Núi Bà Nà
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Núi Bà Nà là một trong những núi đẹp nhất Đà Nẵng.
Mục lục |
[sửa] Vị trí
Núi thuộc huyện Hòa Vang, cách Đà Nẵng 40 km về phía tây nam.
[sửa] Lịch sử
Núi Bà Nà được một sĩ quan quân đội Pháp, Debay, phát hiện vào tháng 4 năm 1901. Nhưng mãi đến năm 1912, khi toàn quyền Đông Dương ra nghị định biến Bà Nà thành một khu bảo tồn lâm nghiệp thì việc nghiên cứu rặng núi này mới được đẩy mạnh. Kết quả: tháng 7 năm 1919, luật sư Beisson trở thành người đầu tiên xây dựng nhà nghỉ ở Bà Nà.
[sửa] Đặc điểm
Núi cao 1.482 m (không phải 1.350 m như Debay đo được lúc mới phát hiện). Bà Nà có những giá trị sinh thái và du lịch to lớn, rặng núi này có chế độ khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ khoảng 11-25o C. Càng lên cao, nhiệt độ càng giảm và độ ẩm càng tăng.
Hệ thực vật đa dạng và độc đáo với khoảng 136 họ, 379 chi và hơn 543 loài (có 251 loài cây thuốc).
Hệ động vật: 256 loài động vật có xương sống (61 loài thú, 178 loài chim và 17 loài bò sát). Có nhiều loài thực vật, động vật hiếm quý cần được bảo vệ như trầm hương, gụ lậu, sến mặt, thông chàng, trĩ sao, gấu đen châu á, vượn má hung... Bà Nà có nhiều khu rừng nguyên sinh được phân bổ theo các sườn dốc khá hiểm trở.