Thuế thân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thuế thân hay thuế đầu người là thuế đánh trên đầu người tức là khoản thu bắt buộc theo luật định tính trên mỗi con người có sức lao động theo hạn tuổi ( thời phong kiến thường chỉ tính nam giới còn gọi là thuế đinh). Đây là nguồn thu quan trọng của nhiều quốc gia trong lịch sử. Hầu như bất cứ ai, đủ tuổi, đều phải đóng một mức thuế như nhau cho nhà nước, có thể nói thuế thân hay thuế đinh là thứ thuế có tính chất công bằng theo chiều ngang cực cao. Ngày nay thuế thu nhập cá nhân có điều chỉnh dựa trên thu nhập của từng cá nhân cũng là một dạng của thuế thân đánh trên đầu người nhưng có tăng thêm tính công bằng theo chiều dọc tùy theo khả năng đóng thuế của từng cá nhân.
[sửa] Việt Nam
Trong lịch sử Việt Nam, thuế thân là một loại thuế có từ thời Nhà Trần
- Nhà Trần: Theo Đại Việt sử ký toàn thư quyển VIII thì Theo lệ cũ, các trấn hễ có việc binh thì lệnh cho mỗi huyện có bao nhiêu ruộng thì phải nộp bao nhiêu vàng, bạc, tiền, lụa, không tính thêm theo số nhân đinh sinh ra, cũng không trừ bớt theo số người đã chết. Nếu phục dịch việc binh, thì đều thu bổ theo số ruộng cả. Các lộ có đơn binh , là phải phục dịch việc binh, những người này đời đời làm lính, không được ra làm quan. Người nào có ruộng, bãi dâu, đầm cá thì phải đóng thuế, không có thì thôi. Như vậy trước đó chưa có thuế thân, nhưng đến tháng 7 năm Mậu Ngọ (năm 1378) đời vua Phế Đế nhà Trần, Hành khiển Đỗ Tử Bình bắt chước phép đánh thuế dung của nhà Đường tâu Vua thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền một năm do kho tàng trống rỗng vì chiến tranh với Chiêm Thành. Vua Phế Đế nghe theo. Thuế thân ở Việt Nam sinh ra từ đây , thuế má lại càng nặng thêm.[1]
- Nhà Hồ:
- Nhà Lê:
- Nhà Nguyễn:sau khi lên ngôi vua Gia Long định lại việc thu thuế:
- Thuế suất:
Thuế đinh thì lệ định theo vùng : từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền. Mân tiền 1 tiền. Cước mễ 2 bát. Ở 5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền. Mân tiền 1 tiền. Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền. Cước mễ 2 bát. Ở 6 ngoại trấn Bắc Thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu: Thuế thân 6 tiền. Mân tiền 1 tiền. Điệu tiền 3 tiền. Cước mễ 1 bát
-
- Giảm thuế khi có thiên tai:
Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v.v... thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt hại tới 4 phần thì khoan giảm cho hai phần thuết; thiệt hại 5 phần thì giảm cho 3; thiệt hại 6 phần thì giảm cho 4; thiệt hại 7 phần thì giảm cho 5; thiệt hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt hại 9 phần thì giảm cho 7; thiệt hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy dân đinh đi làm đường, đào sông, xây thành v.v... thì cũng được giảm thuế.
-
- Thu thuế: theo vụ
Vụ thuế: Nhà vua lại tùy từng địa phương mà định vụ thuế. Từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 thì hết. Từ Nghệ An ra đến Thanh Hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc thành mỗi năm thu thuế 2 vụ: mùa hạ thì khởi tự tháng 4 đến tháng 6 thì hết; mùa đông thì khởi sự tự tháng 10 đến tháng 11 thì hết.
-
- Kê khai:
Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải khai vào sổ.
-
- So sánh mức thuế: để biết mức thuế thân thời đó có thể so sánh với thuế điền như :Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng
- So sánh thu nhập:Năm kỷ hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên. Chánh nhất phẩm:tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục 70 quan. Tòng nhất phẩm: tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân phục 60 quan. Chánh nhị phẩm:tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân phục 50 quan. Tòng nhị phẩm: tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân phục 30 quan. Chánh tam phẩm:tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền xuân phục 20 quan. Tòng tam phẩm: tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền xuân phục 16 quan. Chánh tứ phẩm:tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân phục 14 quan. Tòng tứ phẩm: tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền xuân phục 10 quan. Chánh ngũ phẩm:tiền 40 quan, gạo 43 phương, tiền xuân phục 9 quan. Tòng ngũ phẩm: tiền 35 quan, gạo 30 phương, tiền xuân phục 8 quan. Chánh lục phẩm:tiền 30 quan, gạo 25 phương, tiền xuân phục 7 quan. Tòng lục phẩm: tiền 300 quan, gạo 22 phương, tiền xuân phục 6 quan. Chánh thất phẩm:tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan. Chánh bát phẩm:tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 5 quan. Tòng bát phẩm: tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 4 quan. Chánh cửu phẩm:tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan. Tòng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan. Lại dịch binh tượng: mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương. Hậu bổ: mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương. [1]
- Thực dân Pháp tiếp tục áp dụng thuế thân ở Việt Nam trước năm 1945. Thuế thân dưới thời Pháp thuộc đánh vào các "suất đinh", là đàn ông từ 13 đến 53 tuổi, trừ những người làm trong bộ máy chính quyền và một số trường hợp được miễn khác. Theo thống kê vào những năm 1890, thuế thân trung bình khoảng 5 đồng bạc Đông Dương/đinh, trong khi thu nhập bình quân trên đầu người chỉ khoảng 2 đồng.
Một số người, trong đó có những nhân vật chống chế độ thuộc địa Pháp, cho rằng thuế thân thể hiện sự vô nhân đạo và phỉ báng giá trị con người. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã bãi bỏ thuế thân ngay sau khi thành lập (2 tháng 9 năm 1945).
[sửa] Chú thích
Thể loại: Stub | Phong kiến | Thuế