Tào Tháo|Tào Tháo]] nói với [[w:Hà Tiến|Hà Tiến]] rằng:
- Cái vạ hoạn quan, đời nào cũng có, nên vua chúa các đời không nên trao quyền bính và tin dùng chúng để chúng hoành hành như ngày nay. Bây giờ muốn trị tội chúng, tưởng chỉ nên giết mấy đứa đầu đảng. Như vậy chỉ cần một kẻ coi ngục cũng đủ, hà tất phải triệu quân ngoài vào. Nếu muốn giết cả bọn chúng, cơ mưu tránh sao khỏi tiết lộ, tôi chắc công việc sẽ thất bại.
Hà Tiến tức giận mà rằng:
- Mạnh Đức cũng hai lòng sao?
Tháo lui ra ngoài nói: “Làm loạn thiên hạ tất là Hà Tiến”.
Tiến không nghe lời Tháo, mật sai người đem chiếu chỉ đi gấp đến các trấn triệu quân vào kinh-sư.
Nói về quan tiền-tướng-quân, tước [[w:Vũ Công|Ngao-hương]]-hầu sung chức thứ-sử [[w:Vũ Uy, Cam Túc|Tây-lương]] là [[w:Đổng Trác|Đổng Trác]], trước vì đánh giặc khăn vàng bị thua, triều đình đã toan trị tội, bởi có đút lót mười kẻ thường-thị nên không can gì. Sau lại khéo kết giao với bọn quyền quý trong triều, làm đến chức lớn, thống lĩnh hai mươi vạn quân [[w:Vũ Uy, Cam Túc|Tây-lương]], vẫn có lòng phản nghịch. Bấy giờ tiếp được chỉ triệu vào kinh, trong lòng hớn hở, liền điểm binh lục tục khởi hành, sai con rể là trung-lang-tướng [[w:Ngưu Phụ|Ngưu Phu]] đóng giữ Thiểm-tây, hắn tự đem bọn [[w:Lý Thôi|Lý Thôi]], [[w:Quách Dĩ|Quách Dĩ]], [[w:Trương Tế|Trương Tế]], [[w:Phàn Trù|Phàn Trù]] dẫn quân đến Lạc-dương. Trác lại có người rể nữa, vừa là mưu sĩ cho hắn, tên là [[w:Lý Nho|Lý Nho]]. Nho bảo Trác rằng:
- Nay tuy phụng chỉ vào kinh, biết đâu trong đó chẳng có nhiều điều ám muội? Chi bằng trước hãy sai người dâng biểu, cho danh nghĩa rõ ràng, mới có thể mưu toan việc lớn được.
Trác cả mừng, bèn sai thảo biểu dâng vào kinh trước.
Biểu rằng:
''“Thiết tưởng thiên hạ đến nỗi loạn mãi thế này, đều bởi bọn hoạn quan [[w:Trương Nhượng|Trương Nhượng]] khinh nhờn phép nước. Tôi nghĩ: muốn cho nồi nước sôi khỏi dào ra ngoài, cần phải rút bớt củi; mổ cái nhọt có chịu đau một lúc, mới khỏi nọc độc trong mình. Tôi xin bạo dạn gióng trống khua chuông dẫn quân vào Lạc-dương, để giết bọn Nhượng; được như thế xã tắc may lắm, thiên hạ may lắm”.''
Hà Tiến đem tờ biểu đưa các quan xem. Có quan thị ngự-sử Trịnh Thái can rằng:
- Đổng Trác là giống sài lang, dẫn hắn vào kinh, hắn sẽ ăn thịt người.
Tiến nói:
- Anh đa nghi như thế, mưu việc lớn sao được?
[[w:Lư Thực|Lư Thực]] cũng can rằng:
- Tôi vốn biết Đổng Trác là đứa mặt người dạ thú, hễ để cho hắn vào chốn cấm đình, tất sinh tai vạ. Chi bằng ngăn cản cho hắn đừng vào là hơn.
Tiến cũng không nghe.
Trịnh Thái, Lư Thực đều bỏ quan mà đi. Các quan đại thần trong triều cũng bỏ đi quá nửa.
Tiến sai người đón Đổng Trác ở [[w:Thằng Trì|Rẵn-trì]], Trác đóng quân lại không tiến vội.
Bọn Trương Nhượng được tin quân ngoài kéo vào, cùng bàn nhau rằng:
- Đó là mưu của Hà Tiến, nếu chúng ta không hạ thủ trước, sẽ chết cả họ.
Bèn mai phục năm mươi tên đao phủ ở mé trong cửa Gia-đức, cung Trường-lạc, rồi vào tâu [[w:Hà hoàng hậu (Hán Linh Đế)|Hà thái-hậu]] rằng:
- Nay đại tướng quân giả làm chiếu chỉ, triệu quân ngoại trấn vào kinh, lập ý giết cả bọn chúng tôi, xin mẫu hậu rủ lòng thương cứu cho.
Thái hậu nói:
- Các ngươi nên đến dinh đại tướng quân mà tạ tội.
Nhượng nói:
- Tâu mẫu hậu, nếu chúng tôi đến tướng phủ, tất là thịt nát xương tan, còn sống sao được. Xin mẫu hậu tuyên triệu đại tướng quân vào cung mà dụ bảo cho. Nếu mẫu hậu không chút thương tình, thì chúng tôi xin chết ngay ở trước mặt mẫu hậu.
Thái-hậu bèn giáng chỉ triệu Tiến vào.
Tiến tiếp chỉ toan đi ngay.
Trần Lâm can rằng:
- Tờ chiếu này tất là mưu mô của mấy tên thường-thị, ông không nên đi, nếu đi tất có vạ lớn.
Tiến nói:
- Thái-hậu triệu ta, làm gì có tai vạ?
[[w:Viên Thiệu|Viên Thiệu]] nói:
- Bây giờ mưu cơ đã lộ, tướng quân còn muốn vào cung hay sao?
Tào Tháo nói:
- Không gì bằng triệu ngay mười đứa thường-thị ra đây đã, rồi hãy vào!
Tiến cười nói:
- Đó là kiến thức của trẻ con. Hiện quyền bính thiên hạ ở trong tay ta, mấy đứa thường-thị dám làm gì nổi!
Thiệu nói:
- Nay ông đã định vào cung, chúng tôi xin đem quân hộ vệ để phòng sự bất trắc.
Viên Thiệu, Tào Tháo mỗi người kén năm trăm quân giao cho em Viên Thiệu là [[w:Viên Thuật|Viên Thuật]] thống lĩnh. Viên Thiệu nai nịt đâu đấy, dẫn quân dàn ở mé ngoài cửa Thanh-tỏa, Thiệu cùng Tháo đeo gươm đi kèm, hộ vệ Hà Tiến.
Tiến đi đến trước cửa cung Trường-lạc, hoàng-môn-quan truyền chỉ rằng: “Thái Hậu chỉ vời một mình đại tướng quân vào thôi, còn người khác đều không được vào”. Thành ra bọn Viên Thiệu, Tào Tháo đều phải đứng ngoài cả. Một mình Tiến ngang nhiên vào cung. Vừa đi đến cửa Gia-đức, bọn Trương Nhượng quát mắng Tiến rằng:
- Đổng thái-hậu có tội gì mà mày đánh thuốc độc giết chết? Cớ sao đám tang quốc mẫu mày giả tảng ốm không đi đưa? Mày vốn giống đê hèn, làm nghề mổ lợn bán thịt, chúng tao tiến cử đến vua mới được vinh hiển. Đã không báo ơn thì chớ, lại định mưu hại chúng tao? Mày bảo chúng tao là phường ngu trọc, vậy ai là người thanh cao?
Tiến hoảng sợ muốn tìm lối ra, cửa cung đã đóng hết, bọn đao phủ ồ ra, chém Tiến đứt làm hai đoạn.
Đời sau có thơ than rằng:
<poem>
''Nhà Hán thương ôi! Vận đã cùng!''
''Mưu gì Hà Tiến lại tam-công?''
''Mấy phen chẳng biết nghe lời phải''
''Thoát khỏi làm sao kiếm cửa cung?''
</poem>
Viên Thiệu chờ mãi không thấy Tiến ra, bèn gọi lớn lên rằng: “Mời tướng quân ra về”.
Bọn Trương Nhượng đem thủ cấp Hà Tiến từ trên tường ném ra tuyên dụ rằng:
- Hà Tiến mưu phản đã bị giết rồi. Còn những kẻ bị Tiến bắt ép phải theo, đều tha cho cả.
Viên Thiệu cất tiếng hô lớn lên rằng:
- Bọn hoạn quan dám giết đại thần. Ai muốn giết chúng nó mau mau vào đây trợ chiến.
Bộ-tướng của Hà Tiến là Ngô Khuông bèn phóng hỏa đốt cửa Thanh-tỏa. Viên Thiệu dẫn quân sấn vào cung, hễ gặp đứa hoạn quan nào cũng giết hết cả. Viên Thiệu, Tào Tháo phá cửa vào được trong cung, gặp [[w:Triệu Trung|Triệu Trung]], Trình Kháng, Hạ Huy, Quách Thắng, đuổi đến trước lầu Thúy-hoa, lấy kiếm vằm ra như bùn.
Bấy giờ trong cung lửa cháy lưng trời. Bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê, [[w:Tào Tiết (hoạn quan)|Tào Tiết]], Hầu Lãm, bắt ép thái hậu, [[w:Hán Thiếu Đế|thái tử]] cùng [[w:Hán Hiến Đế|Trần lưu Vương]] đi vào nội-sảnh rồi lẻn đường sau chạy đi Bắc-cung. Lư Thực dẫu bỏ quan, nhưng chưa đi nơi khác, sực thấy trong cung có biến, bèn mặc giáp cầm giáo, đang đứng ở dưới gác, xa trông thấy Đoàn Khuê đang giục thái-hậu đi mau, bèn thét lớn lên rằng:
- Thằng Khuê kia! Sao dám bắt ép thái-hậu đi đâu?
Đoàn Khuê bỏ chạy, thái-hậu tự trong cửa sổ nhảy ra, Thực vội đến cứu được thoát.
Ngô Khuông đánh vào nội đình, gặp Hà Miêu cầm gươm đi ra, Khuông hô lớn lên rằng:
- Thằng Miêu thông mưu giết anh, nên giết đi thôi.
Chúng đều nói:
- Phải, phải, chém thằng giặc giết anh ấy đi!
Miêu sợ cuống toan chạy, bị bốn mặt vây kín, chém nhừ ra như bột.
Thiệu sai quân chia ra từng bọn đi giết gia quyến mười đứa thường thị, bất cứ già trẻ lớn bé đều giết hết cả, thành ra có nhiều kẻ không có râu bị giết lầm.
Tào Tháo một mặt cứu hỏa trong cung, mời Hà thái-hậu tạm coi quyền chính, một mặt sai quân đuổi theo bọn Trương Nhượng và tìm vua Thiếu-đế.
Nhắc lại bọn Trương Nhượng, Đoàn Khuê ức hiếp vua Thiếu-đế và Trần lưu Vương xông pha khói lửa, đêm chạy đến núi Bắc-mang. Vào khoảng canh hai, bỗng nghe phía sau có tiếng người ngựa reo hò theo đuổi, viên tướng đi đầu là quan trung-bộ duyện-lại ở Hà-nam tên gọi Mẫn Cống hô lớn lên rằng: “Thằng nghịch tặc kia chớ chạy”.
Trương Nhượng thấy nguy cấp quá liền đâm đầu xuống sông tự tử.
Thiếu-đế cùng Trần lưu Vương chưa rõ lành dữ thế nào, đành phải nín hơi nấp vào trong bụi cỏ ở bờ sông, quân sĩ tìm hết tứ phía vẫn không biết vua ở đâu.
Hai anh em vua phục trong bụi cỏ mãi đến canh tư, sương xuống lạnh buốt cả người, trong lòng đói khát, ôm nhau mà khóc, nhưng sợ có người biết, chỉ nuốt nước mắt khóc ngầm trong bụi rậm.
Trần lưu Vương nói:
- Chỗ này không nên ở mãi, phải đi tìm đường khác mới sống.
Nói đoạn hai người nắm áo nhau bò trên bờ sông. Chỗ ấy gai góc rất nhiều, trong đêm tối đường đi không rõ, đương lúc bối rối không biết tính sao, bỗng thấy một đàn đom đóm hàng trăm nghìn con kéo đến, lập lòe bay quanh trước mặt vua.
Trần lưu Vương nói:
- Đó là trời giúp anh em ta!
Bèn đi theo ánh sáng đom đóm, dần dần trông thấy đường cái. Đi đến canh năm đau chân quá không thể bước đi được nữa. Bên sườn núi có một đống cỏ, anh em vua bèn nằm quay ra đó.
Trước mặt đống cỏ là một cái trại. Chủ trại đêm hôm ấy nằm mộng thấy hai vầng mặt trời sa xuống sau nhà, giật mình tỉnh dậy, khoác áo ra trông, thấy trên đồng cỏ bốc lên một luồng khí sáng xông lên tận trời, rất lấy làm lạ, vội chạy ra xem tận nơi, thấy có hai người nằm trên đống cỏ, liền hỏi:
- Hai cậu là con cái nhà ai?
Thiếu-đế sợ không dám cất tiếng.
Trần Lưu Vương trỏ vào Thiếu-đế nói rằng:
- Đây chính là hoàng đế bây giờ, gặp loạn mười đứa thường-thị, phải trốn đến đây; còn ta là hoàng-đệ Trần lưu Vương.
Chủ trại sợ hãi, lạy hai lạy tâu rằng:
- Hạ thần là em tư-đồ Thôi Liệt ngày trước, tên gọi Thôi Nghị, vì thấy bọn thường-thị bán quan hại nước, ghét bỏ người hiền, nên về ở ẩn ở đây.
Bèn đưa hai anh em Thiếu-đế đi vào trong nhà, đem rượu cơm dâng tiến.
Nhắc lại, khi Mẫn Cống đuổi bắt được Đoàn Khuê, hỏi vua ở đâu, Khuê nói đến dọc đường bị lạc, nên không biết. Cống bèn giết Khuê, cắt đầu treo vào cổ ngựa, rồi sai quan đi các nơi tìm vua, còn Cống một mình tự đi tìm một lối. Tình cờ đi đến ngay nhà Thôi Nghị.
Thôi Nghị thấy dưới cổ ngựa có cái đầu người, liền hỏi. Cống thuật lại đầu đuôi. Nghị bèn dẫn Cống vào trong nhà làm lễ triều kiến, vua tôi cùng nhau khóc lóc một hồi. Cống tâu rằng:
- Trong nước không thể một ngày không có vua, xin bệ hạ về kinh ngay cho.
Bấy giờ trong nhà Thôi Nghị chỉ có một con ngựa gầy, đem ra vua ngự. Mẫn Cống cùng Trần lưu Vương cùng cưỡi một con ngựa, khởi hành về kinh.
[[Tập tin:Wang Yun Portrait.jpg|nhỏ|phải|Vương Doãn. Tranh minh họa đời [[w:nhà Thanh|Thanh]].]]
Đi chưa được ba dặm, thì gặp tư-đồ [[w:Vương Doãn|Vương Doãn]], thái-úy [[w:Dương Bưu|Dương Bưu]], tả-quân hiệu-úy [[w:Thuần Vu Quỳnh|Thuần vu Quỳnh]], hữu-quân hiệu-úy Triệu Manh, hậu-quân hiệu-úy Pháo Tín và trung-quân hiệu-úy Viên Thiệu, tất cả vài trăm người ngựa kéo đến nghênh tiếp xa giá, vua tôi đều nhìn nhau mà khóc. Một chốc sai đem thủ cấp Đoàn Khuê về kinh trước bêu lên làm lệnh, rồi đổi hai con ngựa tốt để vua và Trần lưu Vương cưỡi cùng về kinh sư.
Trước đây ít lâu, trẻ con ở kinh thành Lạc-dương thường hát mấy câu như sau:
<poem>
''“Đế chẳng ra đế''
''Vương chẳng ra vương''
''Xe xe ngựa ngựa''
''Chạy ra Bắc-mang.”''
</poem>
Đến bây giờ quả là ứng nghiệm.
Xa giá vừa đi được vài dặm, bỗng thấy cờ kéo rợp trời, bụi bay mờ đất, một đoàn binh mã kéo đến. Các quan thất sắc, vua cũng kinh hoàng. Viên Thiệu tế ngựa ra thét hỏi:
- Binh mã nào đấy?
Dưới bóng ngọn cờ thêu, một tướng phi ngựa ra hỏi lại rằng:
- Vua đâu?
Thiếu-đế sợ run không nói được. Trần lưu Vương sấn ngựa ra mắng rằng:
- Anh là người nào?
Tướng ấy đáp:
- Thứ-sử Tây-lương Đổng Trác!
Trần lưu Vương hỏi vặn:
- Anh đến đây hộ giá hay cướp giá?
- Tôi cốt đến hộ giá.
- Đã đến hộ giá, sao hoàng đế ở kia, anh không xuống ngựa?
Trác cả sợ, vội vàng xuống ngựa, thụp lạy ở bên cạnh đường. Trần lưu Vương lấy lời phủ dụ. Trác, từ đấy ăn nói giữ gìn trước sau không hớ điều gì, trong bụng rất thán phục Trần lưu Vương, đã có ý bỏ vua nọ lập vua kia tự đó.
Ngày hôm ấy, vua về đến kinh, vào cung bái kiến Hà thái-hậu, mẹ con than khóc cùng nhau. Lúc kiểm điểm trong cung, không biết cái ấn ngọc truyền quốc biến đi đâu mất.
Đổng Trác đóng đồn ở ngoài thành, hàng ngày đem quân thiết giáp vào trong thành, đi nghênh ngang các phố, nhân dân rất là sợ hãi. Trác lại tự do vào ra chỗ cung cấm, không kiêng sợ gì cả.
Hậu-quân hiệu-úy Pháo Tín đến chơi Viên Thiệu bàn với Thiệu rằng:
- Đổng Trác muốn như có bụng khác, phải trừ ngay đi.
Thiệu nói:
- Triều đình vừa mới được yên, không nên khinh động.
Pháo Tín lại đến bàn với Vương Doãn. Doãn nói:
- Để rồi sẽ bàn.
Pháo Tín thấy không ai nghe mình, bèn đem quân bản bộ đến đóng ở [[w:Thái Sơn|Thái-sơn]]. Đổng Trác chiêu dụ những quân bộ hạ của anh em Hà Tiến về cả tay mình, rồi bàn mảnh với Lý Nho rằng:
- Ta muốn bỏ Thiếu-đế, lập Trần lưu Vương, có nên không?
Lý Nho nói:
- Nên lắm. Nay đang lúc triều đình vô chủ, nên làm ngay mới được, nếu để chậm sẽ sinh biến. Ngày mai nên triệu các quan hội họp ở trong vườn Ôn-minh, đem việc phế lập ra hiểu dụ. Ai không nghe thì chém; nắm được uy quyền, chính ở lúc này.
Trác mừng lắm, sáng hôm sau mở tiệc yến rất lớn, mời tất cả các công khanh đến. Ai cũng sợ Đổng Trác cho nên không thiếu mặt nào.
[[Tập tin:Dong Zhuo plots to depose Emperor Shao of Han.jpg|nhỏ|phải|Trác mừng lắm, sáng hôm sau mở tiệc yến rất lớn, mời tất cả các công khanh đến.]]
Trác chờ các quan đến đã đông đủ, mới lững thững đến cửa vườn, xuống ngựa đeo gươm vào tiệc.
Rượu được vài tuần, Trác truyền lệnh dừng chén, nghỉ âm nhạc, rồi nói lớn lên rằng:
- Các quan hãy im lặng, nghe ta nói một câu chuyện: “Vua là chủ tể thiên hạ, không có uy nghi không thể nào tôn phụng tôn miếu và xã tắc. Nay hoàng thượng nhu nhược, không bằng Trần lưu Vương thông minh ham học, xứng đáng ngôi rồng. Vậy ý ta muốn bỏ vua Thiếu-đế, lập Trần lưu Vương, các quan nghĩ sao?”.
Các quan nghe đoạn, yên lặng nhìn nhau, không ai dám nói câu gì cả.
Bỗng có một người ngồi trong tiệc đẩy ghế đứng dậy, nói lớn lên rằng:
- Không được! Không được! Mày là thằng nào, dám nói càn rỡ như vậy? Hoàng thượng là con cả đức Tiên-đế, xưa nay không chút lầm lỗi, sao bỗng dưng dám nói bỏ người nọ lập người kia! Mày muốn phản nghịch chăng?
[[Tập tin:Ding_Yuan_Qing_Illustration.jpg|nhỏ|phải|Đinh Nguyên. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Trác nhìn xem mới biết người ấy là quan thứ-sử Kinh-châu tên gọi [[w:Đinh Nguyên|Đinh Nguyên]]. Trác nổi giận quát lên rằng:
- Ai theo ta thì sống, ai chống ta thì chết!
Bèn rút gươm toan chém Đinh Nguyên.
Bấy giờ Lý Nho thấy một người đứng sau lưng Đinh Nguyên, khí vũ hiên ngang, uy phong lẫm lẫm, tay cầm cái phương-thiên họa-kích, có vẻ tức giận trừng mắt mà nhìn, vội vàng đứng dậy nói rằng:
- Hôm nay trong tiệc ăn uống, không nên bàn đến việc nước. Xin đến sáng mai họp bàn tại nhà nghị sự thì hơn!
Mọi người đều khuyên Đinh Nguyên lên ngựa về nhà.
Trác lại hỏi các quan rằng:
- Ta nói thế có hợp lẽ không?
Lư Thực nói:
[[Tập tin:Huo_guang.jpg|nhỏ|phải|Chân dung Hoắc Quang trong sách ''[[w:Tam tài đồ hội|Tam tài đồ hội]]''.]]
- Ông lầm rồi! Xưa vua [[w:Thái Giáp|Thái Giáp]] không minh, [[w:Y Doãn|Y Doãn]] đuổi ra Đồng-cung; vua [[w:Lưu Hạ|Xương Ấp]] lên ngôi vua mới có 27 ngày mà làm hơn 30 điều ác, nên [[w:Hoắc Quang|Hoắc Quang]] phải làm lễ cáo nhà thái-miếu mà bỏ đi. Ngày nay vua dẫu còn trẻ tuổi, song vốn thông minh nhân từ, chưa có một chút lỗi lầm. Ông chẳng qua là thứ-sử đường ngoài, chưa tham dự việc nước, lại không có tài lớn như Hoắc Quang, Y Doãn, sao dám cả gan bàn đến việc bỏ vua nọ lập vua kia? Thánh nhân nói rằng: “Có chí như Y Doãn thì hay, bằng không có chí ấy mà làm thì là thoán nghịch”.
Trác cả giận, rút gươm sấn đến toan chém Lư Thực, quan nghị-lang là Bành Bá can rằng:
- Lư thượng-thư là người có danh vọng lớn ở trong thiên hạ, nếu đem giết đi, e rằng thiên hạ không phục!
Trác mới thôi.
Quan tư-đồ là Vương Doãn nói tiếp rằng:
- Việc phế lập không nên bàn sau khi uống rượu say. Xin để ngày khác lại bàn.
Các quan đều giải tán.
Lúc ấy Trác còn chống gươm đứng giữa cửa vườn, bỗng thấy một người cầm kích phi ngựa ở ngoài cửa. Trác hỏi Lý Nho:
- Người nào đấy?
Nho nói:
- Đấy là con nuôi Đinh Nguyên, [[w:Lã Bố|họ Lã tên Bố]], chữ là Phụng Tiên, chúa công hãy nên tạm tránh đi.
[[Tập tin:Lü_Bu_Portrait.jpg|nhỏ|phải|Lã Bố, tay trái cầm ''phương-thiên họa-kích''. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Trác bèn lẩn trốn vào trong vườn.
Sáng hôm sau có tin báo Đinh Nguyên dẫn quân đến ngoài thành thách đánh. Trác nổi giận, cùng Lý Nho dẫn quân ra đối địch.
Thấy Lã Bố đầu búi tóc đội mũ kim-quan, mình mặc áo chiến-bào thêu trăm hoa, ngoài phủ giáp đường-nghê, thắt dây bảo-đới, phóng ngựa múa kích, theo Đinh Nguyên ra trước trận.
Đinh Nguyên trỏ vào mặt Đổng Trác mắng rằng:
- Nhà nước không may bị bọn yêm-hoạn lộng quyền, đến nỗi nhân dân lầm than. Mày không có chút công cán gì, sao dám mở mồm nói việc phế lập để loạn triều đình?
Đổng Trác chưa kịp trả lời, Lã Bố đã phi ngựa sấn sang. Đổng Trác hoảng chạy, Đinh Nguyên thúc quân đánh tràn, quân Trác thua to, phải lui hơn ba mươi dặm đóng trại. Trác bàn với các tướng rằng:
- Ta xem Lã Bố là kẻ tài giỏi phi thường, nếu được người ấy về với ta, lo gì không được thiên hạ!
Một người ở dưới trướng bước ra thưa rằng:
- Chúa công lo chi điều ấy! Tôi vốn cùng làng với Lã Bố, hắn là người chỉ có sức khỏe mà không có mưu, thấy lợi thì quên nghĩa. Tôi quyết xin ba tấc lưỡi nói cho Lã Bố chắp tay về với chúa công!
Trác cả mừng nhìn xem, người ấy là hổ-bôn trung-lang-tướng [[w:Lý Túc|Lý Túc]]. Trác bèn hỏi:
- Làm thế nào để dụ hắn?
Túc nói:
- Tôi nghe chúa công có một con ngựa tốt tên là [[w:Ngựa Xích Thố|Xích-thố]], mỗi ngày đi ngàn dặm. Nếu đem con ngựa ấy và thêm một số vàng ngọc, lấy lợi dụ hắn, hắn sẽ phản Đinh Nguyên về với chúa công.
Trác quay lại hỏi Lý Nho rằng:
- Lời nói ấy có dùng được không?
Nho nói:
- Chúa công muốn lấy thiên hạ, thì tiếc gì một con ngựa.
Trác vui vẻ cho ngựa, lại cho thêm một nghìn lạng vàng, vài chục hạt châu, và một cái đai bằng ngọc. Lý Túc nhận các món ấy đem sang trại quân Lã Bố, bị quân canh đường vây bắt, Túc bảo rằng:
- Các ngươi vào bẩm Lã tướng quân, có người bạn cũ đến thăm đấy.
Lã Bố sai mời vào.
Túc hỏi Bố rằng:
- Lâu nay hiền đệ vẫn được bình yên?
Lã Bố chắp tay thưa rằng:
- Lâu lắm mới gặp nhau, vậy chớ bây giờ anh ở đâu?
Túc nói:
- Tôi hiện làm chức hổ-bôn trung-lang-tướng, nghe tin hiền đệ trổ tài giúp nước, tôi mừng rỡ vô cùng. Nhân có một con ngựa tốt, ngày đi ngàn dặm, lội nước trèo núi như chạy đường phẳng, gọi là ngựa Xích-thố, thành tâm đem dâng hiền đệ, thêm giúp oai hùng.
Lã Bố sai dắt lại xem, quả nhiên toàn thân con ngựa ấy một màu đỏ như lửa, tuyệt không có cái lông nào tạp, từ đầu đến đuôi dài một trượng, từ móng lên trán cao tám thước, lúc miệng gầm chân cất, có cái vẻ tung mây vượt bể.
Đời sau có người vịnh thơ khen ngựa Xích-thố rằng:
<poem>
''Ngàn dặm mù bay tít nẻo xa,''
''Trèo non vượt nước khéo xông pha!''
''Cương tơ chặt đứt, rung chuông ngọc,''
''Rồng đỏ trên trời hẳn mới xa!''
</poem>
Lã Bố trông thấy ngựa mừng lắm, tạ rằng:
- Anh cho con ngựa hay như thế, biết lấy gì đáp lại.
Túc nói:
- Tôi vì nghĩa đến đây, dám mong gì báo đáp!
Lã Bố sai làm rượu thết đãi. Rượu đã ngà say, Túc nói:
- Tôi với hiền đệ ít khi gặp nhau, nhưng được gặp lệnh tôn luôn.
Lã Bố nói:
- Anh say rồi, cha tôi quy ẩn đã lâu, sao còn hội diện được với anh?
Túc cả cười mà rằng:
- Tôi đã say đâu, tôi nói lệnh tôn là nói Đinh thứ-sử đó!
Bố có ý hổ thẹn nói rằng:
- Tôi ở với ông Đinh kến Dương, cũng là bất đắc dĩ.
Túc nói:
- Hiền đệ có tài ngang trời dọc đất, bốn bể ai chẳng quý trọng, phú quý công danh, coi dễ như thò tay lấy của ở trong túi, sao lại nói là bất đắc dĩ mà cam chịu khuất ở dưới người ta?
Bố thở dài nói:
- Tôi chỉ giận chưa gặp được thầy.
Túc cười nói:
- Chim khôn chọn cây mà đậu, người hiền chọn chúa mà thờ; nếu không sớm liệu cơ, ngày sau hối sao kịp?
- Anh xem ở trong triều, coi ai đáng mặt anh hùng đời nay?
- Tôi xem các quan đại thần bây giờ không ai bằng được Đổng Trác. Đổng Trác tôn người hiền, kính kẻ sĩ, thưởng phạt công minh, chắc sau này làm nên nghiệp lớn.
Bố hăm hở nói:
- Quả vậy, tôi muốn về với ông ta, chỉ hiềm chưa có đường lối.
Túc bèn đem vàng, hạt châu và cái đai ngọc bày la liệt ở trước mặt Lã Bố. Lã Bố kinh hãi nói rằng: “Sao có những thứ này”. Túc sai tả hữu lui cả, rồi bảo Lã Bố rằng:
- Đây là Đổng-công mộ đại danh đã lâu, bảo tôi thân đem các vật này đến dâng hiền đệ; con ngựa Xích-thố cũng của Đổng-công kính tặng.
Lã Bố nói:
- Đổng-công có lòng quá yêu, tôi biết lấy gì đáp lại?
Túc nói:
- Bất tài như tôi còn làm đến chức hổ-bôn trung-lang-tướng. Nếu ông về với Đổng-công thì quý hiển chưa biết chừng nào.
Lã Bố nói:
- Nhưng tôi không có chút công gì làm lễ tiến kiến?
Túc nói:
- Muốn có công cũng dễ lắm, chỉ trở bàn tay là được. Chỉ sợ ông không chịu làm thôi!
Lã Bố ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Tôi muốn giết Đinh Nguyên, dẫn quân về hàng Đổng Trác, có nên không?
Túc nói:
- Làm được như thế, thật là công rất lớn. Nhưng việc phải quả quyết làm ngay mới được.
Lã Bố hẹn đến hôm sau thì đem quân lại hàng.
Túc từ biệt về.
[[Tập tin:Lu Bu murders Ding Yuan.jpg|nhỏ|phải|Lã Bố giết Đinh Nguyên.]]
Đêm hôm ấy, hồi canh hai, Lã Bố cầm dao, vào thẳng màn Đinh Nguyên. Ông này đang thắp nến xem sách, thấy Lã Bố đến ông hỏi:
- Con đến có việc chi đó, con?
Bố nổi giận quát:
- Ta đây đường đường một đấng trượng phu, có đâu chịu làm con mày!
Nguyên nói:
- Phụng Tiên, vì cớ gì thay lòng đổi dạ như thế?
Lã Bố bước thẳng lên, giơ dao chém Nguyên một nhát, chặt lấy đầu rồi gọi lớn tả hữu rằng:
- Đinh Nguyên bất nhân, ta đã giết nó rồi. Ai theo ta thì ở đây, không theo thì đi!
Quân sĩ tan đi quá nửa.
Ngày hôm sau, Lã Bố cầm đầu Đinh Nguyên đến Lý Túc, Túc đưa vào ra mắt Đổng Trác. Trác mừng lắm, làm rượu thết đãi, sụp xuống lạy Lã Bố trước nói rằng:
- Trác nay được tướng quân, ví như lúa nắng lâu mà được trận mưa ngọt!
Lã Bố rước Trác ngồi lên, lạy mà nói rằng:
- Ngài có bụng yêu, tôi xin thờ ngài làm nghĩa phụ.
Trác lấy áo cẩm-bào dát vàng đem ra cho Lã Bố; uống rượu vui vẻ, rồi tan.
Đổng Trác tự đấy uy thế mỗi ngày một lớn; tự lĩnh chức tiền-tướng-quân, phong cho em là Đổng Mân làm tả-tướng-quân, tước Vu-hầu; phong Lã Bố làm kỵ-đô-úy, trung-lang-tướng, tước Đô-đình-hầu.
Lý Nho khuyên Trác định ngay việc phế lập.
Trác bèn đặt một tiệc yến ở trong dinh, mời cả các công khanh đến; sai Lã Bố đem hơn một nghìn quân giáp sĩ, canh gác hai bên.
Hôm ấy quan thái-phó Viên Ngỗi và trăm quan đều đến. Uống rượu được vài tuần, Trác cầm gươm nói rằng:
- Nay vua ngu yếu, không thờ được tôn-miếu; ta muốn theo Y Doãn, Hoắc Quang ngày xưa, bỏ vua cho ra làm [[w:Linh Bảo|Hoằng nông]] Vương, và lập Trần lưu Vương lên nối nghiệp. Ai không theo, ta chém!
Quần thần run sợ, không ai dám đáp lại, duy có quan trung-quân hiệu-úy là Viên Thiệu đứng vụt lên nói:
- Thiên tử mới lên ngôi, không làm điều gì thất đức, mày dám bàn bỏ con đích lập con thứ, định làm phản hay sao?
Trác giận đáp lại:
- Việc thiên hạ ở trong tay tao, nay tao làm đấy! Ai dám không nghe? Mày xem lưỡi gươm tao sắc hay không sắc?
Viên Thiệu cũng rút gươm ra nói rằng:
- Gươm mày sắc, dễ gươm tao không sắc hay sao?
Hai người đối địch nhau ở ngay trên tiệc rượu.
Thế rõ thực là:
<poem>
''Đinh Nguyên trượng nghĩa thân vừa chết,
''Viên Thiệu tranh hùng thế cũng nguy!
</poem>
Chưa biết tính mạng Viên Thiệu thế nào, xem hồi sau thì biết rõ.
33mniotakzietawnzdjibhiimx8yart
Tam quốc diễn nghĩa/Hồi 5
0
4114
141423
141395
2022-08-19T16:03:54Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 5
| trước = [[../Hồi 4|Hồi 4]]
| sau = [[../Hồi 6|Hồi 6]]
| ghi chú =
}}
{{giữa|
HỒI THỨ NĂM
'''<poem>
Phát kiểu chiếu, các trấn ứng Tào-công;
Phá quan binh, ba ông đánh Lã Bố.
</poem>'''
}}
Trần Cung muốn giết Tào Tháo, nhưng lại nghĩ rằng:
“Ta theo nó cũng là vị nước, nếu bây giờ giết nó e rằng bất nghĩa. Không bằng bỏ nó, đi nơi khác”.
Nói rồi lại cài gươm, lên ngựa không đợi trời sáng đi thẳng về Đông-quận.
Tháo dậy, không thấy Trần Cung, nghĩ bụng:
- Người này thấy ta nói mấy câu, tưởng ta là đứa bất nhân, nên bỏ ta mà đi. Ta nên đi ngay, không thể ở đây lâu.
Suốt đêm hôm ấy Tháo đi, đến Trần-lưu, tìm thấy bố, thuật lại sự tình với bố, muốn đem gia tài bán đi để mộ nghĩa binh.
Tào Tung nói:
- Gia tư nhà ta không có mấy tí. Cha e không đủ để kham nổi việc lớn. Ở đây có ông Vệ Hoằng, đỗ khoa Hiếu liêm, là người khinh tài trọng nghĩa, nhà giàu, nếu được ông ấy giúp con, thì việc lớn có thể mưu đồ được.
Tháo bèn đặt một tiệc rượu, mời Vệ Hoằng đến nhà, nói với Hoằng rằng:
- Nay nhà Hán vô chủ; Đổng Trác lộng quyền; dối vua hại dân; thiên hạ ai ai cũng nghiến răng tức giận. Tôi muốn hết lòng giúp nước, hiềm vì sức không đủ. Ngài là người trung nghĩa, rất mong ngài giúp đỡ.
Vệ Hoằng nói:
- Tôi có lòng ấy đã lâu, giận rằng chưa gặp ai là người anh hùng. Nay Mạnh Đức đã có chí lớn, tôi xin đem hết của cải ra giúp.
Tào Tháo mừng lắm làm ngay tờ kiểu chiếu phát đi các đạo, rồi dựng một lá cờ trắng, đề hai chữ: “TRUNG NGHĨA” để chiêu binh tập mã.
Không được mấy ngày, thiên hạ kéo đến ứng mộ đông như nước chảy.
Một bữa có người ở Dương-bình, tên là Nhạc Tiến, tên chữ là Văn Khiêm; lại có người ở Cự-lộc tên là Lý Điển, tên chữ là Nam Thành, hai người đến xin theo, Tháo đều cho làm chân tay dưới trướng.
Lại có người nữa, người nước Bái, tên là Hạ hầu Đôn, tên chữ là Nguyện Nhượng, nguyên là dòng dõi Hạ hầu Anh ngày xưa; từ khi nhỏ đã tập đánh gậy; đến năm 14 tuổi đã theo thầy học võ. Có người chửi thầy, Đôn giết người ấy rồi trốn sang nơi khác ở. Bấy giờ nghe thấy Tào Tháo khởi binh, Đôn cùng với một người em họ, tên là Hạ hầu Uyên, đem một nghìn tráng sĩ lại họp với quân Tháo.
Hai người ấy vốn là anh em cùng họ với Tào Tháo, vì Tháo nguyên cũng là họ Hạ-hầu, tại bố Tháo là Tào Tung vào làm con nuôi họ Tào, nên mới đổi ra là họ Tào.
Được vài ngày nữa, lại có hai người họ Tào, Tào Nhân, Tào Hồng cũng đem hơn một nghìn quân lại giúp.
[[Tập tin:Cao Ren Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Tào Nhân. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Tào Nhân, tên chữ là Tử Hiếu; Tào Hồng tên chữ là Tử Liêm, hai người cung mã đều thạo, võ nghệ tinh thông. Tháo mừng lắm, ngày ngày ở trong thôn luyện tập quân mã.
Vệ Hoằng đem hết cả gia tài, sắm sửa cờ quạt, và may áo giáp. Bốn phương lại đưa lương thực đến, không biết ngần nào mà kể.
Bấy giờ Viên Thiệu bắt được kiểu-chiếu của Tào Tháo, bèn tụ hội văn vũ, đem ba vạn quân ở Bột-hải sang hội với quân Tào Tháo.
Tháo bèn làm một bài hịch gửi đi các quận. Hịch rằng:
{{khối chữ nghiêng|“Anh em Tào Tháo chúng tôi kính đem nghĩa lớn, bá cáo cả nước:
Tặc thần Đổng Trác, lừa đất dối trời, giết vua phá nước; ô uế chốn cung cấm, tàn hại kẻ sinh dân. Bạo ngược bất nhân, tội ác chồng chất!
Nay vâng tờ mật chiếu của thiên tử, họp quân nghĩa binh, thề rằng quét sạch cả trong ngoài, giết trừ mọi quân hung bạo; rất mong các nơi đều dấy nghĩa binh, cùng hả lòng công phẫn để giúp vua cứu chúng.
Hịch này đến nơi, lập tức thi hành”.}}
[[Tập tin:發矯詔響應曹公.jpg|phải|nhỏ|Các chư hầu hưởng ứng lời kiểu chiếu của Tào Tháo]]
Sau khi tờ hịch của Tào đã phát đi, chư hầu các trấn đều khởi binh hưởng ứng:
1- Viên Thuật hậu-tướng-quân làm thái-thú Nam-dương.
2- Hàn Phức, thứ-sử Ký-châu.
3- Khổng Du, thứ-sử Dự-châu.
4- Lưu Đại, thứ-sử Duyện-châu.
5- Vương Khuông, thái-thú Hà-nội.
6- Trương Mặc, thái-thú Trần-lưu.
7- Kiều Mạo, thái-thú Đông-quận.
8- Viên Dị, thái-thú Sơn-dương.
9- Pháo Tín, tướng ở Tế-bắc.
10- Khổng Dung, thái-thú Bắc-hải.
11- Trương Siêu, thái-thú Quảng-lăng.
12- Đào Khiêm, thứ-sử Từ-châu.
13- Mã Đằng, thái-thú Tây-lương.
14- Công-tôn-Toản, thái-thú Bắc-bình.
15- Trương Dương, thái-thú Thượng-đảng.
16- Tôn Kiên, Ô-trình-hầu, thái-thú Tràng-sa.
17- Viên Thiệu, Kỳ-hương-hầu, thái-thú Bột-hải.
Quân mã các trấn, nơi nhiều nơi ít, trấn thì ba vạn, trấn thì một hai vạn, đều đem các văn quan võ tướng, kéo đến Lạc Dương.
[[Tập tin:Gongsun Zan Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Công-tôn-Toản]]
Đây nói chuyện thái thú Bắc-bình là Công tôn Toản đem một vạn rưởi quân, khi đi qua huyện Bình-nguyên, ở châu Đức, trông thấy ở đằng xa xa, trong đám cây dâu, có một lá cờ vàng, với vài người kỵ mã đến đón. Trông xem ai hóa ra Lưu Bị.
Toản hỏi:
- Hiền đệ sao lại ở đây?
Lưu Bị thưa:
- Ngày trước em nhờ anh được cử làm huyện lịnh Bình-nguyên, nay nghe thấy đại quân qua đây, nên em lại hầu. Xin anh hãy vào thành nghỉ ngựa.
Toản thấy có mấy người đi theo Lưu Bị, trỏ hỏi mấy người ấy là ai. Lưu Bị nói:
- Đây là Quan Vũ, Trương Phi, hai người anh em kết nghĩa với tôi đó.
Toản hỏi có phải hai người ấy là hai người cùng phá giặc khăn vàng hay không? Huyền Đức nói:
- Phá giặc khăn vàng chính là công hai người này cả!
Toản hỏi hiện bây giờ hai người làm chức gì? Huyền Đức thưa:
- Quan Vũ làm tay mã cung; Trương Phi làm tay bộ cung.
Toản than rằng:
- Như thế quả là mai một anh hùng! Nay Đổng Trác làm loạn, chư hầu cùng đề binh đến đánh. Hiền đệ bỏ quách một chức quan nhỏ này, cùng với tôi đi đánh giặc giúp nhà Hán. Nên không?
Lưu Bị vâng xin đi ngay.
Trương Phi nghe thấy tên Đổng Trác, nói rằng:
- Khi trước giá để tôi giết ngay thằng giặc ấy đi, không đến nỗi còn có việc ngày nay.
Quan Vũ nói:
- Bây giờ việc đã như thế, ta nên thu xếp đi ngay thôi.
Lưu Bị cùng Quan, Trương liền đem vài ba người lính kỵ, theo Công tôn Toản đi. Tào Tháo ra tiếp. Các chư hầu cũng lục tục kéo đến cả, mỗi người đóng trại một chỗ, liên tiếp nhau hơn ba trăm dặm đất.
Tào Tháo giết trâu mổ ngựa, hội cả mười tám chư hầu bàn việc tiến binh.
Thái thú là Vương Khuông nói rằng:
- Nay làm việc đại nghĩa, nên lập minh chủ, để mọi người vâng theo hiệu lệnh, rồi sẽ tiến binh.
Tháo nói:
- Viên Bản Sơ nhà bốn đời làm tam-công, lại có nhiều đầy tớ cũ; nguyên là con cháu danh tướng nhà Hán., Nên cử y làm minh chủ.
Thiệu hai ba lần từ chối, nhưng mọi người đều nói:
- Phi Bản Sơ không xong!
Thiệu mới vâng lời.
Hôm sau lập một cái đàn ba từng, chung quanh cắm cờ ngũ phương, từng trên dựng một lá cờ tuyết-mao trắng, một cây hoàng-việt; binh-phù tướng ấn đủ cả; mời Thiệu lên đàn. Thiệu mặc áo chỉnh tề, đeo gươm lên đàn, đốt hương lễ hai lễ, rồi đọc lời thề:
{{khối chữ nghiêng|
“Nhà Hán chẳng may; giường vua đứt mối. Tặc-thần Đổng Trác, thừa thế làm ác, vạ đến ngôi vua, hại ra trăm họ.
Anh em chúng tôi là Thiệu... sợ rằng xã-tắc đắm mất nên phải tụ họp nghĩa-binh, cùng nhau cứu nạn nước.
Phàm đã là người đồng minh, ai cũng phải dốc lòng hết sức để giữ lấy đạo làm tôi, không được hai lòng.
Ai trái lời thề này, không được toàn vẹn!
Xin trời đất tổ tôn chứng giám cho.”}}
Thiệu đọc xong, các tướng đều uống máu ăn thề. Mọi người nghe thấy lời nói khẳng khái, ai cũng nước mắt chứa chan.
Thề xong xuống đàn. Thiệu lên trướng ngồi, chư hầu hai bên theo chức tước và tuổi chia định ngôi thứ. Tháo đứng dậy mời rượu. Rượu uống được vài tuần, Tháo nói:
- Nay đã lập minh chủ rồi, chúng ta đều phải vâng nghe điều khiển, cùng giúp việc nước. Không ai được cậy khỏe cậy tài ganh tị nhau.
Viên Thiệu nói:
- Thiệu tuy bất tài, nhưng đã được các quan cắt làm minh chủ, xin hết sức công minh; ai có công phải thưởng; ai có tội phải phạt. Nước có hình, quân có phép, nên cùng giữ gìn, đừng ai vi phạm.
Các tướng đều nói:
- Chúng tôi xin vâng lệnh.
Thiệu lại nói:
- Em ta là Viên Thuật, coi việc lương thảo, ứng cấp các trại không được thiếu thốn. Sau nữa xin chọn lấy một người làm tiên phong, đi thẳng ngay vào cửa Dĩ-thủy khiêu chiến; còn các tướng khác phải chia nhau giữ các chốn hiểm yếu, để làm tiếp ứng.
Thái-thú Tràng-sa, tên là Tôn Kiên, bước lên, xin đi tiên phong.
Thiệu nói:
- Phải đấy! Văn Đài hùng mạnh, có thể đảm đang chức ấy.
Kiên liền dẫn quân mã của bản hộ của mình, kéo đến cửa Dĩ-thủy. Quân canh cửa vội vàng chạy ngựa trạm về phủ thừa tướng cáo cấp.
Đổng Trác từ khi chuyên quyền, ngày nào cũng yến tiệc vui say. Lý Nho tiếp được tờ cáo cấp, vào bẩm với Trác. Trác thất kinh vội vàng họp các tướng sĩ bàn bạc. Lã Bố thưa rằng:
- Lo chi việc ấy, thưa cha! Những chư hầu đóng ở ngoài cửa ải, con coi như cỏ rác cả. Con xin đem quân hổ lang, chém hết đầu chúng treo dưới cửa đó.
Trác mừng mà nói rằng:
- Ta được Phụng Tiên, nằm cao không lo gì nữa.
Nói chưa dứt lời, sau lưng Lã Bố có một người bước ra nói to lên rằng:
- Cắt tiết gà, lọ là phải dùng đến dao mổ trâu, không phải phiền đến Lã Ôn-hầu, tôi xin ra chém hết đầu chúng nó, dễ như lấy đồ ở trong túi.
Trác nhìn xem: người ấy thân cao chín thước, mình hổ lưng lang, đầu beo tay vượn, là người Quan-tây, họ Hoa, tên Hùng.
Trác nghe nói thế, thích chí lắm, cho ngay làm kiêu-kỵ hiệu-úy, đem năm vạn quân mã bộ cùng với Lý Túc, Hồ Chẩn, Triệu Xầm đi suốt ngày đêm ra cửa quan nghênh địch.
Trong bọn chư hầu, có Pháo Tín là tướng ở Tế-bắc, thấy Tôn Kiên được đi làm tiên phong, sợ Kiên cướp mất công đầu, bèn mật sai em là Pháo Trung, đem năm nghìn quân mã bộ đi đường tắt, ra thẳng trước cửa quan khiêu đánh. Hoa Hùng đem năm trăm quân thiết kỵ ra ngoài cửa quan, thét lớn: "Tướng giặc chớ chạy!" Pháo Trung vội lui, bị Hoa Hùng chém chết, tướng hiệu bị bắt sống rất nhiều. Hoa Hùng sai người đem đầu Pháo Trung về báo tiệp. Trác giao ngay cho Hùng làm đô-đốc.
Đây nói chuyện Tôn Kiên dẫn bốn tướng đến trước cửa Dĩ-thủy. Bốn tướng ấy là:
1- Trình Phổ, tên chữ Đức Mưu, người Thổ-ngân, ở Hữu Bắc-bình, Phổ cầm một ngọn xà-mâu sắt;
2- Hoàng Cái, tên chữ Công Phúc, người ở Linh-lăng. Cái cầm một ngọn roi sắt;
3- Hàn Đương, tên chữ là Công Nghĩa, người Linh-chi, tỉnh Liêu-tây, cầm một con dao lớn;
4- Tổ Mậu, tên chữ là Đại Vinh, người ở Phú-xuân, quận Ngô, hai tay cầm hai dao.
Tôn Kiên mình thì mặc áo giáp bạc, đầu đội mũ chóp đỏ, cắp dao Cổ-dĩnh, cưỡi ngựa Hoa-tôn, trỏ tay lên trên cửa quan mà mắng rằng:
- Thằng tiểu nhân đi phò giặc kia! Sao không mau mau xuống hàng?
Phó tướng Hoa Hùng là Hồ Chẩn, dẫn năm nghìn quân xuống dưới cửa quan nghênh địch.
Tướng Kiên là Trình Phổ vác ngọn mâu, phi ngựa ra thẳng đánh Hồ Chẩn. Đánh nhau được vài hợp Phổ đâm trúng cổ họng Chẩn, chết ngã từ trên ngựa xuống đất. Kiên bèn thúc quân xông đến trước cửa quan. Trên cửa bắn tên, ném đá xuống như mưa. Kiên phải lui binh về đóng ở Lương-đông, sai người đến chỗ Viên Thiệu báo tiệp và đến chỗ Viên Thuật thúc giục lương thảo.
Bấy giờ có người xui Thuật rằng:
- Tôn Kiên là một con hổ dữ ở đất Giang-đông, nếu ta để cho nó phá được Lạc-dương, giết được Đổng Trác, thì khác gì trừ được lang mà lại gặp hổ. Nay đừng phát lương, quân hắn sẽ tan vỡ.
Thuật nghe, bèn không cấp lương cho Tôn Kiên.
Kiên cạn lương, trong quân rối loạn. Quân do thám biết, về cửa quan báo tin. Lý Túc bàn với Hoa Hùng rằng:
- Đêm hôm nay ta đem một toán quân, đi lần con đường nhỏ xuống đánh đằng sau trại Tôn Kiên, tướng quân đánh đằng trước, chắc bắt được nó.
Hùng nghe kế ấy, truyền lệnh cho quân sĩ ăn no, để đêm xuống cửa quan đánh giặc.
Đêm hôm ấy, gió mát trăng trong. Quân Hùng đến trại Kiên bấy giờ độ nửa đêm, đánh trống reo kéo vào. Kiên vội vàng mặc áo cưỡi ngựa đi ra, vừa gặp Hoa Hùng đến. Hai bên đánh nhau được vài hợp, mặt sau Lý Túc kéo vào, sai quân sĩ phóng hỏa. Quân Tôn Kiên rối loạn. Các tướng đánh lộn nhau, duy có Tổ Mậu theo Kiên phá vây chạy. Hoa Hùng từ mặt sau đuổi dồn lại. Kiên cầm cung bắn hai phát tên, Hùng đều tránh được cả, lại giương cung bắn một phát nữa, cố sức quá lôi gãy mất cung Thước-họa, phải vứt bỏ cung, tế ngựa chạy. Tổ Mậu bảo Kiên rằng:
- Cái mũ chóp đỏ trên đầu chúa công, bị giặc nó nhận được. Xin cởi mũ đưa cho tôi đội.
Kiên liền cởi mũ đánh đổi cho Mậu, rồi hai người chia đường chạy ra hai ngả. Quân Hoa Hùng cứ đuổi theo người đội mũ chóp đỏ. Kiên chạy sang con đường nhỏ được thoát.
Tổ Mậu bị Hoa Hùng đuổi kíp lắm, bèn bỏ mũ ra, treo vào một cái cột nhà cháy dở, rồi trốn vào rừng rậm, núp một chỗ.
Quân Hùng, thấp thoáng dưới bóng trăng, trông thấy cái chóp mũ đỏ ở chỗ nhà cháy cứ vây bọc bốn mặt lại, không dám đến gần, rồi sau lấy tên bắn mãi mới biết bị lừa. Tổ Mậu ở trong rừng lúc bấy giờ xông ra, hai tay múa đôi dao, chực chém Hoa Hùng. Hùng thét to một tiếng, đưa cho Tổ Mậu một nhát dao, Mậu chết lăn xuống dưới ngựa.
Đánh nhau vừa đến tận sáng, Hùng mới kéo quân về.
[[Tập tin:HuangGai.jpg|nhỏ|phải|Hoàng Cái]]
Trình Phổ, Hàn Đương, Hoàng Cái tìm thấy Tôn Kiên, thu nhập quân mã lại rồi đóng trại ở.
Tôn Kiên thấy mất Tổ Mậu, thương xót lắm. Cấp tốc cho người đi báo Viên Thiệu, Thiệu thất kinh nói:
- Không ngờ Tôn Văn-đài mà thua Hoa Hùng!
Thiệu họp chư hầu để bàn bạc. Chư hầu đến cả, chỉ có Công tôn Toản đến sau. Thiệu mời các tướng vào ngồi sắp hàng trong trướng, rồi nói rằng:
- Em Pháo Tín không theo điều khiển, tự tiện tiến binh, mình bị giết, quân sĩ chết nhiều. Đến nay Tôn Văn-đài cũng bị thua, mất hết nhuệ khí, các tướng định làm sao?
Chư hầu không ai nói gì cả, Thiệu ngẩng mặt lên nhìn chỉ thấy sau lưng Công tôn Toản có ba người diện mạo dị thường, đứng cười mát.
Thiệu hỏi ai. Toản gọi Lưu Bị ra và nói rằng:
- Người này là anh em bạn học với tôi thuở nhỏ, hiện đương làm quan lệnh Bình-nguyên, tên là Lưu Bị.
Tháo hỏi:
- Có phải là Lưu Huyền Đức đánh tan giặc khăn vàng khi xưa không?
Toản nói phải, rồi bảo Lưu Bị ra chào các quan, nhân thể đem công lao và tình trạng ông ấy xuất thân thế nào, nói chuyện để các quan nghe. Thiệu thấy nói Lưu Bị là tôn phái nhà Hán bèn sai lấy ghế mời ngồi.
Lưu Bị khiêm tốn không dám ngồi. Thiệu nói:
- Ta kính không phải là kính danh tước nhà ngươi, ta kính là kính người tôn thất nhà vua đấy thôi!
Lưu Bị mới ngồi xuống ghế ở hàng cuối cùng. Quan Vũ, Trương Phi chắp tay đứng hầu đằng sau.
Đương khi ấy, có quân do thám lại báo:
- Hoa Hùng dẫn quân thiết kỵ xuống cửa quan, nó lấy sào cắm cái chóp mũ của Tôn thái thú, đến trước cửa trại, hò hét thách đánh.
Thiệu hỏi:
- Ai dám ra trận?
Sau lưng Viên Thuật, có một tướng lực lưỡng, tên là Du Thiệp bước ra thưa rằng:
- Tiểu tướng xin ra.
Thiệu mừng sai Thiệp ra. Vừa ra được một lát, có người về báo:
- Thiệp đánh nhau với Hoa Hùng được ba hợp, bị Hùng chém chết.
Các tướng cả sợ.
Thái-thú Hàn Phức nói:
- Tôi có thượng tướng Phan Phụng chém được Hoa Hùng.
Thiệu bèn sai Phan Phụng ra đánh. Phụng tay cầm một cái búa to, lên ngựa, ra được một lúc, lại bị Hoa Hùng chém chết.
Các tướng không người nào còn máu mặt.
Thiệu nói rằng:
- Tiếc thay! Tướng của ta là Nhan Lương, Văn Sú chưa đến. Giá thử được một người ấy ở đây thì sợ gì Hoa Hùng!
Nói chưa dứt lời một người ở dưới thềm, chạy ra, nói to lên rằng:
- Tiểu tướng xin ra chém đầu Hoa Hùng, đem dâng dưới trướng.
Mọi người nhìn xem thấy người ấy cao chín thước, mắt phượng mày ngài, mặt như táo chín, tiếng giống chuông kêu.
Thiệu hỏi là người nào. Toản thưa:
- Em Huyền Đức tên là Quan Vũ đấy!
Thiệu lại hỏi hiện làm chức gì? Toản thưa:
- Vũ theo Huyền Đức làm mã cung thủ.
Viên Thuật ở trong trướng thét lên:
- Thằng này thằng nào! Mày khinh chư hầu chúng tao không có đại tướng hay sao, thứ mày là một thằng cung thủ, dám nói khoác à? Chúng đâu, đuổi cổ nó ra ngoài kia!
Tào Tháo vội ngăn rằng:
- Công lộ hãy nguôi cơn giận. Người ấy đã nói khoác thế, tất cũng có dũng lực. Xin hãy thử cho ra, hễ không đánh được ta sẽ trị tội.
Viên Thiệu nói:
- Sai một tay cung ra đánh, giặc nó có cười cho không?
Tào Tháo nói:
- Người ấy diện mạo hùng vĩ thế kia, Hoa Hùng biết đâu là tay cung.
Quan Công nói:
- Nếu không đánh được, xin chặt đầu tôi.
Tháo sai người rót chén rượu, đưa Quan Công uống, rồi sẽ ra. Quan Công nói:
- Xin hãy để chén rượu đấy. Tôi đi rồi về ngay!
Nói rồi đi ra, vác long đao nhảy lên lưng ngựa, được một lát các chư hầu nghe thấy ngoài cửa quân trống đánh, người reo ầm ầm, tựa hồ như trời tan đất lở, núi đổ non nghiêng; chúng tướng đều thất kinh đang định sai người ra xem, đã thấy tiếng nhạc nhong nhong trở về, ngựa đã vào tới trung quân; Quan Công cầm đầu Hoa Hùng ném xuống đất, chén rượu của Tào Tháo hãy còn nóng.
Đời sau có thơ khen rằng:
''<poem>
Cửa quân trống trận nổi thùng thùng,
Văng vẳng tai nghe nhạc ngựa rung.
Chén rượu rót ra còn nóng hổi,
Trước màn đã thấy sỏ Hoa Hùng.
</poem>''
Tào Tháo mừng lắm.
Trương Phi khi ấy ở sau lưng Lưu Bị mới chạy ra nói to lên rằng:
- Kha kha đã chém chết được Hoa Hùng, sao không nhân thể đánh thốc vào cửa quan, bắt sống lấy Đổng Trác còn đợi đến bao giờ?
Viên Thuật giận quát mắng rằng:
- Thằng láo! Đại thần chúng tao đây còn phải khiêm tốn, thứ mày là tiểu tốt của một quan huyện, sao dám hỗn xược ở đây? Đuổi cả chúng nó ra ngoài kia!
Tào Tháo nói:
- Ai có công thì thưởng, cứ gì quý với tiện.
Viên Thuật nói:
- Có phải các ông chỉ trọng một người huyện lệnh, tôi xin cáo thoái.
Tháo nói:
- Sao nên nhân một lời nói, mà bỏ việc lớn?
Nói thế rồi Tháo bảo Công tôn Toản hãy mời các ông ấy về trại.
Chư hầu tan, người nào về trại người ấy, Tháo mật sai người đem trâu và rượu đưa sang mừng và úy lạo ba anh em Lưu, Quan, Trương.
Quân Hoa Hùng thua, chạy về cửa quan báo Lý Túc. Túc vội vàng viết giấy báo Đổng Trác, Trác họp các quan lại bàn. Lý Nho nói:
- Nay ta mất thượng tướng Hoa Hùng, thế giặc to lắm. Viên Thiệu là minh chủ, có chú là Viên Ngỗi hiện đang làm thái phó, vậy nó trong ngoài ứng hợp với nhau. Để vậy nguy lắm, nên trừ trước đi. Xin thừa tướng thân cầm đại quân, chia đường ra đánh thì mới được.
Trác nghe lời Nho, gọi Lý Thôi, Quách Dĩ, lĩnh năm trăm quân đến vây nhà thái-phó Viên Ngỗi, già trẻ đều giết sạch, đem đầu Ngỗi ra bêu trước cửa quan.
Trác khởi hai mươi vạn quân chia làm hai đường, một đường sai Lý Thôi, Quách Dĩ, đem năm vạn quân ra giữ cửa Dĩ-thủy, không khiến đánh nhau, một đường thì Trác đem mười lăm vạn quân cùng với Lý Nho, Lã Bố, Phàn Trù, Trương Tế giữ cửa quan Hổ-lao. Cửa ấy cách Lạc-dương năm mươi dặm. Đến cửa Hổ-lao, Trác sai Lã Bố lĩnh ba mươi vạn quân ra trước quan, đóng một trại lớn; Trác thì đóng đồn trên quan.
Quân lưu tinh dò được tình hình, kíp vào trại Viên Thiệu báo. Thiệu họp các tướng lại họp bàn. Tháo nói:
- Đổng Trác đóng quân ở Hổ-lao, là cốt chẹn đường chư hầu. Nay nên chia binh ra: một nửa ra đó nghênh địch.
Thiệu bèn cắt Vương Khuông, Kiều Mạo, Pháo Tín, Viên Dị, Khổng Dung, Trương Dương, Đào Khiêm, Công tôn Toản, cả thảy tám vị chư hầu đến cửa Hổ-lao đối địch. Tào Tháo thì dẫn quân đi lại tiếp ứng. Chư hầu đều khởi binh đến, thái thú Vương Khuông đi trước.
Lã Bố đem năm nghìn quân thiết kỵ lại. Vương Khuông đem quân mã, bày thành thế trận, cưỡi ngựa đứng dưới cờ, trông thấy Lã Bố ra trận, đầu đội mũ dát vàng ba chỏm, mình mặc áo gấm đỏ trăm hoa, ngoài khoác áo giáp thú-diện liên-hoàn; dưới thắt dây lưng sư man, lưng đeo một bộ cung tên; tay cầm một ngọn họa kích, cưỡi ngựa Xích-thố.
Khuông ngoảnh lại hỏi ai dám ra đối chiến? Đằng sau có một tướng vác ngọn giáo, tế ngựa chạy ra. Xem ai hóa ra một danh tướng ở Hà-nội, tên là Phương Duyệt. Hai ngựa giao nhau, chưa được năm hợp, Duyệt bị Lã Bố đánh một ngọn kích ngã xuống ngựa. Bố xông thẳng vào. Quân Vương Khuông thua to, chạy tán lạc ra bốn mặt. Bố xông xáo vào đám quân Khuông, như chạy vào nơi không có người. May sao Kiều Mạo, Viên Dị đem hai cánh quân vừa đến, cứu được Vương Khuông, quân Bố mới lui. Chư hầu ba xứ mỗi xứ mất ít nhiều người ngựa, lui ba mươi dặm, đóng trại. Quân năm xứ đi sau cũng dần dần kéo đến cả, họp lại bàn nhau, đều cho Lã Bố là anh hùng, không ai địch nổi.
Khi đang lo nghĩ có quân vào báo rằng Lã Bố đến khiêu chiến. Chư hầu tám xứ, đều lên ngựa kéo ra cả, chia quân ra làm tám đội, bày ở trên gò cao; trông ở đằng xa xa thấy một toán quân mã, cờ bay phất phới, Lã Bố xông đến.
Bộ tướng của Trương Dương, thái-thú Thượng-đảng tên là Mục Thuận vác ngọn giáo tế ngựa ra đánh, bị Bố đâm một ngọn kích chết lăn từ trên ngựa xuống đất.
Thấy thế, một bộ tướng của Khổng Dung, tên là Vũ An Quốc, vác một cái dùi sắt, tế ngựa chạy ra, Lã Bố đến, đánh nhau được mười hợp, Bố đưa cho một ngọn kích đánh gẫy cánh tay An Quốc. An Quốc vứt dùi sắt chạy. Chư hầu tám xứ cùng đổ ra mới cứu được An Quốc. Lã Bố lui quân trở về, các chư hầu lại về trại bàn với nhau.
Tào Tháo nói:
- Lã Bố anh hùng, không địch được. Nay nên họp cả mười tám nước chư hầu để bàn nhau tìm kế gì đánh được nó. Hễ bắt sống được Lã Bố, thì giết Đổng Trác chẳng khó gì nữa.
Trong khi đang bàn bạc, Lã Bố lại kéo binh đến thách đánh. Công tôn Toản vác ngọn giáo nhảy ra đánh Lã Bố mới được vài hợp, Toản thua chạy. Lã Bố thúc ngựa Xích-thố xấn lại đuổi, ngựa này chạy nhanh như bay. Bố gần đuổi kịp Toản, ở bên ria đường, bỗng có một tướng, mắt tròn trợn ngược, râu hùm vểnh lên, vác một ngọn bát-xà-mâu, tế ngựa đến thét lên rằng:
- Thằng đi ở ba họ kia! Đừng chạy nữa! Tao là Trương Phi người đất Yên đây!
[[Tập tin:Lu_Bu_at_Hulao.png|phải|nhỏ|[[w:Trận Hổ Lao Quan|Trận Hổ Lao Quan]].]]
Lã Bố thấy thế bỏ Toản, đánh nhau với Trương Phi. Trương Phi hăng hái cố đánh Lã Bố. Đánh nhau được hơn năm mươi hợp chưa rõ bên nào thua bên nào được. Quan Công đứng ngoài thấy thế cũng múa thanh long đao đến cùng đánh. Ba con ngựa đứng ra kiểu chữ đinh, đánh nhau được ba mươi hợp nữa cũng vẫn không hạ được Lã Bố. Lưu Bị bấy giờ cũng cầm đôi gươm tế ngựa chạy vào đánh giúp. Ba người vây tròn lấy Lã Bố đánh chẳng khác gì quân đèn cù. Binh mã tám xứ ngây mặt ra trông.
Lã Bố cố sức chống đỡ không nổi. Bố nhằm giữa mặt Lưu Bị phóng vờ một ngọn kích. Lưu Bị tránh được. Lã Bố mở góc cửa trận, cắp đao ngược kích, phi ngựa chạy về. Ba người thúc ngựa xấn vào; quân mã tám xứ đều reo ầm lên, xô cả ra đánh. Quân Lã Bố chạy về trên cửa Hổ-lao. Ba người theo sau đuổi mãi.
Có người làm bài ca khen ba người. Ca rằng:
''<poem>
Vận Hán đến Hoàn Linh suy thế,
Vầng thái dương đã xế về đoài
Giặc đâu Đổng Trác dông dài;
Trân Lưu hết vía rụng rời kinh nghi!
Hịch Tao Tháo truyền đi các trấn
Chư hầu cùng nổi giận hưng binh
Bản Sơ đầu bọn đồng minh,
Thề nhau giúp Hán yên bình non sông.
Kia Lã Bố anh hùng ai sánh?
Khắp mọi người dũng mạnh nào bằng?
Áo ngoài giáp bạc sáng choang,
Đầu trên nhấp nhoáng mũ vàng ngù bông.
Mặt thú dữ trập trùng bảo đái,
Cánh phượng bay phấp phới cẩm bào.
Vó câu gió chạy ào ào,
Kích hoa sáng quắc soi vào nước trong.
Ra cửa ải tranh hùng ai dám?
Các chư hầu thất đảm kinh hồn
Trương Phi nhảy vọt ra liền
Xà mâu một ngọn trận tiền giương uy;
Vểnh râu hổ gầm ghì thét mắng,
Xoe mắt tròn lóng lánh lóng la
Đánh nhau mê mải chưa tha
Vân Trường nóng tiết nhảy ra xông vào
Nhoáng màu tuyết siêu-đao sắc sủa
Áo chiến bào sặc sỡ vẻ hoa.
Quỷ thần thét tiếng ngựa ra,
Căm căm khi tức mắt hoa đỏ ngầu
Huyền Đức cũng giục mau ngựa nhẩy
Múa đuôi gươm vùng vẫy ra oai,
Ba người vây bọc vòng ngoài;
Kẻ đâm người đỡ liền tay không rời
Tiếng quát tháo lay trời động đất
Vừng sát khí cao ngất trời xanh.
Ôn hầu núng thế nhìn quanh,
Quay đầu ngựa chạy về nhanh núi nhà
Cán họa kích cho đà tếch trước,
Cờ ngũ hành xơ xác bướm bay
Giật cương chạy rẽ đường mây
Hổ-lao trại ấy tọt ngay vào thành.
</poem>''
Ba người đuổi Lã Bố đến dưới cửa quan, trông thấy trên quan có tàn lọng che, gió bay phấp phới. Trương Phi kêu to lên rằng:
- Hẳn Đổng Trác đấy rồi! Đuổi Lã Bố làm gì nữa, không bằng bắt thằng Đổng Trác mới thực là đào cây nhổ đến tận rễ.
Vừa nói vừa tế ngựa lên quan để bắt Đổng Trác.
Thế mới thực là:
''<poem>
Bắt giặc nên tìm đầu {{SIC|x|s}}ỏ giặc;
Công kỳ lại phải đợi người kỳ.
</poem>''
Chưa biết rồi chuyện ra làm sao, xem đến hồi sau mới rõ.
hzub736sjk2uqkge0fx970qmm2ssyhi
141424
141423
2022-08-19T16:06:56Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{chất lượng vk|75%}}{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 5
| trước = [[../Hồi 4|Hồi 4]]
| sau = [[../Hồi 6|Hồi 6]]
| ghi chú =
}}
{{giữa|
HỒI THỨ NĂM
'''<poem>
Phát kiểu chiếu, các trấn ứng Tào-công;
Phá quan binh, ba ông đánh Lã Bố.
</poem>'''
}}
Trần Cung muốn giết Tào Tháo, nhưng lại nghĩ rằng:
“Ta theo nó cũng là vị nước, nếu bây giờ giết nó e rằng bất nghĩa. Không bằng bỏ nó, đi nơi khác”.
Nói rồi lại cài gươm, lên ngựa không đợi trời sáng đi thẳng về Đông-quận.
Tháo dậy, không thấy Trần Cung, nghĩ bụng:
- Người này thấy ta nói mấy câu, tưởng ta là đứa bất nhân, nên bỏ ta mà đi. Ta nên đi ngay, không thể ở đây lâu.
Suốt đêm hôm ấy Tháo đi, đến Trần-lưu, tìm thấy bố, thuật lại sự tình với bố, muốn đem gia tài bán đi để mộ nghĩa binh.
Tào Tung nói:
- Gia tư nhà ta không có mấy tí. Cha e không đủ để kham nổi việc lớn. Ở đây có ông Vệ Hoằng, đỗ khoa Hiếu liêm, là người khinh tài trọng nghĩa, nhà giàu, nếu được ông ấy giúp con, thì việc lớn có thể mưu đồ được.
Tháo bèn đặt một tiệc rượu, mời Vệ Hoằng đến nhà, nói với Hoằng rằng:
- Nay nhà Hán vô chủ; Đổng Trác lộng quyền; dối vua hại dân; thiên hạ ai ai cũng nghiến răng tức giận. Tôi muốn hết lòng giúp nước, hiềm vì sức không đủ. Ngài là người trung nghĩa, rất mong ngài giúp đỡ.
Vệ Hoằng nói:
- Tôi có lòng ấy đã lâu, giận rằng chưa gặp ai là người anh hùng. Nay Mạnh Đức đã có chí lớn, tôi xin đem hết của cải ra giúp.
Tào Tháo mừng lắm làm ngay tờ kiểu chiếu phát đi các đạo, rồi dựng một lá cờ trắng, đề hai chữ: “TRUNG NGHĨA” để chiêu binh tập mã.
Không được mấy ngày, thiên hạ kéo đến ứng mộ đông như nước chảy.
Một bữa có người ở Dương-bình, tên là Nhạc Tiến, tên chữ là Văn Khiêm; lại có người ở Cự-lộc tên là Lý Điển, tên chữ là Nam Thành, hai người đến xin theo, Tháo đều cho làm chân tay dưới trướng.
Lại có người nữa, người nước Bái, tên là Hạ hầu Đôn, tên chữ là Nguyện Nhượng, nguyên là dòng dõi Hạ hầu Anh ngày xưa; từ khi nhỏ đã tập đánh gậy; đến năm 14 tuổi đã theo thầy học võ. Có người chửi thầy, Đôn giết người ấy rồi trốn sang nơi khác ở. Bấy giờ nghe thấy Tào Tháo khởi binh, Đôn cùng với một người em họ, tên là Hạ hầu Uyên, đem một nghìn tráng sĩ lại họp với quân Tháo.
Hai người ấy vốn là anh em cùng họ với Tào Tháo, vì Tháo nguyên cũng là họ Hạ-hầu, tại bố Tháo là Tào Tung vào làm con nuôi họ Tào, nên mới đổi ra là họ Tào.
Được vài ngày nữa, lại có hai người họ Tào, Tào Nhân, Tào Hồng cũng đem hơn một nghìn quân lại giúp.
[[Tập tin:Cao Ren Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Tào Nhân. Tranh minh họa đời Thanh.]]
Tào Nhân, tên chữ là Tử Hiếu; Tào Hồng tên chữ là Tử Liêm, hai người cung mã đều thạo, võ nghệ tinh thông. Tháo mừng lắm, ngày ngày ở trong thôn luyện tập quân mã.
Vệ Hoằng đem hết cả gia tài, sắm sửa cờ quạt, và may áo giáp. Bốn phương lại đưa lương thực đến, không biết ngần nào mà kể.
Bấy giờ Viên Thiệu bắt được kiểu-chiếu của Tào Tháo, bèn tụ hội văn vũ, đem ba vạn quân ở Bột-hải sang hội với quân Tào Tháo.
Tháo bèn làm một bài hịch gửi đi các quận. Hịch rằng:
{{khối chữ nghiêng|“Anh em Tào Tháo chúng tôi kính đem nghĩa lớn, bá cáo cả nước:
Tặc thần Đổng Trác, lừa đất dối trời, giết vua phá nước; ô uế chốn cung cấm, tàn hại kẻ sinh dân. Bạo ngược bất nhân, tội ác chồng chất!
Nay vâng tờ mật chiếu của thiên tử, họp quân nghĩa binh, thề rằng quét sạch cả trong ngoài, giết trừ mọi quân hung bạo; rất mong các nơi đều dấy nghĩa binh, cùng hả lòng công phẫn để giúp vua cứu chúng.
Hịch này đến nơi, lập tức thi hành”.}}
[[Tập tin:發矯詔響應曹公.jpg|phải|nhỏ|Các chư hầu hưởng ứng lời kiểu chiếu của Tào Tháo]]
Sau khi tờ hịch của Tào đã phát đi, chư hầu các trấn đều khởi binh hưởng ứng:
1- Viên Thuật hậu-tướng-quân làm thái-thú Nam-dương.
2- Hàn Phức, thứ-sử Ký-châu.
3- Khổng Du, thứ-sử Dự-châu.
4- Lưu Đại, thứ-sử Duyện-châu.
5- Vương Khuông, thái-thú Hà-nội.
6- Trương Mặc, thái-thú Trần-lưu.
7- Kiều Mạo, thái-thú Đông-quận.
8- Viên Dị, thái-thú Sơn-dương.
9- Pháo Tín, tướng ở Tế-bắc.
10- Khổng Dung, thái-thú Bắc-hải.
11- Trương Siêu, thái-thú Quảng-lăng.
12- Đào Khiêm, thứ-sử Từ-châu.
13- Mã Đằng, thái-thú Tây-lương.
14- Công-tôn-Toản, thái-thú Bắc-bình.
15- Trương Dương, thái-thú Thượng-đảng.
16- Tôn Kiên, Ô-trình-hầu, thái-thú Tràng-sa.
17- Viên Thiệu, Kỳ-hương-hầu, thái-thú Bột-hải.
Quân mã các trấn, nơi nhiều nơi ít, trấn thì ba vạn, trấn thì một hai vạn, đều đem các văn quan võ tướng, kéo đến Lạc Dương.
[[Tập tin:Gongsun Zan Qing illustration.jpg|nhỏ|phải|Công-tôn-Toản]]
Đây nói chuyện thái thú Bắc-bình là Công tôn Toản đem một vạn rưởi quân, khi đi qua huyện Bình-nguyên, ở châu Đức, trông thấy ở đằng xa xa, trong đám cây dâu, có một lá cờ vàng, với vài người kỵ mã đến đón. Trông xem ai hóa ra Lưu Bị.
Toản hỏi:
- Hiền đệ sao lại ở đây?
Lưu Bị thưa:
- Ngày trước em nhờ anh được cử làm huyện lịnh Bình-nguyên, nay nghe thấy đại quân qua đây, nên em lại hầu. Xin anh hãy vào thành nghỉ ngựa.
Toản thấy có mấy người đi theo Lưu Bị, trỏ hỏi mấy người ấy là ai. Lưu Bị nói:
- Đây là Quan Vũ, Trương Phi, hai người anh em kết nghĩa với tôi đó.
Toản hỏi có phải hai người ấy là hai người cùng phá giặc khăn vàng hay không? Huyền Đức nói:
- Phá giặc khăn vàng chính là công hai người này cả!
Toản hỏi hiện bây giờ hai người làm chức gì? Huyền Đức thưa:
- Quan Vũ làm tay mã cung; Trương Phi làm tay bộ cung.
Toản than rằng:
- Như thế quả là mai một anh hùng! Nay Đổng Trác làm loạn, chư hầu cùng đề binh đến đánh. Hiền đệ bỏ quách một chức quan nhỏ này, cùng với tôi đi đánh giặc giúp nhà Hán. Nên không?
Lưu Bị vâng xin đi ngay.
Trương Phi nghe thấy tên Đổng Trác, nói rằng:
- Khi trước giá để tôi giết ngay thằng giặc ấy đi, không đến nỗi còn có việc ngày nay.
Quan Vũ nói:
- Bây giờ việc đã như thế, ta nên thu xếp đi ngay thôi.
Lưu Bị cùng Quan, Trương liền đem vài ba người lính kỵ, theo Công tôn Toản đi. Tào Tháo ra tiếp. Các chư hầu cũng lục tục kéo đến cả, mỗi người đóng trại một chỗ, liên tiếp nhau hơn ba trăm dặm đất.
Tào Tháo giết trâu mổ ngựa, hội cả mười tám chư hầu bàn việc tiến binh.
Thái thú là Vương Khuông nói rằng:
- Nay làm việc đại nghĩa, nên lập minh chủ, để mọi người vâng theo hiệu lệnh, rồi sẽ tiến binh.
Tháo nói:
- Viên Bản Sơ nhà bốn đời làm tam-công, lại có nhiều đầy tớ cũ; nguyên là con cháu danh tướng nhà Hán., Nên cử y làm minh chủ.
Thiệu hai ba lần từ chối, nhưng mọi người đều nói:
- Phi Bản Sơ không xong!
Thiệu mới vâng lời.
Hôm sau lập một cái đàn ba từng, chung quanh cắm cờ ngũ phương, từng trên dựng một lá cờ tuyết-mao trắng, một cây hoàng-việt; binh-phù tướng ấn đủ cả; mời Thiệu lên đàn. Thiệu mặc áo chỉnh tề, đeo gươm lên đàn, đốt hương lễ hai lễ, rồi đọc lời thề:
{{khối chữ nghiêng|
“Nhà Hán chẳng may; giường vua đứt mối. Tặc-thần Đổng Trác, thừa thế làm ác, vạ đến ngôi vua, hại ra trăm họ.
Anh em chúng tôi là Thiệu... sợ rằng xã-tắc đắm mất nên phải tụ họp nghĩa-binh, cùng nhau cứu nạn nước.
Phàm đã là người đồng minh, ai cũng phải dốc lòng hết sức để giữ lấy đạo làm tôi, không được hai lòng.
Ai trái lời thề này, không được toàn vẹn!
Xin trời đất tổ tôn chứng giám cho.”}}
Thiệu đọc xong, các tướng đều uống máu ăn thề. Mọi người nghe thấy lời nói khẳng khái, ai cũng nước mắt chứa chan.
Thề xong xuống đàn. Thiệu lên trướng ngồi, chư hầu hai bên theo chức tước và tuổi chia định ngôi thứ. Tháo đứng dậy mời rượu. Rượu uống được vài tuần, Tháo nói:
- Nay đã lập minh chủ rồi, chúng ta đều phải vâng nghe điều khiển, cùng giúp việc nước. Không ai được cậy khỏe cậy tài ganh tị nhau.
Viên Thiệu nói:
- Thiệu tuy bất tài, nhưng đã được các quan cắt làm minh chủ, xin hết sức công minh; ai có công phải thưởng; ai có tội phải phạt. Nước có hình, quân có phép, nên cùng giữ gìn, đừng ai vi phạm.
Các tướng đều nói:
- Chúng tôi xin vâng lệnh.
Thiệu lại nói:
- Em ta là Viên Thuật, coi việc lương thảo, ứng cấp các trại không được thiếu thốn. Sau nữa xin chọn lấy một người làm tiên phong, đi thẳng ngay vào cửa Dĩ-thủy khiêu chiến; còn các tướng khác phải chia nhau giữ các chốn hiểm yếu, để làm tiếp ứng.
Thái-thú Tràng-sa, tên là Tôn Kiên, bước lên, xin đi tiên phong.
Thiệu nói:
- Phải đấy! Văn Đài hùng mạnh, có thể đảm đang chức ấy.
Kiên liền dẫn quân mã của bản hộ của mình, kéo đến cửa Dĩ-thủy. Quân canh cửa vội vàng chạy ngựa trạm về phủ thừa tướng cáo cấp.
Đổng Trác từ khi chuyên quyền, ngày nào cũng yến tiệc vui say. Lý Nho tiếp được tờ cáo cấp, vào bẩm với Trác. Trác thất kinh vội vàng họp các tướng sĩ bàn bạc. Lã Bố thưa rằng:
- Lo chi việc ấy, thưa cha! Những chư hầu đóng ở ngoài cửa ải, con coi như cỏ rác cả. Con xin đem quân hổ lang, chém hết đầu chúng treo dưới cửa đó.
Trác mừng mà nói rằng:
- Ta được Phụng Tiên, nằm cao không lo gì nữa.
Nói chưa dứt lời, sau lưng Lã Bố có một người bước ra nói to lên rằng:
- Cắt tiết gà, lọ là phải dùng đến dao mổ trâu, không phải phiền đến Lã Ôn-hầu, tôi xin ra chém hết đầu chúng nó, dễ như lấy đồ ở trong túi.
Trác nhìn xem: người ấy thân cao chín thước, mình hổ lưng lang, đầu beo tay vượn, là người Quan-tây, họ Hoa, tên Hùng.
Trác nghe nói thế, thích chí lắm, cho ngay làm kiêu-kỵ hiệu-úy, đem năm vạn quân mã bộ cùng với Lý Túc, Hồ Chẩn, Triệu Xầm đi suốt ngày đêm ra cửa quan nghênh địch.
Trong bọn chư hầu, có Pháo Tín là tướng ở Tế-bắc, thấy Tôn Kiên được đi làm tiên phong, sợ Kiên cướp mất công đầu, bèn mật sai em là Pháo Trung, đem năm nghìn quân mã bộ đi đường tắt, ra thẳng trước cửa quan khiêu đánh. Hoa Hùng đem năm trăm quân thiết kỵ ra ngoài cửa quan, thét lớn: "Tướng giặc chớ chạy!" Pháo Trung vội lui, bị Hoa Hùng chém chết, tướng hiệu bị bắt sống rất nhiều. Hoa Hùng sai người đem đầu Pháo Trung về báo tiệp. Trác giao ngay cho Hùng làm đô-đốc.
Đây nói chuyện Tôn Kiên dẫn bốn tướng đến trước cửa Dĩ-thủy. Bốn tướng ấy là:
1- Trình Phổ, tên chữ Đức Mưu, người Thổ-ngân, ở Hữu Bắc-bình, Phổ cầm một ngọn xà-mâu sắt;
2- Hoàng Cái, tên chữ Công Phúc, người ở Linh-lăng. Cái cầm một ngọn roi sắt;
3- Hàn Đương, tên chữ là Công Nghĩa, người Linh-chi, tỉnh Liêu-tây, cầm một con dao lớn;
4- Tổ Mậu, tên chữ là Đại Vinh, người ở Phú-xuân, quận Ngô, hai tay cầm hai dao.
Tôn Kiên mình thì mặc áo giáp bạc, đầu đội mũ chóp đỏ, cắp dao Cổ-dĩnh, cưỡi ngựa Hoa-tôn, trỏ tay lên trên cửa quan mà mắng rằng:
- Thằng tiểu nhân đi phò giặc kia! Sao không mau mau xuống hàng?
Phó tướng Hoa Hùng là Hồ Chẩn, dẫn năm nghìn quân xuống dưới cửa quan nghênh địch.
Tướng Kiên là Trình Phổ vác ngọn mâu, phi ngựa ra thẳng đánh Hồ Chẩn. Đánh nhau được vài hợp Phổ đâm trúng cổ họng Chẩn, chết ngã từ trên ngựa xuống đất. Kiên bèn thúc quân xông đến trước cửa quan. Trên cửa bắn tên, ném đá xuống như mưa. Kiên phải lui binh về đóng ở Lương-đông, sai người đến chỗ Viên Thiệu báo tiệp và đến chỗ Viên Thuật thúc giục lương thảo.
Bấy giờ có người xui Thuật rằng:
- Tôn Kiên là một con hổ dữ ở đất Giang-đông, nếu ta để cho nó phá được Lạc-dương, giết được Đổng Trác, thì khác gì trừ được lang mà lại gặp hổ. Nay đừng phát lương, quân hắn sẽ tan vỡ.
Thuật nghe, bèn không cấp lương cho Tôn Kiên.
Kiên cạn lương, trong quân rối loạn. Quân do thám biết, về cửa quan báo tin. Lý Túc bàn với Hoa Hùng rằng:
- Đêm hôm nay ta đem một toán quân, đi lần con đường nhỏ xuống đánh đằng sau trại Tôn Kiên, tướng quân đánh đằng trước, chắc bắt được nó.
Hùng nghe kế ấy, truyền lệnh cho quân sĩ ăn no, để đêm xuống cửa quan đánh giặc.
Đêm hôm ấy, gió mát trăng trong. Quân Hùng đến trại Kiên bấy giờ độ nửa đêm, đánh trống reo kéo vào. Kiên vội vàng mặc áo cưỡi ngựa đi ra, vừa gặp Hoa Hùng đến. Hai bên đánh nhau được vài hợp, mặt sau Lý Túc kéo vào, sai quân sĩ phóng hỏa. Quân Tôn Kiên rối loạn. Các tướng đánh lộn nhau, duy có Tổ Mậu theo Kiên phá vây chạy. Hoa Hùng từ mặt sau đuổi dồn lại. Kiên cầm cung bắn hai phát tên, Hùng đều tránh được cả, lại giương cung bắn một phát nữa, cố sức quá lôi gãy mất cung Thước-họa, phải vứt bỏ cung, tế ngựa chạy. Tổ Mậu bảo Kiên rằng:
- Cái mũ chóp đỏ trên đầu chúa công, bị giặc nó nhận được. Xin cởi mũ đưa cho tôi đội.
Kiên liền cởi mũ đánh đổi cho Mậu, rồi hai người chia đường chạy ra hai ngả. Quân Hoa Hùng cứ đuổi theo người đội mũ chóp đỏ. Kiên chạy sang con đường nhỏ được thoát.
Tổ Mậu bị Hoa Hùng đuổi kíp lắm, bèn bỏ mũ ra, treo vào một cái cột nhà cháy dở, rồi trốn vào rừng rậm, núp một chỗ.
Quân Hùng, thấp thoáng dưới bóng trăng, trông thấy cái chóp mũ đỏ ở chỗ nhà cháy cứ vây bọc bốn mặt lại, không dám đến gần, rồi sau lấy tên bắn mãi mới biết bị lừa. Tổ Mậu ở trong rừng lúc bấy giờ xông ra, hai tay múa đôi dao, chực chém Hoa Hùng. Hùng thét to một tiếng, đưa cho Tổ Mậu một nhát dao, Mậu chết lăn xuống dưới ngựa.
Đánh nhau vừa đến tận sáng, Hùng mới kéo quân về.
[[Tập tin:HuangGai.jpg|nhỏ|phải|Hoàng Cái]]
Trình Phổ, Hàn Đương, Hoàng Cái tìm thấy Tôn Kiên, thu nhập quân mã lại rồi đóng trại ở.
Tôn Kiên thấy mất Tổ Mậu, thương xót lắm. Cấp tốc cho người đi báo Viên Thiệu, Thiệu thất kinh nói:
- Không ngờ Tôn Văn-đài mà thua Hoa Hùng!
Thiệu họp chư hầu để bàn bạc. Chư hầu đến cả, chỉ có Công tôn Toản đến sau. Thiệu mời các tướng vào ngồi sắp hàng trong trướng, rồi nói rằng:
- Em Pháo Tín không theo điều khiển, tự tiện tiến binh, mình bị giết, quân sĩ chết nhiều. Đến nay Tôn Văn-đài cũng bị thua, mất hết nhuệ khí, các tướng định làm sao?
Chư hầu không ai nói gì cả, Thiệu ngẩng mặt lên nhìn chỉ thấy sau lưng Công tôn Toản có ba người diện mạo dị thường, đứng cười mát.
Thiệu hỏi ai. Toản gọi Lưu Bị ra và nói rằng:
- Người này là anh em bạn học với tôi thuở nhỏ, hiện đương làm quan lệnh Bình-nguyên, tên là Lưu Bị.
Tháo hỏi:
- Có phải là Lưu Huyền Đức đánh tan giặc khăn vàng khi xưa không?
Toản nói phải, rồi bảo Lưu Bị ra chào các quan, nhân thể đem công lao và tình trạng ông ấy xuất thân thế nào, nói chuyện để các quan nghe. Thiệu thấy nói Lưu Bị là tôn phái nhà Hán bèn sai lấy ghế mời ngồi.
Lưu Bị khiêm tốn không dám ngồi. Thiệu nói:
- Ta kính không phải là kính danh tước nhà ngươi, ta kính là kính người tôn thất nhà vua đấy thôi!
Lưu Bị mới ngồi xuống ghế ở hàng cuối cùng. Quan Vũ, Trương Phi chắp tay đứng hầu đằng sau.
Đương khi ấy, có quân do thám lại báo:
- Hoa Hùng dẫn quân thiết kỵ xuống cửa quan, nó lấy sào cắm cái chóp mũ của Tôn thái thú, đến trước cửa trại, hò hét thách đánh.
Thiệu hỏi:
- Ai dám ra trận?
Sau lưng Viên Thuật, có một tướng lực lưỡng, tên là Du Thiệp bước ra thưa rằng:
- Tiểu tướng xin ra.
Thiệu mừng sai Thiệp ra. Vừa ra được một lát, có người về báo:
- Thiệp đánh nhau với Hoa Hùng được ba hợp, bị Hùng chém chết.
Các tướng cả sợ.
Thái-thú Hàn Phức nói:
- Tôi có thượng tướng Phan Phụng chém được Hoa Hùng.
Thiệu bèn sai Phan Phụng ra đánh. Phụng tay cầm một cái búa to, lên ngựa, ra được một lúc, lại bị Hoa Hùng chém chết.
Các tướng không người nào còn máu mặt.
Thiệu nói rằng:
- Tiếc thay! Tướng của ta là Nhan Lương, Văn Sú chưa đến. Giá thử được một người ấy ở đây thì sợ gì Hoa Hùng!
Nói chưa dứt lời một người ở dưới thềm, chạy ra, nói to lên rằng:
- Tiểu tướng xin ra chém đầu Hoa Hùng, đem dâng dưới trướng.
Mọi người nhìn xem thấy người ấy cao chín thước, mắt phượng mày ngài, mặt như táo chín, tiếng giống chuông kêu.
Thiệu hỏi là người nào. Toản thưa:
- Em Huyền Đức tên là Quan Vũ đấy!
Thiệu lại hỏi hiện làm chức gì? Toản thưa:
- Vũ theo Huyền Đức làm mã cung thủ.
Viên Thuật ở trong trướng thét lên:
- Thằng này thằng nào! Mày khinh chư hầu chúng tao không có đại tướng hay sao, thứ mày là một thằng cung thủ, dám nói khoác à? Chúng đâu, đuổi cổ nó ra ngoài kia!
Tào Tháo vội ngăn rằng:
- Công lộ hãy nguôi cơn giận. Người ấy đã nói khoác thế, tất cũng có dũng lực. Xin hãy thử cho ra, hễ không đánh được ta sẽ trị tội.
Viên Thiệu nói:
- Sai một tay cung ra đánh, giặc nó có cười cho không?
Tào Tháo nói:
- Người ấy diện mạo hùng vĩ thế kia, Hoa Hùng biết đâu là tay cung.
Quan Công nói:
- Nếu không đánh được, xin chặt đầu tôi.
Tháo sai người rót chén rượu, đưa Quan Công uống, rồi sẽ ra. Quan Công nói:
- Xin hãy để chén rượu đấy. Tôi đi rồi về ngay!
Nói rồi đi ra, vác long đao nhảy lên lưng ngựa, được một lát các chư hầu nghe thấy ngoài cửa quân trống đánh, người reo ầm ầm, tựa hồ như trời tan đất lở, núi đổ non nghiêng; chúng tướng đều thất kinh đang định sai người ra xem, đã thấy tiếng nhạc nhong nhong trở về, ngựa đã vào tới trung quân; Quan Công cầm đầu Hoa Hùng ném xuống đất, chén rượu của Tào Tháo hãy còn nóng.
Đời sau có thơ khen rằng:
''<poem>
Cửa quân trống trận nổi thùng thùng,
Văng vẳng tai nghe nhạc ngựa rung.
Chén rượu rót ra còn nóng hổi,
Trước màn đã thấy sỏ Hoa Hùng.
</poem>''
Tào Tháo mừng lắm.
Trương Phi khi ấy ở sau lưng Lưu Bị mới chạy ra nói to lên rằng:
- Kha kha đã chém chết được Hoa Hùng, sao không nhân thể đánh thốc vào cửa quan, bắt sống lấy Đổng Trác còn đợi đến bao giờ?
Viên Thuật giận quát mắng rằng:
- Thằng láo! Đại thần chúng tao đây còn phải khiêm tốn, thứ mày là tiểu tốt của một quan huyện, sao dám hỗn xược ở đây? Đuổi cả chúng nó ra ngoài kia!
Tào Tháo nói:
- Ai có công thì thưởng, cứ gì quý với tiện.
Viên Thuật nói:
- Có phải các ông chỉ trọng một người huyện lệnh, tôi xin cáo thoái.
Tháo nói:
- Sao nên nhân một lời nói, mà bỏ việc lớn?
Nói thế rồi Tháo bảo Công tôn Toản hãy mời các ông ấy về trại.
Chư hầu tan, người nào về trại người ấy, Tháo mật sai người đem trâu và rượu đưa sang mừng và úy lạo ba anh em Lưu, Quan, Trương.
Quân Hoa Hùng thua, chạy về cửa quan báo Lý Túc. Túc vội vàng viết giấy báo Đổng Trác, Trác họp các quan lại bàn. Lý Nho nói:
- Nay ta mất thượng tướng Hoa Hùng, thế giặc to lắm. Viên Thiệu là minh chủ, có chú là Viên Ngỗi hiện đang làm thái phó, vậy nó trong ngoài ứng hợp với nhau. Để vậy nguy lắm, nên trừ trước đi. Xin thừa tướng thân cầm đại quân, chia đường ra đánh thì mới được.
Trác nghe lời Nho, gọi Lý Thôi, Quách Dĩ, lĩnh năm trăm quân đến vây nhà thái-phó Viên Ngỗi, già trẻ đều giết sạch, đem đầu Ngỗi ra bêu trước cửa quan.
Trác khởi hai mươi vạn quân chia làm hai đường, một đường sai Lý Thôi, Quách Dĩ, đem năm vạn quân ra giữ cửa Dĩ-thủy, không khiến đánh nhau, một đường thì Trác đem mười lăm vạn quân cùng với Lý Nho, Lã Bố, Phàn Trù, Trương Tế giữ cửa quan Hổ-lao. Cửa ấy cách Lạc-dương năm mươi dặm. Đến cửa Hổ-lao, Trác sai Lã Bố lĩnh ba mươi vạn quân ra trước quan, đóng một trại lớn; Trác thì đóng đồn trên quan.
Quân lưu tinh dò được tình hình, kíp vào trại Viên Thiệu báo. Thiệu họp các tướng lại họp bàn. Tháo nói:
- Đổng Trác đóng quân ở Hổ-lao, là cốt chẹn đường chư hầu. Nay nên chia binh ra: một nửa ra đó nghênh địch.
Thiệu bèn cắt Vương Khuông, Kiều Mạo, Pháo Tín, Viên Dị, Khổng Dung, Trương Dương, Đào Khiêm, Công tôn Toản, cả thảy tám vị chư hầu đến cửa Hổ-lao đối địch. Tào Tháo thì dẫn quân đi lại tiếp ứng. Chư hầu đều khởi binh đến, thái thú Vương Khuông đi trước.
Lã Bố đem năm nghìn quân thiết kỵ lại. Vương Khuông đem quân mã, bày thành thế trận, cưỡi ngựa đứng dưới cờ, trông thấy Lã Bố ra trận, đầu đội mũ dát vàng ba chỏm, mình mặc áo gấm đỏ trăm hoa, ngoài khoác áo giáp thú-diện liên-hoàn; dưới thắt dây lưng sư man, lưng đeo một bộ cung tên; tay cầm một ngọn họa kích, cưỡi ngựa Xích-thố.
Khuông ngoảnh lại hỏi ai dám ra đối chiến? Đằng sau có một tướng vác ngọn giáo, tế ngựa chạy ra. Xem ai hóa ra một danh tướng ở Hà-nội, tên là Phương Duyệt. Hai ngựa giao nhau, chưa được năm hợp, Duyệt bị Lã Bố đánh một ngọn kích ngã xuống ngựa. Bố xông thẳng vào. Quân Vương Khuông thua to, chạy tán lạc ra bốn mặt. Bố xông xáo vào đám quân Khuông, như chạy vào nơi không có người. May sao Kiều Mạo, Viên Dị đem hai cánh quân vừa đến, cứu được Vương Khuông, quân Bố mới lui. Chư hầu ba xứ mỗi xứ mất ít nhiều người ngựa, lui ba mươi dặm, đóng trại. Quân năm xứ đi sau cũng dần dần kéo đến cả, họp lại bàn nhau, đều cho Lã Bố là anh hùng, không ai địch nổi.
Khi đang lo nghĩ có quân vào báo rằng Lã Bố đến khiêu chiến. Chư hầu tám xứ, đều lên ngựa kéo ra cả, chia quân ra làm tám đội, bày ở trên gò cao; trông ở đằng xa xa thấy một toán quân mã, cờ bay phất phới, Lã Bố xông đến.
Bộ tướng của Trương Dương, thái-thú Thượng-đảng tên là Mục Thuận vác ngọn giáo tế ngựa ra đánh, bị Bố đâm một ngọn kích chết lăn từ trên ngựa xuống đất.
Thấy thế, một bộ tướng của Khổng Dung, tên là Vũ An Quốc, vác một cái dùi sắt, tế ngựa chạy ra, Lã Bố đến, đánh nhau được mười hợp, Bố đưa cho một ngọn kích đánh gẫy cánh tay An Quốc. An Quốc vứt dùi sắt chạy. Chư hầu tám xứ cùng đổ ra mới cứu được An Quốc. Lã Bố lui quân trở về, các chư hầu lại về trại bàn với nhau.
Tào Tháo nói:
- Lã Bố anh hùng, không địch được. Nay nên họp cả mười tám nước chư hầu để bàn nhau tìm kế gì đánh được nó. Hễ bắt sống được Lã Bố, thì giết Đổng Trác chẳng khó gì nữa.
Trong khi đang bàn bạc, Lã Bố lại kéo binh đến thách đánh. Công tôn Toản vác ngọn giáo nhảy ra đánh Lã Bố mới được vài hợp, Toản thua chạy. Lã Bố thúc ngựa Xích-thố xấn lại đuổi, ngựa này chạy nhanh như bay. Bố gần đuổi kịp Toản, ở bên ria đường, bỗng có một tướng, mắt tròn trợn ngược, râu hùm vểnh lên, vác một ngọn bát-xà-mâu, tế ngựa đến thét lên rằng:
- Thằng đi ở ba họ kia! Đừng chạy nữa! Tao là Trương Phi người đất Yên đây!
[[Tập tin:3 heros - Lv Bu.jpg|giữa|nhỏ|500px|[[w:Trận Hổ Lao Quan|Trận Hổ Lao Quan]]. Bích họa tại Trường Lang, Di Hòa Viên, Bắc Kinh.]]
Lã Bố thấy thế bỏ Toản, đánh nhau với Trương Phi. Trương Phi hăng hái cố đánh Lã Bố. Đánh nhau được hơn năm mươi hợp chưa rõ bên nào thua bên nào được. Quan Công đứng ngoài thấy thế cũng múa thanh long đao đến cùng đánh. Ba con ngựa đứng ra kiểu chữ đinh, đánh nhau được ba mươi hợp nữa cũng vẫn không hạ được Lã Bố. Lưu Bị bấy giờ cũng cầm đôi gươm tế ngựa chạy vào đánh giúp. Ba người vây tròn lấy Lã Bố đánh chẳng khác gì quân đèn cù. Binh mã tám xứ ngây mặt ra trông.
Lã Bố cố sức chống đỡ không nổi. Bố nhằm giữa mặt Lưu Bị phóng vờ một ngọn kích. Lưu Bị tránh được. Lã Bố mở góc cửa trận, cắp đao ngược kích, phi ngựa chạy về. Ba người thúc ngựa xấn vào; quân mã tám xứ đều reo ầm lên, xô cả ra đánh. Quân Lã Bố chạy về trên cửa Hổ-lao. Ba người theo sau đuổi mãi.
Có người làm bài ca khen ba người. Ca rằng:
''<poem>
Vận Hán đến Hoàn Linh suy thế,
Vầng thái dương đã xế về đoài
Giặc đâu Đổng Trác dông dài;
Trân Lưu hết vía rụng rời kinh nghi!
Hịch Tao Tháo truyền đi các trấn
Chư hầu cùng nổi giận hưng binh
Bản Sơ đầu bọn đồng minh,
Thề nhau giúp Hán yên bình non sông.
Kia Lã Bố anh hùng ai sánh?
Khắp mọi người dũng mạnh nào bằng?
Áo ngoài giáp bạc sáng choang,
Đầu trên nhấp nhoáng mũ vàng ngù bông.
Mặt thú dữ trập trùng bảo đái,
Cánh phượng bay phấp phới cẩm bào.
Vó câu gió chạy ào ào,
Kích hoa sáng quắc soi vào nước trong.
Ra cửa ải tranh hùng ai dám?
Các chư hầu thất đảm kinh hồn
Trương Phi nhảy vọt ra liền
Xà mâu một ngọn trận tiền giương uy;
Vểnh râu hổ gầm ghì thét mắng,
Xoe mắt tròn lóng lánh lóng la
Đánh nhau mê mải chưa tha
Vân Trường nóng tiết nhảy ra xông vào
Nhoáng màu tuyết siêu-đao sắc sủa
Áo chiến bào sặc sỡ vẻ hoa.
Quỷ thần thét tiếng ngựa ra,
Căm căm khi tức mắt hoa đỏ ngầu
Huyền Đức cũng giục mau ngựa nhẩy
Múa đuôi gươm vùng vẫy ra oai,
Ba người vây bọc vòng ngoài;
Kẻ đâm người đỡ liền tay không rời
Tiếng quát tháo lay trời động đất
Vừng sát khí cao ngất trời xanh.
Ôn hầu núng thế nhìn quanh,
Quay đầu ngựa chạy về nhanh núi nhà
Cán họa kích cho đà tếch trước,
Cờ ngũ hành xơ xác bướm bay
Giật cương chạy rẽ đường mây
Hổ-lao trại ấy tọt ngay vào thành.
</poem>''
Ba người đuổi Lã Bố đến dưới cửa quan, trông thấy trên quan có tàn lọng che, gió bay phấp phới. Trương Phi kêu to lên rằng:
- Hẳn Đổng Trác đấy rồi! Đuổi Lã Bố làm gì nữa, không bằng bắt thằng Đổng Trác mới thực là đào cây nhổ đến tận rễ.
Vừa nói vừa tế ngựa lên quan để bắt Đổng Trác.
Thế mới thực là:
''<poem>
Bắt giặc nên tìm đầu {{SIC|x|s}}ỏ giặc;
Công kỳ lại phải đợi người kỳ.
</poem>''
Chưa biết rồi chuyện ra làm sao, xem đến hồi sau mới rõ.
fj190fvzj1n8z64l89y9q5yama0dbdv
Tam quốc diễn nghĩa/Hồi 23
0
4203
141413
141245
2022-08-19T15:37:08Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 23
| trước = [[../Hồi 22|Hồi 22]]
| sau = [[../Hồi 24|Hồi 24]]
| ghi chú =
}}
{{giữa|
HỒI THỨ HAI MƯƠI BA
'''<poem>
Nễ Chính-bình khỏa thân mắng giặc
Cát thái-y đầu độc bị hình
</poem>'''
}}
Tào Tháo muốn chém Lưu Đại và Vương Trung, Khổng Dung can rằng:
- Hai người vốn không phải là địch thủ của Lưu Bị, nếu thừa tướng chém đi, tôi e mất lòng tướng sĩ.
Tháo liền tha tội, nhưng cách tuột cả chức tước và bổng lộc, và muốn tự khởi binh đến đánh Huyền-đức. Khổng Dung can rằng:
- Nay đương mùa đông, trời rét, chưa nên động binh, đợi sang xuân cũng chưa muộn. Thừa tướng nên sai người đến chiêu an Trương Tú, Lưu Biểu trước đã, rồi sau hãy tính đến Từ-châu.
Tháo nghe Khổng Dung, sai Lưu Việp đến dụ Trương Tú. Việp đến Trương-thành, trước tiên vào gặp Giả Hủ, khoe ngợi thịnh đức của Tào công. Hủ lưu Việp ở lại nhà mình, rồi hôm sau vào gặp Trương Tú, nói chuyện việc Tào công sai Lưu Việp đến chiêu an. Trong khi đang bàn chuyện, chợt báo có sứ giả của Viên Thiệu đến. Tú cho gọi vào. Sứ giả trình thư, Tú xem xong. Đó cũng là thư chiêu an. Giả Hủ hỏi:
- Mới rồi Viên tướng quân cất quân đánh Tào Tháo được thua thế nào?
Sứ giả đáp:
- Trời đông, tháng rét, còn tạm bãi binh. Nay thấy tướng quân cùng Lưu Cảnh-thăng ở Kinh-châu đều có phong độ của kẻ quốc sĩ, cho nên sai tôi lại mời.
Hủ cười, nói:
- Người về nói với Bản-sơ, anh em trong nhà còn chẳng dung được nhau, nữa là quốc sĩ thiên hạ!
Nói rồi xé vụn lá thư ngay trước mặt sứ giả rồi đuổi sứ giả về.
Trương Tú nói:
- Hiện giờ Viên khoẻ, Tào yếu; nay xé thư mắng sứ, nếu Thiệu đến đánh, thì làm thế nào?
Hủ nói:
- Không bằng theo với Tào Tháo.
Tú nói:
- Trước ta đã có thù với Tào Tháo, hắn dung sao được ta?
Hủ nói:
- Theo Tào có ba nhẽ phải: một là Tháo phụng chiếu thiên tử, đánh dẹp thiên hạ; hai là bây giờ Thiệu đương cường thịnh, ta lực bé mà đi theo, nó chẳng cho vào đâu; Tháo đương yếu được ta theo tất mạnh; ba là Tào Tháo có chí lớn mưu nghiệp bá vương tất không nghĩ đến thù riêng, để rõ đức tốt của bốn bể. Xin tướng quân đừng ngần ngại.
Tú nghe Hủ, mời Lưu Việp vào tương kiến. Việp tưng bốc thịnh đức của Tào Tháo lên, và nói:
- Nếu thừa tướng còn nhớ oán cũ, sao lại sai tôi đến đây kết hiếu với tướng quân?
Tú mừng lắm, lập tức cùng Giả Hủ đến Hứa-đô đầu hàng. Tú vào bái yết Tào Tháo, lạy ở dưới thềm. Tháo vội vàng nâng dậy, nói:
- Những lầm lỗi nhỏ, xin đừng để bụng.
Bèn phong Tú làm Dương-vũ tướng-quân, phong Giả Hủ làm chấp-kim ngô-sứ; lại sai Tú viết thư sang chiêu an Lưu Biểu. Giả Hủ đứng lên thưa:
- Lưu Biểu thích kết nạp những bậc danh lưu<ref>Người có danh vọng.</ref>, nay nên sai một danh sĩ đi, mới có thể chiêu hàng được.
Tháo hỏi Tuân Du:
- Ai đi được?
- Khổng Văn-cử có thể đi được.
Tháo lấy làm phải. Du ra gặp Khổng Dung, nói:
- Thừa tướng muốn có một danh sĩ, sung vào chức hành-nhân<ref>Chức sứ giả.</ref>, ông có nhận được chức này không?
Dung nói:
- Tôi có người bạn tên là Nễ Hành, tự là Chính-bình, tài giỏi gấp mười tôi, người ấy nếu được hầu ở bên cạnh vua, không những là sai đi sứ được và có thể sung chức hành-nhân. Nên tiến lên để thiên tử dùng.
Rồi viết ngay tờ biểu dâng thiên tử. Bài biểu như sau:
{{khối nghiêng|
“Tôi nghĩ: nước lớn ngập tràn, vua mong người giúp, tìm khắp bốn phương, mời đón những bậc hiền tuấn<ref>Bốn câu đầu, đại ý nói lúc loạn phải cần người hiền.</ref>. Xưa nay Thế-tông<ref>Chỉ Hán Vũ-đế, đời có nhiều nhân tài.</ref> kế thống, mở rộng cơ nghiệp; gặp buổi thịnh trị, mọi kẻ sĩ hưởng ứng đến giúp. Bệ hạ là bậc minh quân, vâng nối nghiệp lớn, gặp phải ách vận, lo bận suốt ngày; núi non thiêng liêng, sinh ra nhiều người lạ. Tôi trộm thấy kẻ sử sĩ ở Bình-nguyên tên là Nễ Hành, năm nay 24 tuổi, tên tự là Chính-bình, phẩm chất kiên trinh, tài năng siêu việt; theo nghề văn học, hiểu biết sâu rộng. Mắt thấy cái gì, miệng nói ngay ra được; tai nghe cái gì, bụng nhớ mãi không quên. Tính tình hợp với đạo lý, suy nghĩ như có thần minh. So với người khéo suy tính như Hoằng-dương,<ref name=a>Tang Hoằng-dương, một nhà giỏi về kế toán tài chính; Trương An-thế, một người có tài nhớ lâu, cái gì đã xem, không bao giờ quên.</ref>, người có tính cường ký như An-thế<ref name=a />, Nễ Hành chẳng thua kém gì. Trung trinh chính trực, chí khí trong sạch như tuyết sương, nghe thấy điều thiện thì giật mình tỉnh ngộ, ghét kẻ gian ác như thù địch; so với đức hạnh của Nhâm Tọa<ref name=b>Nhâm Tọa người đời Chiến quốc, làm quan nước Ngụy, tính rất trung trực, thường kể những lầm lỗi của vua nước Ngụy không hề kiêng nể. Sử Ngư đời Xuân thu, làm quan nước Vệ, liều chết can vua nước Vệ.</ref>, tiết tháo của Sử Ngư<ref name=b /> cũng không hơn được Nễ Hành. Hàng trăm chim ưng, không bằng một chim bằng. Nếu cho Hành được ở trong triều, chắc có nhiều việc tốt đẹp. Biện luận hăng hái, khí thế mạnh mẽ, có thể giải quyết được nhiều nghi vấn, và cho đi chống với địch cũng có thừa sức.
Xưa Giả Nghị<ref>Giả Nghị người đời Tây Hán, muốn sang sứ Nung-nô dụ chúa Thiền Vu.</ref> muốn đi thử tài ở cõi ngoài, toan dùng mưu mẹo bắt chúa Thiền Vu; Chung Quân<ref>Chung Quân đi sứ Nam Việt dụ được Triệu úy-đà.</ref> định lấy dải mũ dài khiên chế nước Việt; chí khí khảng khái của những người thanh niên, rất được đời trước khen ngợi; gần đây Lộ Toái, Nghiêm Tượng cũng vì có tài lạ được cất nhắc làm đại-lang; Nễ Hành có thể ví được với những người ấy. Nếu cho Nễ Hành được như rồng bay trên trời, chim vỗ cánh trên mây, nổi tiếng ở ngôi Tử vi<ref>Tên một toà sao trên trời; chỉ triều đình nhà vua.</ref>, nhả ánh sáng hồng-nghê<ref>Cầu vồng và mống.</ref>, tất có thể làm vẻ vang cho sĩ phu trong triều, và thêm sự oai nghiêm cho bốn cõi. Nơi tấu khúc quảng nhạc ở Quân-thiên<ref>Chỗ Ngọc hoàng thượng đế ở.</ref> phải có vẻ kỳ diệu; chốn cung điện nhà vua, nên có thứ báu phi thường, cũng như lũ Nễ Hành, thật là hiếm có. Những điệu hay như khúc Khích-sở<ref name=c>Tên hai khúc nhạc hay.</ref>, khúc Dương-kha<ref name=c />, đều là nghề nhạc phải chuộng; những ngựa hay như ngựa phi-thỉ, ngựa yêu-niễu, phi chạy rất nhanh đều là bọn Lương, Nhạc<ref>Tên hai người đời xưa sành xem tướng ngựa.</ref> rất cần. Dù ý kiến nhỏ mọn, tôi cũng xin bạo dạn tâu lên vua nghe. Nhà vua dùng người rất cẩn thận, xin hãy thử xem. Xin cho phép Hành là người áo vải được gọi vào bệ kiến. Nếu Hành không có tài năng gì, tôi xin cam chịu dối vua.”
}}
Vua xem xong bài biểu, đưa cho Tào Tháo, Tháo sai người đi mời Hành đến. Hành đến, lễ xong, Tháo không mời ngồi. Hành ngửng mặt lên trời than rằng:
- Giời đất rộng thế này, sao không có một người nào?
Tháo nói:
- Thủ hạ ta vài mươi người đều là anh hùng đời nay, sao bảo là không có người?
Hành nói:
- Xin cho biết.
Tháo nói:
- Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia, Trình Dục, có nhiều mưu trí, dù Tiêu Hà, Trần Bình ngày xưa vị tất đã bằng. Trương Liêu, Hứa Chử, Lý Điển, Nhạc Tiến sức khỏe không ai địch nổi, dù Xầm Bành, Mã Vũ ngày xưa chưa thấm vào đâu. Lã Kiền, Mãn Sủng làm tùng-sự; Vu Cấm, Từ Hoảng làm tiên phong; Hạ-hầu Đôn là bậc kỳ tài trong thiên hạ; Tào Hồng là vị phúc tướng trên đời. Sao dám bảo là không có người?
Hành cười, đáp rằng:
- Ông nói lầm rồi! Những nhân vật ấy, tôi biết cả: Tuân Úc nên sai đi viếng tang thăm bệnh, Tuân Du nên sai đi giữ mả coi mồ; Trình Dục nên cho đứng gác cửa ngõ; Quách Gia nên để bình phú ngâm thơ; Trương Liêu cho đi đánh trống khua chiêng, Hứa Chử cho đi chăn trâu dắt ngựa; Nhạc Tiến cho đi nhận thư đọc chiếu; Lý Điển cho đi chạy giấy đưa thư. Lã Kiền nên để mài đao đúc gươm; Mãn Sủng nên để uống rượu ăn dấm; Vu Cấm thì được việc khiêng ván đắp tường; Từ Hoảng thì giỏi về mổ lợn giết chó; Hạ-hầu Đôn thì gọi là tướng quân có đủ chân tay; Tào Hồng thì gọi là thái-thú vòi tiền; còn những đồ kia là đồ giá áo túi cơm, thùng rượu bị thịt cả.
Tháo giận hỏi:
- Mày có tài gì?
Hành đáp:
- Thiên văn, địa lý, không thứ gì không biết; tam giáo, cửu lưu<ref>Tam giáo: đạo Nho; đạo Lão; đạo Phật. Cửu lưu: nho giáo, đạo gia, âm dương gia, danh gia, mặc gia, pháp gia, tung hoành gia, tạp gia, nông gia.</ref> không thứ gì không hiểu; trên có thể giúp nhà vua làm được bậc Nghiêu, Thuấn, dưới có thể sánh đạo đức với bậc Khổng, Nhan. Ta nào thèm bàn chuyện với hạng người tầm thường đâu!
Bấy giờ Trương Liêu đứng bên cạnh, tuốt gươm toan chém Nễ Hành, Tào Tháo nói:
- Ta đương thiếu một cổ-lại (người đánh trống), nay mai trong triều có việc yến hạ nên sai Hành sung vào chức ấy.
Hành chẳng chối từ gì cả, nhận lời rồi đi ra.
Liêu hỏi Tháo:
- Người ấy nó nói xấc, sao không giết đi?
Tháo nói:
- Người ấy vốn có hư danh, gần xa đều biết, nay giết nó đi, sợ thiên hạ chê ta không biết dung người. Nó đã tự khoe khoang thế, ta bắt làm cổ-lại cho nó nhục.
Hôm sau Tháo mở tiệc yến trên sảnh đường thết các tân khách, sai cổ-lại ra đánh trống. Người cổ-lại cũ nói rằng:
- Đánh trống phải mặc áo mới.
Hành cứ mặc áo cũ đi vào, đánh ba hồi trống theo khúc Ngư-dương<ref>Tên một điệu nhạc bi đát.</ref>, âm điệu tiêu tao lắm, chìm bổng nhịp nhàng như tiếng kim tiếng thạch. Những người ngồi ăn nghe đều cảm thương chảy nước mắt.
Tả hữu quát rằng:
- Sao không thay áo?
Hành cởi tuột quần áo, khỏa thân đứng dậy, khách ngồi ai cũng che mặt. Hành lại khoan thai mặc quần áo, sắc mặt không thay đổi. Tháo mắng:
- Trên chỗ miếu đường, sao được vô lễ?
Hành nói:
- Dối vua lừa trên mới gọi là vô lễ, ta lộ cái hình của cha mẹ sinh ra là để tỏ cái thân thể thanh bạch của ta đấy!
Tháo hỏi:
- Mày là thanh bạch, thì ai là ô trọc?
Hành đáp:
- Mày không biết người hiền, người ngu là mắt đục; không học thi, thư, là mồm đục; không nghe lời trung, là tai đục; không hiểu chuyện xưa nay, là thân đục; không dung các chư hầu là bụng đục; thường muốn cướp ngôi là ruột đục. Tao là danh sĩ thiên hạ, mày dùng làm cổ-lại, khác gì Dương Hóa khinh đức Khổng-tử, Tang Thương chê thày Mạnh-tử. Mày muốn dựng nghiệp vương bá mà lại khinh người ta thế à?
Bấy giờ Khổng Dung cũng ngồi ở đó, sợ Tháo giết Nễ Hành, khoan thai tiến lên nói:
- Nễ Hành tội bằng kẻ tù đồ, không xứng đáng với lòng mong đợi người hiền của tướng công.
Tháo trỏ Nễ Hành bảo:
- Nay cho ngươi sang Kinh-châu, nếu dụ được Lưu Biểu quy hàng ta sẽ dùng ngươi làm chức công khanh.
Hành không chịu đi. Tháo sai chuẩn bị ba con ngựa, bắt hai người kèm thúc phải đi; lại sai văn võ thủ hạ đặt tiệc ở ngoài cửa đông để tiễn.
Tuân Úc dặn chúng rằng:
- Hễ thấy Nễ Hành đến, đừng ai đứng dậy.
Khi Hành đến, xuống ngựa vào chào, mọi người đều ngồi yên. Hành cất tiếng khóc hu hu. Tuân Úc hỏi:
- Cớ sao khóc?
Hành đáp:
- Đi trong đám áo quan người chết, sao lại không khóc.
Chúng đều nói:
- Chúng ta là thây chết, còn mày thì là con ma điên không đầu.
Hành nói:
- Tao là bầy tôi nhà Hán, không vào đảng với Tào man, sao chẳng có đầu?
Chúng muốn giết Hành. Úc ngăn lại nói:
- Nó như con chuột, con sẻ, giết chẳng bõ bẩn gươm.
Hành nói:
- Tao là chuột, sẻ còn có tính người. Chúng bay chỉ giống sâu bọ! (nguyên văn là khỏa trùng: con tò vò).
Chúng giận đứng dậy về cả.
Hành đến Kinh-châu vào yết kiến Lưu Biểu, miệng tuy khen ngợi đức tốt, nhưng vẫn có ý trào phúng. Biểu không bằng lòng, sai đến Giang-hạ gặp Hoàng Tổ. Có người hỏi Biểu rằng:
- Nễ Hành dám xấc đùa cợt chúa công, sao chúa công không giết đi?
Biểu nói:
- Nễ Hành nhiều lần làm nhục Tào Tháo. Tháo không giết, sợ mất lòng thiên hạ, cho nên mới sai hắn đến đây, có ý mượn tay ta giết hắn để cho ta mắc tiếng hại người hiền. Bởi vậy ta sai Hành đến gặp Hoàng Tổ, để cho Tháo biết là ta không dại gì đâu.
Mọi người đều khen phải.
Bấy giờ Viên Thiệu cũng sai sứ đến, Biểu hỏi các mưu sĩ:
- Bản-sơ sai sứ đến, Mạnh-đức cũng sai Nễ Hành đến, nên theo bên nào?
Tùng-sự trung-lang-tướng là Hàn Tung đứng dậy nói:
- Nay hai nhà ấy đang kình địch nhau, tướng quân nếu muốn làm việc lớn, nên thừa cơ xem bên nào đánh được thì đánh, nếu không bên nào giỏi thì theo. Nay Tào Tháo khéo dùng binh, người hiền tuấn theo nhiều, thế tất đánh Viên Thiệu trước, rồi đem binh quay sang Giang-đông, tôi sợ tướng quân không chống nổi. Chi bằng đem Kinh-châu hàng Tào Tháo, Tháo tất trọng đãi tướng quân.
Biểu nói:
- Người hãy đến Hứa-đô, xem động tĩnh sao đã, rồi sẽ thương nghị.
Tung nói:
- Vua tôi đều định phân rõ ràng. Nay tôi thờ tướng quân, dù tướng quân sai tôi nhảy vào nước sôi, lửa nóng, tôi không dám từ. Nếu tướng quân thực lòng trên thờ thiên tử, dưới theo Tào công thì hãy sai tôi đi. Nếu còn dùng dằng chưa quyết, một khi tôi đến kinh sư, thiên tử cho tôi một chức quan nhỏ, thì bấy giờ tôi là tôi con của thiên tử, không còn là người của tướng quân liều chết theo tướng quân nữa.
Biểu nói:
- Ngươi cứ đi. Ta đã có chủ ý.
Tung đến Hứa-đô ra mắt Tào Tháo. Tháo cho Tung làm thị-trung, lĩnh chức thái-thú ở Linh-lăng.
Tuân Úc nói:
- Thằng Tung đến đây để dò thám, chưa có công lao gì, sao đã trọng thưởng cho chức ấy? Nễ Hành chưa thấy tin tức gì, sao thừa tướng lại lờ đi không hỏi.
Tháo nói:
- Nễ Hành làm nhục ta quá, cho nên mượn tay Lưu Biểu giết nó đi, còn hỏi làm gì?
Tháo sai Hàn Tung về Kinh-châu dụ Lưu Biểu. Tung về ra mắt Lưu Biểu, xưng tụng thịnh đức triều đình, và khuyên Biểu cho con vào chầu. Biểu giận lắm, nói:
- Mày nhị tâm chăng?
Toan sai đem chém. Tung kêu to:
- Tướng quân phụ tôi, tôi có phụ tướng quân đâu!
Khoái Lương nói:
- Trước khi đi, Tung đã phân trần rõ rồi.
Lưu Biểu bèn tha cho Tung. Lúc ấy có người vào báo:
- Hoàng Tổ chém Nễ Hành rồi.
Biểu hỏi cớ làm sao, người báo thưa:
- Hoàng Tổ, Nễ Hành cùng uống rượu, hai người đều say. Tổ hỏi Hành: “Ngươi ở Hứa-đô có biết ai là người khá?” Hành đáp: “Có thằng bé nhớn là Khổng Văn-cử, thằng bé con là Dương Đức-tổ, ngoài hai đứa ấy, không có đứa nào nữa!”. Tổ hỏi: “Như ta thì thế nào?” Hành đáp: “Ngươi như tượng thần trong miếu, tuy được người ta cúng tế nhưng chẳng thiêng liêng gì!”. Tổ giận nói: “Mày bảo tao là tượng gỗ à?” rồi sai đem chém. Nễ Hành chửi Hoàng Tổ đến lúc chết không dứt mồm.
Lưu Biểu nghe tin Nễ Hành chết, cũng thương hại giờ lâu, rồi sai táng bên bãi Anh-võ.
Người sau có thơ than rằng:
{{biên trái|2em|
''<poem>
Hoàng Tổ ra chi lượng hẹp hòi,
Nễ như ngọc quý bỗng chôn vùi!
Đến nay qua viếng châu Anh-võ
Chỉ thấy vô tình nước chảy xuôi...
</poem>''
}}
Tào Tháo nghe tin Nễ Hành bị hại, cười nói:
- Gươm lưỡi của kẻ hủ nho, mình lại giết mình!
Tháo không thấy Lưu Biểu đến hàng, muốn đem ngay quân đến hỏi tội. Tuân Úc can:
- Viên Thiệu chưa dẹp được, Lưu Biểu chưa giết được, mà muốn dùng binh ở Giang, Hán, khác nào bỏ chỗ gan ruột mà chỉ nhìn đến chân tay. Nay nên diệt Viên Thiệu trước, rồi đánh Lưu Bị, còn Giang, Hán thì chỉ quét một nhát là sạch.
Tháo nghe theo.
Đây nói Đổng Thừa từ khi Huyền-đức đi, ngày đêm bàn soạn cùng lũ Vương Tử-phục nhưng không nghĩ được kế gì.
Năm Kiến-an thứ năm, (200 sau Công nguyên) nhân ngày nguyên-đán, các quan vào chầu mừng vua. Đổng Thừa thấy Tào Tháo kiêu hoạnh quá, tức giận thành bệnh. Vua biết tin có sai quan thái-y đến chữa. Quan thái-y là người Lạc-dương, họ Cát tên Thái, tự là Sưng-bình, người ta vẫn gọi là Cát-bình, là thầy thuốc giỏi lúc bấy giờ. Bình đến phủ Đổng Thừa, dùng thuốc điều trị, sớm tối không rời lúc nào. Bình thường thấy Đổng Thừa thở ngắn thở dài nhưng không dám hỏi rõ.
Gặp hôm rằm tháng giêng, Cát-bình cáo từ xin về nhà, Đổng Thừa mời ở lại, hai người cùng uống rượu. Uống đến canh khuya, Thừa mỏi mệt, cứ mặc cả áo, ngả mình xuống ngủ. Chợt thấy người báo:
- Có bọn Vương Tử-phục bốn người nữa đến.
Thừa ra đón vào.
Tử-phục nói:
- Việc lớn xong xuôi rồi!
Thừa hỏi:
- Xin cho biết đầu đuôi.
Tử-phục nói:
- Lưu Biểu kết liên với Viên Thiệu, khởi năm mươi vạn quân chia làm mười đường kéo đến, Mã Đằng kết liên với Hàn Toại, khởi quân Tây-lương bảy mươi hai vạn từ mặt bắc đánh lại. Tào Tháo đem hết cả binh mã ở Hứa-xương, chia đường ra địch, trong thành bỏ không. Nếu chúng ta họp cả gia nhân năm nhà cũng được hơn một nghìn người. Nhân đêm nay trong tướng phủ ăn tiệc to, vui tiết Nguyên-tiêu, chúng ta vây tướng phủ, xông vào giết Tào. Không nên để lỡ cơ hội này.
Thừa mừng lắm, lập tức gọi gia nhân nhặt nhạnh các đồ khí giới, tự mình mặc áo giáp, cầm giáo lên ngựa, hội ở cửa trong tướng phủ, cùng tiến binh vào. Canh hai đêm hôm ấy, các quan đều đến, Đổng Thừa tay cầm bảo kiếm đi bộ thẳng vào, thấy Tào Tháo đang ăn tiệc ở nhà sau, gọi to lên rằng: “Giặc Tháo đừng chạy!” rồi phất gươm một nhát. Tháo gục ngay xuống... Thừa mở choàng mắt dậy, thì là một giấc chiêm bao. Miệng Thừa còn lảm nhảm chửi Tào tặc.
Cát-bình đến trước mặt, hỏi:
- Ngươi muốn hại Tào công à?
Thừa sợ cứng lưỡi không nói. Cát-bình nói:
- Xin quốc-cữu yên tâm, tôi tuy là một thày thuốc, nhưng không bao giờ quên nhà Hán. Mấy hôm nay tôi thấy quốc-cữu thở than, chưa dám hỏi. Vừa rồi nghe lời nói trong mộng, biết rõ thực tình, xin đừng giấu giếm; nếu quốc-cữu có dùng được tôi vào việc gì, dù bị giết cả chín họ, tôi cũng không hối hận gì.
Thừa bưng mặt khóc:
- Chỉ sợ ngươi không có bụng thực!
Bình bèn cắn đứt một ngón tay ra để thề. Thừa đem tờ mật chiếu cho Bình xem, rồi nói:
- Nay mưu việc chưa xong, là vì Huyền-đức, Mã Đằng đi cả. Không nghĩ được kế gì, nên ta thương cảm thành bệnh.
Cát-bình nói:
- Không cần các ông phải dụng tâm, tính mệnh Tào Tháo chỉ ở trong tay tôi.
Thừa hỏi vì cớ gì. Bình nói:
- Tháo thường có bệnh nhức đầu, đau thấu xương tủy. Mỗi khi bệnh phát là gọi tôi đến chữa. Phỏng thử nay mai có gọi, chỉ cho một liều thuốc độc là nó đi đời.
Thừa hỏi:
- Nếu được như thế, cứu được xã tắc nhà Hán, đều nhờ ông cả.
Cát-bình từ giã trở về. Thừa mừng thầm, đi vào nhà trong, gặp ngay người đầy tớ là Trần Khánh-đồng đang cùng người nàng hầu là Vân Anh thì thầm nói chuyện với nhau trong xó tối.
Thừa cả giận gọi tả hữu sai đem giết cả hai người. Phu nhân can xin tha chết, chỉ đánh mỗi người bốn mươi trượng, rồi đem Khánh-đồng giam vào trong buồng lạnh.
Khánh-đồng tức lắm, nhân đêm bẻ gẫy khoá, nhẩy qua tường ra ngoài, chạy tắt ngay đến phủ Tào Tháo cáo có việc cơ mật. Tháo gọi vào trong nhà kín gạn hỏi. Khánh-đồng nói:
- Tôi thấy Vương Tử-phục, Ngô Tử-lan, Sung Tập, Ngô Thạc, Mã Đằng, năm người ở trong phủ chủ tôi, bàn việc bí mật, chắc là bày mưu hại thừa tướng. Chủ tôi đem một đoạn lụa trắng, không biết viết những gì. Mấy hôm nay Cát-bình cắn ngón tay ăn thề, tôi cũng trông thấy.
Tào Tháo giấu Khánh-đồng trong phủ. Đổng Thừa tưởng là nó trốn đi phương khác, cũng chẳng tìm bắt.
Đến hôm sau, Tào Tháo giả tảng nhức đầu, cho mời Cát-bình đến chữa thuốc.
Cát-bình nghĩ thầm: “Số thằng này đến ngày chết!”
Bèn ngầm đem một lọ thuốc độc vào phủ. Tháo nằm trên giường, sai Bình bốc thuốc. Bình nói:
- Bệnh này, thừa tướng chỉ uống một nước thuốc là khỏi.
Tháo sai đem cấp-siêu đến, sắc ngay trước mặt. Thuốc sắp cạn, Bình ngầm đổ thuốc độc vào, rồi rót ra, dâng lên. Tháo đã biết trước, cố ý chậm chạp không uống vội. Bình nói:
- Thuốc đương nóng, thừa tướng uống ngay cho ra mồ hôi thì khỏi.
Tháo đứng lên nói:
- Ngươi đã đọc sách, tất biết lễ nghĩa. Vua có bệnh uống thuốc, bầy tôi phải nếm trước; bố có bệnh uống thuốc, con phải nếm trước. Ngươi là tâm phúc với ta, sao không nếm đi?
Cát-bình nói:
- Thuốc để trị bệnh, sao lại bảo người nếm trước?
Bấy giờ Cát-bình biết là việc đã tiết lộ, bước nhanh lên trước định nắm lấy tai Tháo đè xuống để đổ thuốc vào. Tháo đẩy thuốc ra, đổ cả xuống đất, gạch đều nứt vỡ. Tháo chưa kịp nói, tả hữu đã bắt ngay Cát-bình trói lại. Tháo nói:
- Tao có đau đâu, cốt thử mày đó thôi! Mày thực có bụng hại tao!
Nói rồi gọi hai mươi người ngục tốt lực lưỡng điệu Bình ra vườn sau khảo tra. Tháo ngồi trên đình, Bình bị trói nằm dưới đất. Bình mặt mũi tươi tỉnh như thường, không hề sợ hãi. Tháo cười mà hỏi rằng:
- Thứ mày là một thằng thày thuốc, sao dám mưu hại tao? Tất nhiên có người xúi giục, hễ xưng ra thì tao tha cho.
Bình mắng:
- Mày là thằng giặc dối vua lừa trên, cả thiên hạ đều muốn giết mày, có gì một mình tao!
Tháo lại hai ba lần tra hỏi. Bình giận nói:
- Tự tao muốn giết mày, sao lại bảo có người sai tao? Nay việc đã lỡ, chỉ có chết là cùng.
Tháo giận lắm sai ngục tốt đánh thật đau. Đánh suốt hai giờ<ref>Đời trước, theo 12 chi: tý, sửu, dần, mão,... gọi cả ngày đêm là 12 giờ.</ref> nát da xé thịt, máu chảy đầy thềm. Tháo sợ đánh chết không có ai làm dối chứng, bèn sai ngục tốt đem ra chỗ tĩnh, tạm cho nghỉ ngơi.
Tháo truyền lệnh đến hôm sau mở tiệc mời các quan đến uống rượu. Hôm sau các quan đến cả duy có Đổng Thừa cáo ốm không đến. Lũ Vương Tử-phục sợ Tháo sinh nghi, đành phải có mặt. Tháo mở tiệc trong hậu đường. Rượu được vài tuần, Tháo nói:
- Trong bữa tiệc chẳng có gì làm vui, nay tôi có một người có thể làm các quan tỉnh rượu.
Liền gọi hai mươi ngục tốt:
- Điệu ra đây cho ta!
Một lát thấy Cát-bình, cổ đeo một cái gông dài, bị lính điệu đến. Tháo nói:
- Các quan không biết: người này kết liên với ác đảng, muốn làm phản triều đình, mưu hại tôi. Nay trời làm cho mưu gian của nó bại lộ, xin các quan nghe lời cung của nó.
Tháo sai đánh cho một chập, Bình nằm lịm ở dưới đất. Lính lấy nước phun vào mặt, Bình tỉnh lại trợn mắt nghiến răng mắng:
- Giặc Tháo! Không giết tao đi, còn đợi đến bao giờ!
Tháo nói:
- Trước có sáu người đồng mưu, cộng mày vào nữa là bảy, có phải không?
Bình chỉ mắng chửi rầm lên. Lũ Vương Tử-phục bốn người đưa mắt nhìn nhau, khác nào ngồi trên bàn chông. Tháo sai lính vừa đánh vừa lấy nước phun vào mặt. Bình tuyệt nhiên không mở miệng van xin. Tháo thấy không xưng, sai hãy mang đi.
Các quan tan tiệc trở về. Tháo chỉ lưu bọn Vương Tử-phục bốn người ở lại để ăn tiệc đêm. Bốn người không còn hồn vía nào nữa phải ở lại. Tháo nói:
- Đáng lẽ tôi cũng không muốn lưu bốn ông lại làm gì, nhưng có chút việc muốn hỏi. Bốn ông cùng Đổng Thừa bàn nhau những việc gì?
Tử-phục nói:
- Không có bàn việc gì cả!
Tháo lại hỏi:
- Thế trên mảnh lụa trắng, viết những cái gì?
Lũ Tử-phục đều chối. Tháo lại sai gọi Khánh-đồng ra làm chứng.
Tử-phục nói:
- Mày trông thấy ở chỗ nào!
Khánh-đồng nói:
- Các người sáu người bí mật họp một chỗ viết chữ lên mảnh lụa, chối sao được!
Tử-phục nói:
- Thằng này là đầy tớ thông dâm với nàng hầu của quốc-cữu, vì phải đòn nên tức mà vu càn cho chủ, xin thừa tướng đừng nghe.
Tháo nói:
- Cát-bình định đánh thuốc độc cho ta, phi Đổng Thừa sai nó thì còn ai?
Lũ Tử-phục đều nói là không biết.
Tháo nói:
- Bây giờ thú ngay còn có thể tha được. Nếu đợi đến việc vỡ ra thì không sao dung được nữa đâu!
Lũ Tử-phục đều nói là không có việc ấy. Tháo quát tả hữu đem bốn người bỏ ngục.
Hôm sau, Tào Tháo đem mọi người thẳng đến phủ Đổng Thừa nói là để thăm bệnh.
Thừa phải ra đón. Tháo hỏi:
- Sao đêm qua quốc-cữu không lại dự tiệc?
Thừa nói:
- Bệnh chưa được khỏi, nên không dám đi.
Tháo hỏi:
- Đó là cái bệnh lo việc quốc gia chứ gì?
Thừa giật mình. Tháo hỏi:
- Quốc-cữu có biết việc Cát-bình không?
Thừa nói không biết. Tháo cười mát nói:
- Sao quốc-cữu lại không biết?
Rồi bảo tả hữu:
- Điệu nó ra đây để chữa bệnh cho quốc-cữu.
Đổng Thừa rụng rời cả chân tay.
Được một lát, hai mươi tên ngục tốt dắt Cát-bình đến dưới thềm. Bình mắng lớn:
- Nghịch tặc Tào Tháo!
Tháo bảo Thừa:
- Cát-bình đã xưng ra bọn Tử-phục bốn người, ta đã bắt giam cả rồi, nay còn một người nữa, chưa bắt được.
Nhân hỏi Bình:
- Ai sai mày đến đánh thuốc độc cho tao, phải xưng ngay lập tức?
Bình nói:
- Trời sai tao đến giết thằng nghịch tặc!
Tháo giận thét đánh. Trên mình Cát-bình không còn chỗ nào đánh được nữa.
Thừa ngồi trông, lòng như dao cắt. Tháo lại hỏi Bình:
- Mày mười ngón tay, sao còn có chín?
Bình nói:
- Còn ngón nữa tao cắn ra để thề giết thằng quốc tặc rồi!
Tháo sai mang dao chặt nốt chín ngón tay Bình và bảo:
- Cắt cả để cho mày ăn thề!
Bình nói:
- Mất tay, ta hãy còn mồm để nuốt giặc, còn lưỡi để chửi giặc.
Tháo sai lính lấy dao cắt lưỡi.
Bình nói:
- Hãy thong thả! Chịu hình không nổi, cởi trói ra để ta xưng.
Tháo nói:
- Thả chẳng ngại gì!
Bèn sai cởi trói ra. Bình đứng dậy quay mặt về cửa khuyết, thụp xuống lạy, và nói:
- Tôi nay không giết được giặc để cứu nước, cũng là số trời.
Lạy xong, đập đầu xuống thềm mà chết. Tháo sai xé thây ra để hiệu lệnh. Bấy giờ là tháng giêng, năm thứ năm, niên hiệu Kiến-an (200).
Sử quan có thơ rằng:
{{biên trái|2em|
''<poem>
Hán triều đang vận yếu
Thầy thuốc có Sưng Bình
Lập hệ trừ gian đảng
Liều thân báo thánh minh
Cực hình không chịu khuất,
Thảm tử vẫn như sinh.
Mười ngón đầm đìa máu
Muôn thuở còn lưu danh.
</poem>''
}}
Tháo thấy Cát-bình đã chết, sai lính dẫn Khánh-đồng vào. Tháo hỏi:
- Quốc-cữu dễ cũng biết người này chứ?
Thừa giận quát lên rằng:
- Quân đầy tớ đi trốn sao lại về đây, nên đem giết đi!
Tháo nói:
- Người ấy tố cáo kẻ làm phản, nay đến đối chứng, ai dám giết?
Thừa nói:
- Sao thừa tướng lại để tai nghe lời một đứa ở đi trốn?
Tháo nói:
- Bọn Vương Tử-phục ta đã bắt cả, chúng đã cung xưng rõ ràng, mày còn chối à?
Lập tức sai tả hữu lôi Đổng Thừa xuống, cho lính vào khám xét chỗ buồng nằm, tìm được tờ mật chiếu khâu trong đai và tờ nghĩa trạng.
Tháo đọc xong, cười nói:
- Lũ chuột, sao dám làm như thế?
Rồi sai bắt cả nhà Đổng Thừa tống giam, không để cho một người nào chạy thoát.
Tháo về phủ đem tờ chiếu và tờ trạng cho các mưu sĩ xem, bàn muốn bỏ Hiến-đế, lập vua khác.
Thế thực là:
{{biên trái|2em|
''<poem>
Mấy hàng chiếu đỏ thành mơ hão
Một mảnh thư thề xảy vạ to!
</poem>''
}}
Chưa biết tính mệnh Hiến-đế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích nhỏ|vạch=có}}
t53k7v9bwtqgecyhtq3il5j9ommc8ym
141414
141413
2022-08-19T15:38:59Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 23
| trước = [[../Hồi 22|Hồi 22]]
| sau = [[../Hồi 24|Hồi 24]]
| ghi chú =
}}
{{giữa|
HỒI THỨ HAI MƯƠI BA
'''<poem>
Nễ Chính-bình khỏa thân mắng giặc
Cát thái-y đầu độc bị hình
</poem>'''
}}
Tào Tháo muốn chém Lưu Đại và Vương Trung, Khổng Dung can rằng:
- Hai người vốn không phải là địch thủ của Lưu Bị, nếu thừa tướng chém đi, tôi e mất lòng tướng sĩ.
Tháo liền tha tội, nhưng cách tuột cả chức tước và bổng lộc, và muốn tự khởi binh đến đánh Huyền-đức. Khổng Dung can rằng:
- Nay đương mùa đông, trời rét, chưa nên động binh, đợi sang xuân cũng chưa muộn. Thừa tướng nên sai người đến chiêu an Trương Tú, Lưu Biểu trước đã, rồi sau hãy tính đến Từ-châu.
Tháo nghe Khổng Dung, sai Lưu Việp đến dụ Trương Tú. Việp đến Trương-thành, trước tiên vào gặp Giả Hủ, khoe ngợi thịnh đức của Tào công. Hủ lưu Việp ở lại nhà mình, rồi hôm sau vào gặp Trương Tú, nói chuyện việc Tào công sai Lưu Việp đến chiêu an. Trong khi đang bàn chuyện, chợt báo có sứ giả của Viên Thiệu đến. Tú cho gọi vào. Sứ giả trình thư, Tú xem xong. Đó cũng là thư chiêu an. Giả Hủ hỏi:
- Mới rồi Viên tướng quân cất quân đánh Tào Tháo được thua thế nào?
Sứ giả đáp:
- Trời đông, tháng rét, còn tạm bãi binh. Nay thấy tướng quân cùng Lưu Cảnh-thăng ở Kinh-châu đều có phong độ của kẻ quốc sĩ, cho nên sai tôi lại mời.
Hủ cười, nói:
- Người về nói với Bản-sơ, anh em trong nhà còn chẳng dung được nhau, nữa là quốc sĩ thiên hạ!
Nói rồi xé vụn lá thư ngay trước mặt sứ giả rồi đuổi sứ giả về.
Trương Tú nói:
- Hiện giờ Viên khoẻ, Tào yếu; nay xé thư mắng sứ, nếu Thiệu đến đánh, thì làm thế nào?
Hủ nói:
- Không bằng theo với Tào Tháo.
Tú nói:
- Trước ta đã có thù với Tào Tháo, hắn dung sao được ta?
Hủ nói:
- Theo Tào có ba nhẽ phải: một là Tháo phụng chiếu thiên tử, đánh dẹp thiên hạ; hai là bây giờ Thiệu đương cường thịnh, ta lực bé mà đi theo, nó chẳng cho vào đâu; Tháo đương yếu được ta theo tất mạnh; ba là Tào Tháo có chí lớn mưu nghiệp bá vương tất không nghĩ đến thù riêng, để rõ đức tốt của bốn bể. Xin tướng quân đừng ngần ngại.
Tú nghe Hủ, mời Lưu Việp vào tương kiến. Việp tưng bốc thịnh đức của Tào Tháo lên, và nói:
- Nếu thừa tướng còn nhớ oán cũ, sao lại sai tôi đến đây kết hiếu với tướng quân?
Tú mừng lắm, lập tức cùng Giả Hủ đến Hứa-đô đầu hàng. Tú vào bái yết Tào Tháo, lạy ở dưới thềm. Tháo vội vàng nâng dậy, nói:
- Những lầm lỗi nhỏ, xin đừng để bụng.
Bèn phong Tú làm Dương-vũ tướng-quân, phong Giả Hủ làm chấp-kim ngô-sứ; lại sai Tú viết thư sang chiêu an Lưu Biểu. Giả Hủ đứng lên thưa:
- Lưu Biểu thích kết nạp những bậc danh lưu<ref>Người có danh vọng.</ref>, nay nên sai một danh sĩ đi, mới có thể chiêu hàng được.
Tháo hỏi Tuân Du:
- Ai đi được?
- Khổng Văn-cử có thể đi được.
Tháo lấy làm phải. Du ra gặp Khổng Dung, nói:
- Thừa tướng muốn có một danh sĩ, sung vào chức hành-nhân<ref>Chức sứ giả.</ref>, ông có nhận được chức này không?
Dung nói:
- Tôi có người bạn tên là Nễ Hành, tự là Chính-bình, tài giỏi gấp mười tôi, người ấy nếu được hầu ở bên cạnh vua, không những là sai đi sứ được và có thể sung chức hành-nhân. Nên tiến lên để thiên tử dùng.
Rồi viết ngay tờ biểu dâng thiên tử. Bài biểu như sau:
{{khối nghiêng|
“Tôi nghĩ: nước lớn ngập tràn, vua mong người giúp, tìm khắp bốn phương, mời đón những bậc hiền tuấn<ref>Bốn câu đầu, đại ý nói lúc loạn phải cần người hiền.</ref>. Xưa nay Thế-tông<ref>Chỉ Hán Vũ-đế, đời có nhiều nhân tài.</ref> kế thống, mở rộng cơ nghiệp; gặp buổi thịnh trị, mọi kẻ sĩ hưởng ứng đến giúp. Bệ hạ là bậc minh quân, vâng nối nghiệp lớn, gặp phải ách vận, lo bận suốt ngày; núi non thiêng liêng, sinh ra nhiều người lạ. Tôi trộm thấy kẻ sử sĩ ở Bình-nguyên tên là Nễ Hành, năm nay 24 tuổi, tên tự là Chính-bình, phẩm chất kiên trinh, tài năng siêu việt; theo nghề văn học, hiểu biết sâu rộng. Mắt thấy cái gì, miệng nói ngay ra được; tai nghe cái gì, bụng nhớ mãi không quên. Tính tình hợp với đạo lý, suy nghĩ như có thần minh. So với người khéo suy tính như Hoằng-dương,<ref name=a>Tang Hoằng-dương, một nhà giỏi về kế toán tài chính; Trương An-thế, một người có tài nhớ lâu, cái gì đã xem, không bao giờ quên.</ref>, người có tính cường ký như An-thế<ref name=a />, Nễ Hành chẳng thua kém gì. Trung trinh chính trực, chí khí trong sạch như tuyết sương, nghe thấy điều thiện thì giật mình tỉnh ngộ, ghét kẻ gian ác như thù địch; so với đức hạnh của Nhâm Tọa<ref name=b>Nhâm Tọa người đời Chiến quốc, làm quan nước Ngụy, tính rất trung trực, thường kể những lầm lỗi của vua nước Ngụy không hề kiêng nể. Sử Ngư đời Xuân thu, làm quan nước Vệ, liều chết can vua nước Vệ.</ref>, tiết tháo của Sử Ngư<ref name=b /> cũng không hơn được Nễ Hành. Hàng trăm chim ưng, không bằng một chim bằng. Nếu cho Hành được ở trong triều, chắc có nhiều việc tốt đẹp. Biện luận hăng hái, khí thế mạnh mẽ, có thể giải quyết được nhiều nghi vấn, và cho đi chống với địch cũng có thừa sức.
Xưa Giả Nghị<ref>Giả Nghị người đời Tây Hán, muốn sang sứ Nung-nô dụ chúa Thiền Vu.</ref> muốn đi thử tài ở cõi ngoài, toan dùng mưu mẹo bắt chúa Thiền Vu; Chung Quân<ref>Chung Quân đi sứ Nam Việt dụ được Triệu úy-đà.</ref> định lấy dải mũ dài khiên chế nước Việt; chí khí khảng khái của những người thanh niên, rất được đời trước khen ngợi; gần đây Lộ Toái, Nghiêm Tượng cũng vì có tài lạ được cất nhắc làm đại-lang; Nễ Hành có thể ví được với những người ấy. Nếu cho Nễ Hành được như rồng bay trên trời, chim vỗ cánh trên mây, nổi tiếng ở ngôi Tử vi<ref>Tên một toà sao trên trời; chỉ triều đình nhà vua.</ref>, nhả ánh sáng hồng-nghê<ref>Cầu vồng và mống.</ref>, tất có thể làm vẻ vang cho sĩ phu trong triều, và thêm sự oai nghiêm cho bốn cõi. Nơi tấu khúc quảng nhạc ở Quân-thiên<ref>Chỗ Ngọc hoàng thượng đế ở.</ref> phải có vẻ kỳ diệu; chốn cung điện nhà vua, nên có thứ báu phi thường, cũng như lũ Nễ Hành, thật là hiếm có. Những điệu hay như khúc Khích-sở<ref name=c>Tên hai khúc nhạc hay.</ref>, khúc Dương-kha<ref name=c />, đều là nghề nhạc phải chuộng; những ngựa hay như ngựa phi-thỉ, ngựa yêu-niễu, phi chạy rất nhanh đều là bọn Lương, Nhạc<ref>Tên hai người đời xưa sành xem tướng ngựa.</ref> rất cần. Dù ý kiến nhỏ mọn, tôi cũng xin bạo dạn tâu lên vua nghe. Nhà vua dùng người rất cẩn thận, xin hãy thử xem. Xin cho phép Hành là người áo vải được gọi vào bệ kiến. Nếu Hành không có tài năng gì, tôi xin cam chịu dối vua.”
}}
[[Tập tin:Mi Heng Qing portait.jpg|nhỏ|phải|Nễ Hành]]
Vua xem xong bài biểu, đưa cho Tào Tháo, Tháo sai người đi mời Hành đến. Hành đến, lễ xong, Tháo không mời ngồi. Hành ngửng mặt lên trời than rằng:
- Giời đất rộng thế này, sao không có một người nào?
Tháo nói:
- Thủ hạ ta vài mươi người đều là anh hùng đời nay, sao bảo là không có người?
Hành nói:
- Xin cho biết.
Tháo nói:
- Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia, Trình Dục, có nhiều mưu trí, dù Tiêu Hà, Trần Bình ngày xưa vị tất đã bằng. Trương Liêu, Hứa Chử, Lý Điển, Nhạc Tiến sức khỏe không ai địch nổi, dù Xầm Bành, Mã Vũ ngày xưa chưa thấm vào đâu. Lã Kiền, Mãn Sủng làm tùng-sự; Vu Cấm, Từ Hoảng làm tiên phong; Hạ-hầu Đôn là bậc kỳ tài trong thiên hạ; Tào Hồng là vị phúc tướng trên đời. Sao dám bảo là không có người?
Hành cười, đáp rằng:
- Ông nói lầm rồi! Những nhân vật ấy, tôi biết cả: Tuân Úc nên sai đi viếng tang thăm bệnh, Tuân Du nên sai đi giữ mả coi mồ; Trình Dục nên cho đứng gác cửa ngõ; Quách Gia nên để bình phú ngâm thơ; Trương Liêu cho đi đánh trống khua chiêng, Hứa Chử cho đi chăn trâu dắt ngựa; Nhạc Tiến cho đi nhận thư đọc chiếu; Lý Điển cho đi chạy giấy đưa thư. Lã Kiền nên để mài đao đúc gươm; Mãn Sủng nên để uống rượu ăn dấm; Vu Cấm thì được việc khiêng ván đắp tường; Từ Hoảng thì giỏi về mổ lợn giết chó; Hạ-hầu Đôn thì gọi là tướng quân có đủ chân tay; Tào Hồng thì gọi là thái-thú vòi tiền; còn những đồ kia là đồ giá áo túi cơm, thùng rượu bị thịt cả.
Tháo giận hỏi:
- Mày có tài gì?
Hành đáp:
- Thiên văn, địa lý, không thứ gì không biết; tam giáo, cửu lưu<ref>Tam giáo: đạo Nho; đạo Lão; đạo Phật. Cửu lưu: nho giáo, đạo gia, âm dương gia, danh gia, mặc gia, pháp gia, tung hoành gia, tạp gia, nông gia.</ref> không thứ gì không hiểu; trên có thể giúp nhà vua làm được bậc Nghiêu, Thuấn, dưới có thể sánh đạo đức với bậc Khổng, Nhan. Ta nào thèm bàn chuyện với hạng người tầm thường đâu!
Bấy giờ Trương Liêu đứng bên cạnh, tuốt gươm toan chém Nễ Hành, Tào Tháo nói:
- Ta đương thiếu một cổ-lại (người đánh trống), nay mai trong triều có việc yến hạ nên sai Hành sung vào chức ấy.
Hành chẳng chối từ gì cả, nhận lời rồi đi ra.
Liêu hỏi Tháo:
- Người ấy nó nói xấc, sao không giết đi?
Tháo nói:
- Người ấy vốn có hư danh, gần xa đều biết, nay giết nó đi, sợ thiên hạ chê ta không biết dung người. Nó đã tự khoe khoang thế, ta bắt làm cổ-lại cho nó nhục.
Hôm sau Tháo mở tiệc yến trên sảnh đường thết các tân khách, sai cổ-lại ra đánh trống. Người cổ-lại cũ nói rằng:
- Đánh trống phải mặc áo mới.
Hành cứ mặc áo cũ đi vào, đánh ba hồi trống theo khúc Ngư-dương<ref>Tên một điệu nhạc bi đát.</ref>, âm điệu tiêu tao lắm, chìm bổng nhịp nhàng như tiếng kim tiếng thạch. Những người ngồi ăn nghe đều cảm thương chảy nước mắt.
Tả hữu quát rằng:
- Sao không thay áo?
Hành cởi tuột quần áo, khỏa thân đứng dậy, khách ngồi ai cũng che mặt. Hành lại khoan thai mặc quần áo, sắc mặt không thay đổi. Tháo mắng:
- Trên chỗ miếu đường, sao được vô lễ?
Hành nói:
- Dối vua lừa trên mới gọi là vô lễ, ta lộ cái hình của cha mẹ sinh ra là để tỏ cái thân thể thanh bạch của ta đấy!
Tháo hỏi:
- Mày là thanh bạch, thì ai là ô trọc?
Hành đáp:
- Mày không biết người hiền, người ngu là mắt đục; không học thi, thư, là mồm đục; không nghe lời trung, là tai đục; không hiểu chuyện xưa nay, là thân đục; không dung các chư hầu là bụng đục; thường muốn cướp ngôi là ruột đục. Tao là danh sĩ thiên hạ, mày dùng làm cổ-lại, khác gì Dương Hóa khinh đức Khổng-tử, Tang Thương chê thày Mạnh-tử. Mày muốn dựng nghiệp vương bá mà lại khinh người ta thế à?
Bấy giờ Khổng Dung cũng ngồi ở đó, sợ Tháo giết Nễ Hành, khoan thai tiến lên nói:
- Nễ Hành tội bằng kẻ tù đồ, không xứng đáng với lòng mong đợi người hiền của tướng công.
Tháo trỏ Nễ Hành bảo:
- Nay cho ngươi sang Kinh-châu, nếu dụ được Lưu Biểu quy hàng ta sẽ dùng ngươi làm chức công khanh.
Hành không chịu đi. Tháo sai chuẩn bị ba con ngựa, bắt hai người kèm thúc phải đi; lại sai văn võ thủ hạ đặt tiệc ở ngoài cửa đông để tiễn.
Tuân Úc dặn chúng rằng:
- Hễ thấy Nễ Hành đến, đừng ai đứng dậy.
Khi Hành đến, xuống ngựa vào chào, mọi người đều ngồi yên. Hành cất tiếng khóc hu hu. Tuân Úc hỏi:
- Cớ sao khóc?
Hành đáp:
- Đi trong đám áo quan người chết, sao lại không khóc.
Chúng đều nói:
- Chúng ta là thây chết, còn mày thì là con ma điên không đầu.
Hành nói:
- Tao là bầy tôi nhà Hán, không vào đảng với Tào man, sao chẳng có đầu?
Chúng muốn giết Hành. Úc ngăn lại nói:
- Nó như con chuột, con sẻ, giết chẳng bõ bẩn gươm.
Hành nói:
- Tao là chuột, sẻ còn có tính người. Chúng bay chỉ giống sâu bọ! (nguyên văn là khỏa trùng: con tò vò).
Chúng giận đứng dậy về cả.
Hành đến Kinh-châu vào yết kiến Lưu Biểu, miệng tuy khen ngợi đức tốt, nhưng vẫn có ý trào phúng. Biểu không bằng lòng, sai đến Giang-hạ gặp Hoàng Tổ. Có người hỏi Biểu rằng:
- Nễ Hành dám xấc đùa cợt chúa công, sao chúa công không giết đi?
Biểu nói:
- Nễ Hành nhiều lần làm nhục Tào Tháo. Tháo không giết, sợ mất lòng thiên hạ, cho nên mới sai hắn đến đây, có ý mượn tay ta giết hắn để cho ta mắc tiếng hại người hiền. Bởi vậy ta sai Hành đến gặp Hoàng Tổ, để cho Tháo biết là ta không dại gì đâu.
Mọi người đều khen phải.
Bấy giờ Viên Thiệu cũng sai sứ đến, Biểu hỏi các mưu sĩ:
- Bản-sơ sai sứ đến, Mạnh-đức cũng sai Nễ Hành đến, nên theo bên nào?
Tùng-sự trung-lang-tướng là Hàn Tung đứng dậy nói:
- Nay hai nhà ấy đang kình địch nhau, tướng quân nếu muốn làm việc lớn, nên thừa cơ xem bên nào đánh được thì đánh, nếu không bên nào giỏi thì theo. Nay Tào Tháo khéo dùng binh, người hiền tuấn theo nhiều, thế tất đánh Viên Thiệu trước, rồi đem binh quay sang Giang-đông, tôi sợ tướng quân không chống nổi. Chi bằng đem Kinh-châu hàng Tào Tháo, Tháo tất trọng đãi tướng quân.
Biểu nói:
- Người hãy đến Hứa-đô, xem động tĩnh sao đã, rồi sẽ thương nghị.
Tung nói:
- Vua tôi đều định phân rõ ràng. Nay tôi thờ tướng quân, dù tướng quân sai tôi nhảy vào nước sôi, lửa nóng, tôi không dám từ. Nếu tướng quân thực lòng trên thờ thiên tử, dưới theo Tào công thì hãy sai tôi đi. Nếu còn dùng dằng chưa quyết, một khi tôi đến kinh sư, thiên tử cho tôi một chức quan nhỏ, thì bấy giờ tôi là tôi con của thiên tử, không còn là người của tướng quân liều chết theo tướng quân nữa.
Biểu nói:
- Ngươi cứ đi. Ta đã có chủ ý.
Tung đến Hứa-đô ra mắt Tào Tháo. Tháo cho Tung làm thị-trung, lĩnh chức thái-thú ở Linh-lăng.
Tuân Úc nói:
- Thằng Tung đến đây để dò thám, chưa có công lao gì, sao đã trọng thưởng cho chức ấy? Nễ Hành chưa thấy tin tức gì, sao thừa tướng lại lờ đi không hỏi.
Tháo nói:
- Nễ Hành làm nhục ta quá, cho nên mượn tay Lưu Biểu giết nó đi, còn hỏi làm gì?
Tháo sai Hàn Tung về Kinh-châu dụ Lưu Biểu. Tung về ra mắt Lưu Biểu, xưng tụng thịnh đức triều đình, và khuyên Biểu cho con vào chầu. Biểu giận lắm, nói:
- Mày nhị tâm chăng?
Toan sai đem chém. Tung kêu to:
- Tướng quân phụ tôi, tôi có phụ tướng quân đâu!
Khoái Lương nói:
- Trước khi đi, Tung đã phân trần rõ rồi.
Lưu Biểu bèn tha cho Tung. Lúc ấy có người vào báo:
- Hoàng Tổ chém Nễ Hành rồi.
Biểu hỏi cớ làm sao, người báo thưa:
- Hoàng Tổ, Nễ Hành cùng uống rượu, hai người đều say. Tổ hỏi Hành: “Ngươi ở Hứa-đô có biết ai là người khá?” Hành đáp: “Có thằng bé nhớn là Khổng Văn-cử, thằng bé con là Dương Đức-tổ, ngoài hai đứa ấy, không có đứa nào nữa!”. Tổ hỏi: “Như ta thì thế nào?” Hành đáp: “Ngươi như tượng thần trong miếu, tuy được người ta cúng tế nhưng chẳng thiêng liêng gì!”. Tổ giận nói: “Mày bảo tao là tượng gỗ à?” rồi sai đem chém. Nễ Hành chửi Hoàng Tổ đến lúc chết không dứt mồm.
Lưu Biểu nghe tin Nễ Hành chết, cũng thương hại giờ lâu, rồi sai táng bên bãi Anh-võ.
Người sau có thơ than rằng:
{{biên trái|2em|
''<poem>
Hoàng Tổ ra chi lượng hẹp hòi,
Nễ như ngọc quý bỗng chôn vùi!
Đến nay qua viếng châu Anh-võ
Chỉ thấy vô tình nước chảy xuôi...
</poem>''
}}
Tào Tháo nghe tin Nễ Hành bị hại, cười nói:
- Gươm lưỡi của kẻ hủ nho, mình lại giết mình!
Tháo không thấy Lưu Biểu đến hàng, muốn đem ngay quân đến hỏi tội. Tuân Úc can:
- Viên Thiệu chưa dẹp được, Lưu Biểu chưa giết được, mà muốn dùng binh ở Giang, Hán, khác nào bỏ chỗ gan ruột mà chỉ nhìn đến chân tay. Nay nên diệt Viên Thiệu trước, rồi đánh Lưu Bị, còn Giang, Hán thì chỉ quét một nhát là sạch.
Tháo nghe theo.
Đây nói Đổng Thừa từ khi Huyền-đức đi, ngày đêm bàn soạn cùng lũ Vương Tử-phục nhưng không nghĩ được kế gì.
Năm Kiến-an thứ năm, (200 sau Công nguyên) nhân ngày nguyên-đán, các quan vào chầu mừng vua. Đổng Thừa thấy Tào Tháo kiêu hoạnh quá, tức giận thành bệnh. Vua biết tin có sai quan thái-y đến chữa. Quan thái-y là người Lạc-dương, họ Cát tên Thái, tự là Sưng-bình, người ta vẫn gọi là Cát-bình, là thầy thuốc giỏi lúc bấy giờ. Bình đến phủ Đổng Thừa, dùng thuốc điều trị, sớm tối không rời lúc nào. Bình thường thấy Đổng Thừa thở ngắn thở dài nhưng không dám hỏi rõ.
Gặp hôm rằm tháng giêng, Cát-bình cáo từ xin về nhà, Đổng Thừa mời ở lại, hai người cùng uống rượu. Uống đến canh khuya, Thừa mỏi mệt, cứ mặc cả áo, ngả mình xuống ngủ. Chợt thấy người báo:
- Có bọn Vương Tử-phục bốn người nữa đến.
Thừa ra đón vào.
Tử-phục nói:
- Việc lớn xong xuôi rồi!
Thừa hỏi:
- Xin cho biết đầu đuôi.
Tử-phục nói:
- Lưu Biểu kết liên với Viên Thiệu, khởi năm mươi vạn quân chia làm mười đường kéo đến, Mã Đằng kết liên với Hàn Toại, khởi quân Tây-lương bảy mươi hai vạn từ mặt bắc đánh lại. Tào Tháo đem hết cả binh mã ở Hứa-xương, chia đường ra địch, trong thành bỏ không. Nếu chúng ta họp cả gia nhân năm nhà cũng được hơn một nghìn người. Nhân đêm nay trong tướng phủ ăn tiệc to, vui tiết Nguyên-tiêu, chúng ta vây tướng phủ, xông vào giết Tào. Không nên để lỡ cơ hội này.
Thừa mừng lắm, lập tức gọi gia nhân nhặt nhạnh các đồ khí giới, tự mình mặc áo giáp, cầm giáo lên ngựa, hội ở cửa trong tướng phủ, cùng tiến binh vào. Canh hai đêm hôm ấy, các quan đều đến, Đổng Thừa tay cầm bảo kiếm đi bộ thẳng vào, thấy Tào Tháo đang ăn tiệc ở nhà sau, gọi to lên rằng: “Giặc Tháo đừng chạy!” rồi phất gươm một nhát. Tháo gục ngay xuống... Thừa mở choàng mắt dậy, thì là một giấc chiêm bao. Miệng Thừa còn lảm nhảm chửi Tào tặc.
Cát-bình đến trước mặt, hỏi:
- Ngươi muốn hại Tào công à?
Thừa sợ cứng lưỡi không nói. Cát-bình nói:
- Xin quốc-cữu yên tâm, tôi tuy là một thày thuốc, nhưng không bao giờ quên nhà Hán. Mấy hôm nay tôi thấy quốc-cữu thở than, chưa dám hỏi. Vừa rồi nghe lời nói trong mộng, biết rõ thực tình, xin đừng giấu giếm; nếu quốc-cữu có dùng được tôi vào việc gì, dù bị giết cả chín họ, tôi cũng không hối hận gì.
Thừa bưng mặt khóc:
- Chỉ sợ ngươi không có bụng thực!
Bình bèn cắn đứt một ngón tay ra để thề. Thừa đem tờ mật chiếu cho Bình xem, rồi nói:
- Nay mưu việc chưa xong, là vì Huyền-đức, Mã Đằng đi cả. Không nghĩ được kế gì, nên ta thương cảm thành bệnh.
Cát-bình nói:
- Không cần các ông phải dụng tâm, tính mệnh Tào Tháo chỉ ở trong tay tôi.
Thừa hỏi vì cớ gì. Bình nói:
- Tháo thường có bệnh nhức đầu, đau thấu xương tủy. Mỗi khi bệnh phát là gọi tôi đến chữa. Phỏng thử nay mai có gọi, chỉ cho một liều thuốc độc là nó đi đời.
Thừa hỏi:
- Nếu được như thế, cứu được xã tắc nhà Hán, đều nhờ ông cả.
Cát-bình từ giã trở về. Thừa mừng thầm, đi vào nhà trong, gặp ngay người đầy tớ là Trần Khánh-đồng đang cùng người nàng hầu là Vân Anh thì thầm nói chuyện với nhau trong xó tối.
Thừa cả giận gọi tả hữu sai đem giết cả hai người. Phu nhân can xin tha chết, chỉ đánh mỗi người bốn mươi trượng, rồi đem Khánh-đồng giam vào trong buồng lạnh.
Khánh-đồng tức lắm, nhân đêm bẻ gẫy khoá, nhẩy qua tường ra ngoài, chạy tắt ngay đến phủ Tào Tháo cáo có việc cơ mật. Tháo gọi vào trong nhà kín gạn hỏi. Khánh-đồng nói:
- Tôi thấy Vương Tử-phục, Ngô Tử-lan, Sung Tập, Ngô Thạc, Mã Đằng, năm người ở trong phủ chủ tôi, bàn việc bí mật, chắc là bày mưu hại thừa tướng. Chủ tôi đem một đoạn lụa trắng, không biết viết những gì. Mấy hôm nay Cát-bình cắn ngón tay ăn thề, tôi cũng trông thấy.
Tào Tháo giấu Khánh-đồng trong phủ. Đổng Thừa tưởng là nó trốn đi phương khác, cũng chẳng tìm bắt.
Đến hôm sau, Tào Tháo giả tảng nhức đầu, cho mời Cát-bình đến chữa thuốc.
Cát-bình nghĩ thầm: “Số thằng này đến ngày chết!”
Bèn ngầm đem một lọ thuốc độc vào phủ. Tháo nằm trên giường, sai Bình bốc thuốc. Bình nói:
- Bệnh này, thừa tướng chỉ uống một nước thuốc là khỏi.
Tháo sai đem cấp-siêu đến, sắc ngay trước mặt. Thuốc sắp cạn, Bình ngầm đổ thuốc độc vào, rồi rót ra, dâng lên. Tháo đã biết trước, cố ý chậm chạp không uống vội. Bình nói:
- Thuốc đương nóng, thừa tướng uống ngay cho ra mồ hôi thì khỏi.
Tháo đứng lên nói:
- Ngươi đã đọc sách, tất biết lễ nghĩa. Vua có bệnh uống thuốc, bầy tôi phải nếm trước; bố có bệnh uống thuốc, con phải nếm trước. Ngươi là tâm phúc với ta, sao không nếm đi?
Cát-bình nói:
- Thuốc để trị bệnh, sao lại bảo người nếm trước?
Bấy giờ Cát-bình biết là việc đã tiết lộ, bước nhanh lên trước định nắm lấy tai Tháo đè xuống để đổ thuốc vào. Tháo đẩy thuốc ra, đổ cả xuống đất, gạch đều nứt vỡ. Tháo chưa kịp nói, tả hữu đã bắt ngay Cát-bình trói lại. Tháo nói:
- Tao có đau đâu, cốt thử mày đó thôi! Mày thực có bụng hại tao!
Nói rồi gọi hai mươi người ngục tốt lực lưỡng điệu Bình ra vườn sau khảo tra. Tháo ngồi trên đình, Bình bị trói nằm dưới đất. Bình mặt mũi tươi tỉnh như thường, không hề sợ hãi. Tháo cười mà hỏi rằng:
- Thứ mày là một thằng thày thuốc, sao dám mưu hại tao? Tất nhiên có người xúi giục, hễ xưng ra thì tao tha cho.
Bình mắng:
- Mày là thằng giặc dối vua lừa trên, cả thiên hạ đều muốn giết mày, có gì một mình tao!
Tháo lại hai ba lần tra hỏi. Bình giận nói:
- Tự tao muốn giết mày, sao lại bảo có người sai tao? Nay việc đã lỡ, chỉ có chết là cùng.
Tháo giận lắm sai ngục tốt đánh thật đau. Đánh suốt hai giờ<ref>Đời trước, theo 12 chi: tý, sửu, dần, mão,... gọi cả ngày đêm là 12 giờ.</ref> nát da xé thịt, máu chảy đầy thềm. Tháo sợ đánh chết không có ai làm dối chứng, bèn sai ngục tốt đem ra chỗ tĩnh, tạm cho nghỉ ngơi.
Tháo truyền lệnh đến hôm sau mở tiệc mời các quan đến uống rượu. Hôm sau các quan đến cả duy có Đổng Thừa cáo ốm không đến. Lũ Vương Tử-phục sợ Tháo sinh nghi, đành phải có mặt. Tháo mở tiệc trong hậu đường. Rượu được vài tuần, Tháo nói:
- Trong bữa tiệc chẳng có gì làm vui, nay tôi có một người có thể làm các quan tỉnh rượu.
Liền gọi hai mươi ngục tốt:
- Điệu ra đây cho ta!
Một lát thấy Cát-bình, cổ đeo một cái gông dài, bị lính điệu đến. Tháo nói:
- Các quan không biết: người này kết liên với ác đảng, muốn làm phản triều đình, mưu hại tôi. Nay trời làm cho mưu gian của nó bại lộ, xin các quan nghe lời cung của nó.
Tháo sai đánh cho một chập, Bình nằm lịm ở dưới đất. Lính lấy nước phun vào mặt, Bình tỉnh lại trợn mắt nghiến răng mắng:
- Giặc Tháo! Không giết tao đi, còn đợi đến bao giờ!
Tháo nói:
- Trước có sáu người đồng mưu, cộng mày vào nữa là bảy, có phải không?
Bình chỉ mắng chửi rầm lên. Lũ Vương Tử-phục bốn người đưa mắt nhìn nhau, khác nào ngồi trên bàn chông. Tháo sai lính vừa đánh vừa lấy nước phun vào mặt. Bình tuyệt nhiên không mở miệng van xin. Tháo thấy không xưng, sai hãy mang đi.
Các quan tan tiệc trở về. Tháo chỉ lưu bọn Vương Tử-phục bốn người ở lại để ăn tiệc đêm. Bốn người không còn hồn vía nào nữa phải ở lại. Tháo nói:
- Đáng lẽ tôi cũng không muốn lưu bốn ông lại làm gì, nhưng có chút việc muốn hỏi. Bốn ông cùng Đổng Thừa bàn nhau những việc gì?
Tử-phục nói:
- Không có bàn việc gì cả!
Tháo lại hỏi:
- Thế trên mảnh lụa trắng, viết những cái gì?
Lũ Tử-phục đều chối. Tháo lại sai gọi Khánh-đồng ra làm chứng.
Tử-phục nói:
- Mày trông thấy ở chỗ nào!
Khánh-đồng nói:
- Các người sáu người bí mật họp một chỗ viết chữ lên mảnh lụa, chối sao được!
Tử-phục nói:
- Thằng này là đầy tớ thông dâm với nàng hầu của quốc-cữu, vì phải đòn nên tức mà vu càn cho chủ, xin thừa tướng đừng nghe.
Tháo nói:
- Cát-bình định đánh thuốc độc cho ta, phi Đổng Thừa sai nó thì còn ai?
Lũ Tử-phục đều nói là không biết.
Tháo nói:
- Bây giờ thú ngay còn có thể tha được. Nếu đợi đến việc vỡ ra thì không sao dung được nữa đâu!
Lũ Tử-phục đều nói là không có việc ấy. Tháo quát tả hữu đem bốn người bỏ ngục.
Hôm sau, Tào Tháo đem mọi người thẳng đến phủ Đổng Thừa nói là để thăm bệnh.
Thừa phải ra đón. Tháo hỏi:
- Sao đêm qua quốc-cữu không lại dự tiệc?
Thừa nói:
- Bệnh chưa được khỏi, nên không dám đi.
Tháo hỏi:
- Đó là cái bệnh lo việc quốc gia chứ gì?
Thừa giật mình. Tháo hỏi:
- Quốc-cữu có biết việc Cát-bình không?
Thừa nói không biết. Tháo cười mát nói:
- Sao quốc-cữu lại không biết?
Rồi bảo tả hữu:
- Điệu nó ra đây để chữa bệnh cho quốc-cữu.
Đổng Thừa rụng rời cả chân tay.
Được một lát, hai mươi tên ngục tốt dắt Cát-bình đến dưới thềm. Bình mắng lớn:
- Nghịch tặc Tào Tháo!
Tháo bảo Thừa:
- Cát-bình đã xưng ra bọn Tử-phục bốn người, ta đã bắt giam cả rồi, nay còn một người nữa, chưa bắt được.
Nhân hỏi Bình:
- Ai sai mày đến đánh thuốc độc cho tao, phải xưng ngay lập tức?
Bình nói:
- Trời sai tao đến giết thằng nghịch tặc!
Tháo giận thét đánh. Trên mình Cát-bình không còn chỗ nào đánh được nữa.
Thừa ngồi trông, lòng như dao cắt. Tháo lại hỏi Bình:
- Mày mười ngón tay, sao còn có chín?
Bình nói:
- Còn ngón nữa tao cắn ra để thề giết thằng quốc tặc rồi!
Tháo sai mang dao chặt nốt chín ngón tay Bình và bảo:
- Cắt cả để cho mày ăn thề!
Bình nói:
- Mất tay, ta hãy còn mồm để nuốt giặc, còn lưỡi để chửi giặc.
Tháo sai lính lấy dao cắt lưỡi.
Bình nói:
- Hãy thong thả! Chịu hình không nổi, cởi trói ra để ta xưng.
Tháo nói:
- Thả chẳng ngại gì!
Bèn sai cởi trói ra. Bình đứng dậy quay mặt về cửa khuyết, thụp xuống lạy, và nói:
- Tôi nay không giết được giặc để cứu nước, cũng là số trời.
Lạy xong, đập đầu xuống thềm mà chết. Tháo sai xé thây ra để hiệu lệnh. Bấy giờ là tháng giêng, năm thứ năm, niên hiệu Kiến-an (200).
Sử quan có thơ rằng:
{{biên trái|2em|
''<poem>
Hán triều đang vận yếu
Thầy thuốc có Sưng Bình
Lập hệ trừ gian đảng
Liều thân báo thánh minh
Cực hình không chịu khuất,
Thảm tử vẫn như sinh.
Mười ngón đầm đìa máu
Muôn thuở còn lưu danh.
</poem>''
}}
Tháo thấy Cát-bình đã chết, sai lính dẫn Khánh-đồng vào. Tháo hỏi:
- Quốc-cữu dễ cũng biết người này chứ?
Thừa giận quát lên rằng:
- Quân đầy tớ đi trốn sao lại về đây, nên đem giết đi!
Tháo nói:
- Người ấy tố cáo kẻ làm phản, nay đến đối chứng, ai dám giết?
Thừa nói:
- Sao thừa tướng lại để tai nghe lời một đứa ở đi trốn?
Tháo nói:
- Bọn Vương Tử-phục ta đã bắt cả, chúng đã cung xưng rõ ràng, mày còn chối à?
Lập tức sai tả hữu lôi Đổng Thừa xuống, cho lính vào khám xét chỗ buồng nằm, tìm được tờ mật chiếu khâu trong đai và tờ nghĩa trạng.
Tháo đọc xong, cười nói:
- Lũ chuột, sao dám làm như thế?
Rồi sai bắt cả nhà Đổng Thừa tống giam, không để cho một người nào chạy thoát.
Tháo về phủ đem tờ chiếu và tờ trạng cho các mưu sĩ xem, bàn muốn bỏ Hiến-đế, lập vua khác.
Thế thực là:
{{biên trái|2em|
''<poem>
Mấy hàng chiếu đỏ thành mơ hão
Một mảnh thư thề xảy vạ to!
</poem>''
}}
Chưa biết tính mệnh Hiến-đế ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
{{chú thích nhỏ|vạch=có}}
lnf9r25wdv54hi2iub0whlcjh5dwzmf
Tam quốc diễn nghĩa/Hồi 37
0
4222
141425
141259
2022-08-19T16:35:22Z
Vinhtantran
484
wikitext
text/x-wiki
{{đầu đề
| tựa đề = [[../]]
| tác giả = La Quán Trung
| dịch giả = Phan Kế Bính
| người hiệu đính = Bùi Kỷ
| phần = Hồi 37
| trước = [[../Hồi 36|Hồi 36]]
| sau = [[../Hồi 38|Hồi 38]]
| ghi chú =
}}
{{văn|''<poem>
Tư Mã Huy hai lần tiến cử danh sĩ,
Lưu Huyền Đức ba lượt đến tận lều tranh.
</poem>''
Lại nói, Từ Thứ đi gấp đến Hứa Xương, Tào Tháo được tin, sai ngay Tuân Úc, Trình Dục và một bọn mưu sĩ ra đón.
Thứ vào tướng phủ yết kiến Tào Tháo. Tháo hỏi:
- Ông là người cao minh, cớ sao lại hạ mình thờ Lưu Bị?
Thứ nói:
- Tôi từ thuở nhỏ trốn nạn, lưu lạc giang hồ; ngẫu nhiên đến Tân Dã, bèn kết bạn với Huyền Đức. Lão mẫu ở đây, được săn sóc chu đáo, tôi cảm tạ vô cùng.
Tháo nói:
- Nay ông về đây, được sớm tối hầu hạ mẫu thân và tôi cũng được nghe lời dạy bảo.
Thứ lạy tạ trở ra, vội đến gặp mẹ, khóc lóc quỳ lạy dưới thềm. Từ mẫu thất kinh hỏi:
- Mày đâm đầu vào chốn này làm gì?
Thứ đáp:
- Gần đây, con ở Tân Dã, thờ ông Lưu Dự Châu vừa rồi tiếp được thư của mẹ, nên cấp tốc phải đến đây.
Từ mẫu giận quá, đập tay xuống bàn, mắng rằng:
- Đồ nhơ nhuốc kia! Mày trôi dạt mấy năm nay, tao tưởng học hành cũng đã khá, ai ngờ mày lại còn ngu thế! Mày đã đọc sách, nên biết trung hiếu không thể vẹn được cả đôi. Mày há lại không biết Tào Tháo là tên giặc dối trên lừa dưới à? Còn Lưu Huyền Đức nhân nghĩa lan rộng bốn bể, lại là dòng dõi nhà Hán, mày đã đi theo, chính là tìm được chủ rồi. Nay chỉ tin một mảnh thư giả, không suy xét kỹ càng, vội bỏ chỗ sáng đâm đầu vào hang tối, rước lấy tiếng xấu. Thật là đồ ngu! Tao còn mặt mũi nào trông thấy mày nữa! Thật mày bôi nhọ tổ tông, sống thừa trong khoảng trời đất vậy!
Từ Thứ nghe mẹ mắng đến nỗi cứ nằm rạp xuống đất không dám ngẩng mặt lên nữa.
Từ mẫu liền trở vào sau bình phong. Được một lát, người nhà ra báo rằng lão bà đã treo cổ tự tử ở xà nhà.
Từ Thứ vội chạy vào cứu, thì Từ mẫu đã tắt thở rồi.
Người sau có thơ khen Từ mẫu rằng:
''<poem>
Hiền thay Từ mẫu!
Tiếng thơm nghìn thuở!
Thủ tiết vẹn toàn
Tề gia đầy đủ
Dạy con phải đường
Đành mình chịu tội
Khí ngất núi non
Nghĩa đầy gan phổi
Trách mắng Tào Man
Vạc nấu chẳng ngại
Gươm chém không sờn
Chỉ sợ con mình
Bôi nhọ tổ tiên
So bà chặt khung<ref>Mẹ Mạnh Tử.</ref>
Sánh bà đâm cổ<ref>Mẹ Vương Lăng.</ref>
Sống được tiếng hay
Chết vừa đúng chỗ
Hiền thay Từ mẫu!
Tiếng thơm nghìn thuở!
</poem>''
Từ Thứ thấy mẹ chết, khóc ngất đi, giờ lâu mới tỉnh. Tào Tháo sai người đem lễ phúng đến, lại thân đến viếng.
Từ Thứ đem linh cữu mẹ táng ở gò phía nam Hứa Xương, cư tang giữ mộ. Tháo cho cái gì cũng không lấy.
Khi ấy Tào Tháo muốn bàn mưu đi đánh miền nam, Tuân Úc can rằng:
- Mùa rét, chưa nên cất quân, đợi sang xuân ấm áp sẽ hay.
Tháo nghe theo, bèn sai khơi một cái ngòi dẫn nước sông Chương Hà vào một cái ao, gọi là ao Huyền Vũ để luyện tập quân thuỷ, chuẩn bị nam chinh.
Lại nói Huyền Đức sắp sửa mang lễ vật sang Long Trung cầu Gia Cát Lượng, chợt có người báo rằng:
- Ngoài cửa có một tiên sinh mũ cao áo rộng, đạo mạo khác thường, muốn vào thăm.
Huyền Đức nói:
- Có lẽ Khổng Minh chăng?
Lập tức, mặc áo nghiêm chỉnh ra đón tiếp, nhìn xem thì đó là Tư Mã Huy, Huyền Đức mừng lắm, mời vào nhà trong, rước lên ngồi trên, rồi vái mà hỏi rằng:
- Bị từ khi xa tiên nhân, vì việc quân bận rộn lắm, chưa đến hầu được. Nay được ngài hạ cố đến đây, thật thoả lòng mong ước.
Huy nói:
- Tôi nghe Từ Nguyên Trực ở đây, nên lại thăm một chút.
Huyền Đức nói:
- Gần đây, vì bị giặc Tháo bắt giam mẹ già, lão bà có sai người mang thư sang đây gọi nên Nguyên Trực đã về Hứa Xương rồi.
Huy nói:
- Thôi, mắc mẹo Tào Tháo rồi! Tôi đã biết Từ mẫu là người rất trọng khí tiết; dù Tào Tháo có giam cầm bà ấy cũng không khi nào chịu viết thư gọi con. Thư ấy đúng là thư giả. Nguyên Trực không về thì mẹ còn sống, nay về rồi thì mẹ chắc chết.
Huyền Đức thất kinh hỏi cớ làm sao?
Huy đáp:
- Từ mẫu cao nghĩa lắm, tất hổ thẹn không muốn trông mặt con nữa.
Huyền Đức nói:
- Lúc chia tay, Nguyên Trực có tiến cử người ở Nam Dương là Gia Cát Lượng. Người đó thế nào?
Huy cười nói:
- Nguyên Trực muốn đi thì cứ đi, lại còn dắt người đó ra để làm khổ người ta.
Huyền Đức hỏi:
- Sao tiên sinh lại nói thế?
Huy nói:
- Khổng Minh cùng với Thôi Châu Bình ở Bác Lăng, Thạch Quảng Nguyên ở Dĩnh Xuyên, Mạnh Công Uy và Từ Nguyên Trực ở Nhữ Nam, bốn người kết bạn thân với nhau. Mấy người kia học hành rất chăm, duy có Khổng Minh chỉ xem những đoạn cốt yếu, thường ngồi rung đùi ngâm vịnh, rồi trỏ vào bốn người mà nói: “Các anh rồi làm quan, chỉ làm đến thứ sử, quận thú là cùng”. Họ hỏi chí Khổng Minh thế nào, Khổng Minh chỉ cười không nói, thường tự ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị ngày xưa. Tài người đó không thể nào lường được.
Huyền Đức nói:
- Sao Dĩnh Châu lắm người hiền thế?
Huy nói:
- Ngày xưa, có An Quy tài xem thiên văn, thường nói rằng: “Các vì sao tụ trên không phận đất Dĩnh”, tất đất này lắm người hiền sĩ.
Lúc ấy Vân Trường đứng bên cạnh nói:
- Tôi nghe Quản Trọng, Nhạc Nghị là hai người có tiếng ở đời Xuân thu và đời Chiến quốc, sự nghiệp lừng lẫy thiên hạ. Khổng Minh tự so sánh với hai người ấy, chẳng phải là nói quá hay sao?
Huy cười, nói rằng:
- Cứ ý tôi thì hai người ấy vị tất đã đáng so sánh với Khổng Minh. Tôi muốn so sánh Khổng Minh với hai người khác.
Quan Công hỏi hai người nào, Huy nói:
- Khổng Minh có thể so sánh với Khương Tử Nha làm nên cơ nghiệp tám trăm năm của nhà Chu và Trương Tử Phòng làm nên cơ nghiệp bốn trăm năm của nhà Hán.
Ai cũng ngạc nhiên. Huy bước xuống thềm từ biệt ra về, Huyền Đức lưu lại không được. Huy ra khỏi cửa, ngẩng mặt lên trời cười to rằng:
- Ngoạ Long tuy gặp chủ, nhưng không gặp thời, tiếc lắm thay!
Nói rồi, Huy thong dong đi thẳng.
Huyền Đức than rằng:
- Thế mới thật là hiền sĩ ẩn dật!
Hôm sau, Huyền Đức cùng với Quan, Trương và bọn tuỳ tùng đến Long Trung, nhìn về phía xa xa đã thấy mấy người đương cày bừa ở sườn núi, miệng hát rằng:
''<poem>
Giời xanh như tán lọng tròn
Đất kia chằn chặn như bàn cờ vuông
Người đời đen trắng đôi phường
Kẻ đi người lại tranh đường nhục vinh
Kẻ vinh chỉ biết mình sung sướng
Người nhục kia vất vưởng vất vơ…
Nam Dương có bậc ẩn cư
Nằm co ngủ kỹ thờ ơ việc đời.
</poem>''
Huyền Đức nghe hát, kìm ngựa gọi mấy người nông phu lại hỏi:
- Ai làm ra bài ca ấy?
Nông phu đáp:
- Bài ca ấy của Ngoạ Long tiên sinh làm ra.
Huyền Đức hỏi:
- Nhà Ngoạ Long tiên sinh ở đâu?
Nông phu đáp:
- Ở mé nam núi này, có một dãy gò cao, gọi là gò Ngoạ Long. Trước gò, trong quãng rừng thưa, có một cái lều tranh, đấy là nhà Gia Cát tiên sinh.
Huyền Đức cảm ơn, giật ngựa đi lên. Đi chưa được vài dặm, xa xa đã thấy gò Ngoạ Long, quả nhiên phong cảnh khác thường.
Đời sau đã có một bài cổ phong nói về chỗ ở của Ngoạ Long như sau:
''<poem>
Cách hai mươi dặm Tương Dương thành
Một dãy gò cao, suối lượn quanh…
Nước chảy ầm ầm phơi đá trắng
Gò cao chót vót ngất mây xanh.
Hình như rồng cuốn trên tảng đá
Phượng hoàng đậu dưới bóng thông ngả
Cửa phên khép cánh kín nhà tranh
Cao sĩ nằm khàn bền vững dạ.
Bình phong: dãy trúc um tùm lá
Bốn mùa hoa rụng nức mùi hương
Đầu giường chồng chất nhiều sách lạ
Trong nhà lui tới không người thường.
Vượn kia dâng quả gõ cửa ngoài
Hạc kia đêm thanh nghe đọc sách
Túi đàn thêu gấm gác đầu bàn
Thanh kiếm vảy rồng treo trước vách.
Tiên sinh trong lầu rất thanh nhàn
Khi nhân cày cấy cũng không can
Chỉ đợi sấm xuân tỉnh giấc mộng
Gọi to một tiếng thiên hạ an.
</poem>''
Huyền Đức đến trước trại xuống ngựa, đến gõ cửa. Có tiểu đồng ra hỏi. Huyền Đức nói:
- Tôi là hoàng thúc Lưu Bị, Hán tả tướng quân, Nghi thành đình hầu, châu mục Dự Châu, lại đây bái kiến tiên sinh.
Tiểu đồng nói:
- Tên ông dài lắm, tôi không nhớ được.
Huyền Đức nói:
- Em cứ vào nói có Lưu Bị lại hầu.
Tiểu đồng nói:
- Tiên sinh sớm hôm nay vừa đi chơi vắng.
Huyền Đức hỏi:
- Đi chơi đâu?
Tiểu đồng đáp:
- Tiên sinh tôi nay đây mai đó, không biết đi đâu.
Huyền Đức lại hỏi:
- Bao giờ tiên sinh về?
Tiểu đồng nói:
- Khi thì dăm ba bữa, khi thì mươi mười hai hôm, không biết chừng.
Huyền Đức lấy làm buồn rầu. Trương Phi nói:
- Hắn không có nhà thì về quách cho xong!
Huyền Đức nói:
- Hãy đợi một lát nữa.
Vân Trường nói:
- Không bằng hãy về, rồi sai người lại nghe tin tức.
Huyền Đức nghe theo và dặn lại em bé:
- Bao giờ tiên sinh về, em trình hộ rằng có Lưu Bị lại hầu nhé.
Nói rồi, lên ngựa đi được vài dặm, ngoảnh lại xem phong cảnh Long Trung, quả nhiên núi không cao nhưng thanh nhã, nước không sâu mà trong suốt, đất không rộng nhưng bằng phẳng, rừng không lớn nhưng rậm rạp. Vượn hạc quấn quýt, thông trúc um tùm, ngắm mãi không chán. Chợt thấy một người dung mạo hiên ngang, mặt mũi tuấn tú, đầu đội khăn tiêu diêu<ref>Như ta chít khăn đầu rìu.</ref>, mình bận áo thâm rộng, tay chống gậy gỗ lê, đương ở hẻm núi đi ra.
Huyền Đức nói:
- Đúng Ngoạ Long tiên sinh kia rồi!
Rồi vội vàng xuống ngựa bước tới thi lễ, hỏi rằng:
- Tiên sinh có phải là Ngoạ Long không?
Người ấy hỏi lại:
- Tướng quân là ai?
Huyền Đức đáp:
- Tôi là Lưu Bị.
Người đó nói:
- Tôi là bạn Khổng Minh, tên là Thôi Châu Bình ở Bác Lăng, không phải Khổng Minh đâu.
Huyền Đức nói:
- Tôi được biết đại danh của ngài đã lâu, nay may được gặp, xin ngài tạm dừng chân ở đây, dạy cho một vài điều.
Hai người lại ngồi trên phiến đá trong rừng. Quan, Trương đứng hầu bên cạnh. Châu Bình hỏi:
- Tướng quân muốn tìm Khổng Minh làm gì?
Huyền Đức đáp:
- Bây giờ thiên hạ loạn lạc, bốn phương rối ren, tôi muốn gặp Khổng Minh để tìm kế yên dân định nước.
Châu Bình cười, nói:
- Ông lấy việc dẹp loạn làm chủ yếu, thế cũng là nhân đức rồi. Nhưng từ xưa đến nay, khi yên khi loạn bất thường. Từ khi Cao tổ chém rắn khởi nghĩa, trừ được nhà Tần vô đạo, thế là hết đời loạn sang đời thái bình. Đến đời vua Ai đế, Bình đế nhà Hán đã được hơn hai trăm năm, thái bình lâu rồi, Vương Mãng thoán nghịch, thế là hết đời trị lại đến đời loạn. Về sau vua Quang Vũ trung hưng, sửa sang cơ nghiệp, thế là lại hết đời loạn sang đời trị đó. Từ bấy giờ đến nay được hai trăm năm rồi, dân hưởng thái bình đã lâu thì can qua bùng nổ, đây chính là thời kỳ từ yên đến loạn, chưa dễ bình định ngay được. Tướng quân muốn khiến Khổng Minh chuyển xoay trời đất, chắp vá càn khôn, tôi e khó lắm, chỉ uổng hơi sức mà thôi. Tướng quân chẳng nghe người ta nói: “Thuận trời thì an nhàn, trái trời thì vất vả”, “Số đã định, thì không chống lại được” hay sao?
Huyền Đức nói:
- Tiên sinh dạy thế thực là cao kiến, nhưng tôi là dòng dõi nhà Hán, phải ra tay gây dựng lại cơ nghiệp, dám đâu đổ cho số với mệnh.
Châu Bình nói:
- Tôi là người quê mùa, biết gì mà dám bàn đến việc thiên hạ. Bởi thấy ngài hỏi đến, nên cũng nói càn thế thôi.
Huyền Đức đáp:
- Cảm ơn ngài dạy cho. Nhưng không biết hôm nay Khổng Minh đi đâu?
Châu Bình đáp:
- Tôi cũng muốn vào thăm mà không biết đi đâu.
Huyền Đức nói:
- Xin mời tiên sinh về huyện chơi có được không?
Châu Bình nói:
- Tính tôi ưa đi chơi dông dài, thờ ơ với công danh đã lâu, xin để cho khi khác sẽ gặp lại nhau.
Nói xong, vái rồi đi.
Huyền Đức cùng Quan, Trương lên ngựa trở về. Trương Phi nói:
- Tìm Khổng Minh đã chẳng thấy, lại gặp ngay cái anh hủ nho này, chuyện hão lâu quá!
Huyền Đức nói:
- Đấy cũng là những lời của bậc ẩn dật đó.
Ba người về đến Tân Dã. Được vài ngày, Huyền Đức sai người đi thăm dò xem Khổng Minh đã về chưa. Một hôm, người thăm dò về báo Ngoạ Long tiên sinh đã về. Huyền Đức sai ngay người thắng ngựa. Trương Phi nói:
- Khổng Minh chỉ là một tên thôn phu quèn, hà tất đại ca phải thân đến. Cứ sai người đi gọi cũng được.
Huyền Đức mắng rằng:
- Em há không nhớ lời Mạnh Tử nói: “Muốn cầu người hiền mà không biết đạo, khác gì muốn cho người ta vào nhà mình mà lại đi đóng cửa lại”. Khổng Minh là bậc đại hiền thời nay, cho đi gọi sao được?
Bèn lại lên ngựa đến Long Trung. Quan, Trương cũng đi theo.
Bấy giờ, đang thời tiết mùa đông, khí trời rét buốt, mây xám nghịt trời. Ba người đi chưa được vài dặm, bỗng nhiên trời nổi cơn gió bấc, tuyết bay phơi phới, núi tựa ngọc gieo, rừng như bạc rắc.
Trương Phi nói:
- Giời rét, đất đóng băng, đánh nhau còn chẳng được, lại phải lận đận đi cầu người vô ích làm chi! Không bằng trở về Tân Dã, tội gì mà dầm mưa dãi tuyết thế này!
Huyền Đức nói:
- Chính ta muốn làm cho Khổng Minh biết đến lòng nhiệt thành của ta. Các em có sợ rét thì hãy về trước.
Phi nói:
- Chết còn chẳng ngại, ngại chi rét! Chỉ sợ đại huynh vất vả uổng công thôi!
Huyền Đức nói:
- Em chớ nói nhiều lời, hãy theo ta đi!
Gần đến nhà tranh, chợt nghe thấy tiếng ca trong một quán rượu bên cạnh đường. Huyền Đức dừng ngựa lại nghe, lời ca rằng:
''<poem>
Công danh tráng sĩ muộn thay!
Than ôi, lâu chẳng gặp ngày dương xuân!
Ngươi chẳng thấy lão nhân Đông Hải
Lìa bụi gai theo với vua Văn
Chư hầu bát bách lai thần
Gặp điềm cá trắng Mạnh Tân sang đò.
Mục Xã một trận đánh to
Công danh lừng lẫy ai so được tày?
Cao Dương lại có thầy hay rượu
Vái Cao hoàng theo điệu làm tôi
Bàn mưu vương bá kỳ tài
Lọt tai cũng phải mời ai lên ngồi
Thành Tề, hạ bảy mươi hai
Thế gian há dễ mấy ai nối mình?
Hai người công tích rành rành
Đến nay ai bảo là anh hùng nào?
</poem>''
Một người hát xong, người khác lại tiếp luôn.
Lời ca rằng:
''<poem>
Vua ta vung lưỡi gươm dẹp loạn,
Gây cơ đồ Hán bốn trăm năm,
Đời Hoàn, Linh vận lửa tắt ngấm,
Gian thần tặc tử tay cầm quyền to.
Chốn ngự toạ rắn bò điềm gở,
Nơi ngọc đường cầu mộng yêu ma,
Bốn phương trộm giặc đổ ra,
Gian hùng lũ lượt theo đà múa may.
Chúng ta chỉ vỗ tay nói tếu,
Buồn ra hàng chén rượu cho vui.
Một mình sung sướng thảnh thơi,
Chẳng cầu tiếng để muôn đời làm chi!
</poem>''
Hai người hát xong, vỗ tay cười ầm lên. Huyền Đức nói:
- Có lẽ Ngoạ Long ở trong này.
Liền xuống ngựa bước vào, thấy hai người đương dựa bàn, đối nhau uống rượu; một người mặt trắng râu dài, một người mặt mũi khôi ngô. Huyền Đức vái, rồi hỏi:
- Thưa hai ông, ông nào là Ngoạ Long tiên sinh?
Người râu dài hỏi lại:
- Ông là ai, tìm Ngoạ Long làm gì?
Huyền Đức đáp:
- Thưa tôi là Lưu Bị, muốn tìm tiên sinh để cầu mưu giúp đời yên dân.
Người râu dài nói:
- Chúng tôi không phải là Ngoạ Long mà là bạn Ngoạ Long đấy thôi. Tôi là Thạch Quảng Nguyên ở Dĩnh Châu; ông này là Mạnh Công Thành ở Nhữ Nam.
Huyền Đức mừng, nói:
- Tôi được biết đại danh của hai tiên sinh đã lâu, nay được bái yết, thực là may quá. Nhân tôi có mang theo cả ngựa, xin mời hai tiên sinh cùng đến nhà Ngoạ Long với tôi.
Quảng Nguyên nói:
- Chúng tôi là bọn quê mùa, chẳng biết đâu đến những việc trị nước yên dân, xin đừng bận lòng hỏi chúng tôi những việc ấy. Mời ông cứ lên ngựa đi tìm Ngoạ Long.
Huyền Đức từ giã hai người rồi lên ngựa đi thẳng đến Ngoạ Long Cương. Tới trước nhà, gõ cửa, hỏi tiểu đồng:
- Hôm nay, tiên sinh có nhà không?
Tiểu đồng đáp:
- Đang ngồi trên nhà xem sách.
Huyền Đức mừng lắm, theo ngay tiểu đồng đi vào. Đến cửa giữa, nhìn thấy câu đối:
''<poem>
Đạm bạc dĩ minh chí,
Ninh tĩnh nhi chí viễn.<ref>Thanh đạm để sáng chí,
Yên lặng mà đi xa.</ref>
</poem>''
Huyền Đức đương xem câu đối, lại nghe có tiếng ngâm thơ, vội vàng đứng nép bên cạnh cửa nhòm vào thấy trên nhà tranh, có một thanh niên ngồi ôm gối, sưởi cạnh hoả lò mà hát rằng:
''<poem>
Phượng bay cao, khi ngô đồng không đỗ,
Sĩ ẩn mình, phi minh chủ không thờ.
Nông thôn vui thú cày bừa,
Thảnh thơi đàn sách đợi cơ chuyển vần.
</poem>''
Huyền Đức đợi hát xong mới bước lên thềm vái chào, nói:
- Bị lâu nay hâm mộ tiên sinh, chưa được dịp nào bái kiến. Mới đây được Từ Nguyên Trực tiến cử, vội đến tiên trang; rủi phải về không; nay xông pha mưa gió đến đây, được chiêm ngưỡng tôn nhan, thật may mắn quá!
Người thanh niên vội đáp lễ, nói:
- Tướng quân có phải là Lưu Dự Châu đến tìm anh tôi không?
Huyền Đức ngẩn người, hỏi rằng:
- Thế ra tiên sinh cũng không phải Ngoạ Long sao?
Người thanh niên đáp:
- Tôi là Gia Cát Quân em Ngoạ Long; chúng tôi ba anh em; anh cả là Gia Cát Cẩn, hiện đương làm mạc tân bên Tôn Trọng Mưu ở Giang Đông; Khổng Minh là anh thứ hai tôi.
Huyền Đức hỏi:
- Ngoạ Long hôm nay có nhà không?
Quân đáp:
- Hôm qua vừa có Thôi Châu Bình đến rủ đi chơi rồi.
Huyền Đức hỏi đi chơi đâu, Quân nói:
- Khi thì bơi chiếc thuyền nhỏ chu du trên sông; khi thì thăm hỏi các nhà sư trên núi; khi thì tìm anh em bạn ở chốn hương thôn; khi thì vui gảy đàn, đánh cờ trong hang núi. Anh tôi đi, ở bất thường không biết đâu mà tìm.
Huyền Đức nói:
- Tôi thực là duyên mỏng phận hèn, hai phen đi đều không được gặp đại hiền!
Quân nói:
- Mời ngài hãy thư thả ngồi chơi xơi nước.
Trương Phi nói:
- Tiên sinh ấy đã đi vắng, xin đại huynh lên ngựa về thôi.
Huyền Đức nói:
- Ta đã cất công đến đây, chẳng lẽ không bày tỏ một đôi lời.
Lại hỏi Gia Cát Quân:
- Tôi nghe nói lệnh huynh Ngoạ Long tiên sinh tinh thông thao lược, mài miệt binh thư có phải không?
Quân nói:
- Tôi không được biết.
Trương Phi nói:
- Hỏi người ta làm gì! Mưa to gió lớn, đại huynh đi về cho sớm!
Huyền Đức mắng át đi. Quân nói:
- Anh tôi đi vắng, không dám lưu ngựa xe ở lại lâu, xin để khi khác đáp lễ.
Huyền Đức nói:
- Tôi đâu dám mong tiên sinh hạ cố. Vài hôm nữa Bị sẽ đến hầu. Hôm nay nhân đây, xin tiên sinh cho mượn bút giấy, tôi viết bức thư để lại, nhờ chuyển đến lệnh huynh, để tỏ ý ân cần của tôi.
Quân đưa bút mực ra. Huyền Đức viết một bức thư như sau:
''“Bị tôi lâu nay hâm mộ cao danh, đã hai lần đến yết kiến đều không được gặp phải trở về, ân hận vô cùng.''
''Tôi trộm nghĩ mình là dòng dõi nhà Hán, lạm hưởng danh tước, mà nay trông thấy triều đình suy sụp, kỷ cương rối ren, gian hùng loạn nước, giúp dân, nhưng kém tài kinh luân, cho nên mong ngóng tiên sinh mở lòng nhân từ trung nghĩa, đứng ra trổ hết tài lớn của Lã Vọng, thi thố hết kế lạ của Tử Phòng, thì thiên hạ may lắm! Xã tắc may lắm!''
''Nay trước có mấy lời bày tỏ với tiên sinh, Bị xin về tắm gội ăn chay, đến bái tôn nhan một lần nữa, để giãi lòng quê kệch, xin tiên sinh soi xét cho”.''
Huyền Đức viết thư xong, đưa gửi Gia Cát Quân rồi từ biệt ra về. Quân tiễn ra tận cửa; Huyền Đức còn ân cần, dặn đi dặn lại đôi ba lần.
Huyền Đức vừa lên ngựa sắp đi, thì thấy tiểu đồng đứng ngoài bờ rào vẫy tay nói:
- Lão tiên sinh đã đến!
Lưu Bị nhìn ra thấy bên phía tây chiếc cầu nhỏ, có một người đội mũ ấm trùm đầu, mặc áo hồ cừu, cưỡi con lừa, theo sau một tiểu đồng mặc áo xanh đi hầu, tay xách một bầu rượu, đương rẽ tuyết đi lại, qua cái cầu nhỏ đang ngâm một bài thơ:
''<poem>
Một đêm gió lạnh lùng,
Muôn dặm mây đỏ ối.
Bời bời hoa tuyết bay,
Nước non hình sắc đổi,
Ngẩng mặt trông trên trời,
Tưởng là rồng ngọc chọi,
Vây mai tua tủa bay,
Một lát khắp bốn cõi,
Cưỡi lừa qua cầu con,
Than vì mai gầy cỗi.
</poem>''
Huyền Đức nghe ngâm xong, nói rằng:
- Đây hẳn là Ngoạ Long rồi!
Rồi nhảy xuống ngựa, bước tới chào, nói:
- Tiên sinh xông pha rét mướt, nhọc mệt lắm nhỉ? Bị này đợi mãi tiên sinh.
Người ấy vội xuống lừa, đáp lễ. Gia Cát Quân ở đằng sau nói:
- Đây là Hoàng Thừa Ngạn, ông nhạc anh tôi đó, không phải Ngoạ Long đâu.
Huyền Đức nói:
- Vừa rồi nghe câu thơ ngài ngâm rất cao nhã.
Thừa Ngạn nói:
- Nhân lão phu xem bài “Lương phủ ngâm” ở nhà con rể có nhớ được một đoạn. Nay qua cầu nhỏ, chợt thấy cây hoa mai bên rào, nên sực nhớ lại đọc chơi, không ngờ quý khách nghe thấy.
Huyền Đức nói:
- Ngài đã gặp lệnh tế chưa?
Thừa Ngạn đáp:
- Lão cũng đương đến tìm Ngoạ Long đây.
Huyền Đức nghe xong, từ biệt Hoàng Thừa Ngạn, rồi cưỡi ngựa về. Đang cơn mưa tuyết dữ dội, Huyền Đức vừa đi vừa ngoảnh lại ngắm gò Ngoạ Long, buồn rầu không biết ngần nào.
[[Tập tin:Romance of the Three Kingdoms at Long Corridor 1.JPG|nhỏ|giữa|500px|Ba lượt đến lều tranh]]
Đời sau có thơ vịnh cảnh đương cơn mưa tuyết, Huyền Đức đến thăm Khổng Minh rằng:
''<poem>
Xông pha mưa gió kiếm hiền tài,
Lững thững về suông dạ cảm hoài…
Chi chít khe cầu hoa tuyết đóng,
Lạnh lùng yên ngựa dặm đường dài,
Chạm đầu lả tả hoa lê rụng,
Vướng mặt tơi bời hoa liễu rơi.
Ngoảnh cổ dừng roi nhìn chốn cũ.
Chói loà ánh bạc Ngoạ Long phơi.
</poem>''
Từ khi Huyền Đức về Tân Dã, ngày tháng thấm thoát đã sang xuân mới, liền sai người đem cỏ thi ra bói, kén chọn ngày tốt, ăn chay ở sạch ba ngày, tắm gội hun hương, thay quần đổi áo, rồi sang gò Ngoạ Long yết Khổng Minh.
Quan, Trương được tin cũng phát chán, kéo nhau vào can. Thế là:
''<poem>
Cao hiền chưa phục anh hùng giỏi,
Khiêm tốn làm cho hào kiệt nghi.
</poem>''
Chưa biết chuyện ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.
}}
{{chú thích cuối trang}}
qau3bjhmia6t3x3739heex62fgejczd
Kinh Cải Tội Bảy Mối
0
7522
141428
140222
2022-08-20T10:19:25Z
2001:EE0:4FB2:CC0:D42B:9E6F:47A8:106B
wikitext
text/x-wiki
{{Chất lượng vk|50%}}{{đầu đề
| tựa đề = Kinh Cải Tội Bảy Mối
| tác giả = không rõ
| dịch giả =
| năm =
| phần =
| trước =
| sau =
| ghi chú =
}}
<poem>Cải tội bảy mối có bảy đức:
Thứ nhất: Khiêm nhường, chớ kiêu ngạo.
Thứ hai: Rộng rãi, chớ hà tiện.
Thứ ba: Giữ mình sạch sẽ, chớ mê dâm dục.
Thứ bốn: Hay nhịn, chớ hờn giận.
Thứ năm: Kiêng bớt chớ mê ăn uống.
Thứ sáu: Yêu người chớ ghen ghét.
Thứ bảy: Siêng năng việc Đức Chúa Trời, chớ làm biếng.
</poem>
[[Thể loại:Kinh Kitô giáo]]
g6jon09p21692m2inbjewbl0i8cpifs
Trang:Xu Bac ky ngay nay.pdf/9
104
23462
141426
70806
2022-08-19T16:38:54Z
LMQ2401
3550
proofread-page
text/x-wiki
<noinclude><pagequality level="4" user="Tranminh360" />{{rh|||13}}
{{rule}}{{rule}}</noinclude>đèn điện, như là Hanoi, Haiphòng, Lao-kay, Bắc-ninh, Nam-định, Hà-đông, Doson, Hongay. Những nơi chưa có đèn điện thì có nhiều những nhà máy dùng máy sinh-điện để cử động các thứ cơ khí, như là: máy in, máy cưa, máy ép dầu, các sưởng thợ tiện cùng các sở làm máy v. v.
[[File:Phố Hàng Đào, la rue de la soie, Ha Noi, 1920s.jpg|thumb|La rue de la soie|thumb|giữa|500px|{{rh|''Xứ Bắc-kỳ đương buổi tiến hành.''||Phố hàng Đào Hanoi.}}]]
[[File:Pho an nam.png|thumb|phải|350px|{{rh|''Một nước thịnh-hành là nhờ về sự<br/>trật-tự và cuộc trị-an.''||Một phố An-nam tại Hanoi.}}]]
Nhờ có xe-lửa thì vừa đi được xa, vừa không tổn mấy chút lộ-phí, lại đỡ sự mệt nhọc. Nhưng hạt nào không có xe-lửa thì có ô-tô để trở hành-khách. Ngày nay nhiều người bản-xứ có ô-tô riêng, vả lại có<noinclude></noinclude>
f5eb13zq4tmuyrazvuyb5n68k1x5p8s