Rối loạn nhịp tim
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Rối loạn nhịp tim | ||
---|---|---|
Mã ICD-10: | I47-I49 | |
Mã ICD-9: | 427.9 |
Rối loạn nhịp tim (tiếng Anh: Cardiac arrhythmia) là tên gọi chung một số bệnh trạng do nhịp tim bị rối loạn bất bình thường. Tùy theo nhẹ hay nặng, những bệnh này có thể chỉ gây chóng mặt, đánh trống ngực nhưng cũng có thể làm làm bất tỉnh hay chết người.
Mục lục |
[sửa] Sơ lược về hệ thống điện tim
Tim người có 4 phần hỗng để chứa và bơm máu. Hai phần nhỏ ở phía trên gọi là tâm nhĩ (vì trông giống lỗ tai). Hai phần dưới lớn hơn gọi là tâm thất. Máu theo tĩnh mạch từ cơ thể trở về tâm nhĩ trái, từ phổi trở về tâm nhĩ phải. Tâm nhĩ trái bóp bơm máu vào thâm thất trái, tâm nhĩ phải đưa máu vào thâm thất phải. Sau đó tâm thất phải bóp để bơm máu theo động mạch lên phổi, và tâm thất trái bóp để bơm máu xuống cơ thể. Tim có khả năng hoạt động đều đặn và thứ tự như thế là nhờ một hệ thống các tế bào dẫn điện đặc biệt nằm trong cơ tim.
Trong tâm nhĩ bên phải có một hạch - gọi là nút xoang nhĩ (SA, sinoatrial) - gồm các tế bào có khả năng tự tạo xung điện (electric impulse). Xung điện này truyền ra các cơ chung quanh làm co bóp hai tâm nhĩ (tạo nên sóng P trên điện tâm đồ). Sau có dòng điện tiếp tục truyền theo 1 chuỗi tế bào đặc biệt tới một hạch khác gọi là nút nhĩ thất (AV, atrioventricular) nằm gần khu giáp giới giữa các thất rồi theo chuỗi tế bào sợi Purkinje chạy dọc theo tường chia hai tâm thất lan vào các cơ chung quanh (loạt sóng QRS); làm hai thất này co bóp. Sau đó xung điện giảm đi,tân thất trương ra lúc tim nghỉ (tạo nên sóng T).
Nếu có thay đổi bất thường ở bất cứ một phần nhỏ nào của hệ thống trên, điện sẽ bị xáo trộn, lan theo những hướng ngược hay không đúng thứ tự, làm co giật các cơ của các thất không đồng đều - gây nên rối loạn nhịp tim.
[sửa] Hiện tượng loạn nhịp do điện vào lại
Một trong những cách để giải thích loạn nhịp là hiện tượng điện vào lại (re-entry).
Khi vì một bất thường nào đó, có một vết thẹo (hình: màu vàng) nằm trên chuỗi tế bào dẫn điện, dòng điện (hình: màu đỏ) bị chia hai ngã. Thông thường, hai dòng điện này hợp lại sau vết thẹo và tiếp tục lan truyền như bình thường. Nếu, một trong hai ngã này có một khúc bị chậm lại( hình: màu xám), điện từ dòng bên kia có khả năng chạy ngược lên và cản lại, tiếp theo đó sẽ chạy vòng lại, cản luôn xung điện bình thường kế tiếp, rồi tiếp tục chạy vòng tạo nhịp nhanh.
[sửa] Phân loại
Rối loạn nhịp tim có thể chia theo nhiều hình thức: nhanh (tachycardia) hay chậm (bradycardia), nguồn rối loạn từ trên thất (supraventricular, tâm nhĩ và nút nhĩ thất) hay từ thất (ventricular). Có nhiều trung tâm chia theo dạng bộ sóng QRS - hẹp (thường là loạn nhịp trên thất) hay rộng (loạn nhịp thất).
[sửa] Các rối loạn nhịp trên thất
[sửa] Rung nhĩ
(AF - Atrial Fibrillation)
- Rung nhĩ (RN) là rối loạn dòng điện trong tâm nhĩ làm co giật cơ thành dạng rung nhanh và không đều. Phần lớn do điện chạy ngược trở lên từ tâm thất hay do điện bị cản và dội lại.
- Những yếu tố liên hệ:
- tuổi: trên 60 4%, trên 80 10%
- kinh niên: bệnh van tim, tăng huyết áp, lớn tâm thất trái, bệnh động mạch vành tim, suy tim, đái tháo đường
- cấp tính: thuyên tắc phổi (máu đông làm nghẽn mạch phổi), mổ tim, nhồi máu cơ tim, viêm vỏ tim, tăng giáp trạng, quá liều rượu, xài thuốc kích thích mạnh (cocaine, amphetamine)
- Triệu chứng: Khi bị rung nhanh tâm nhĩ sẽ không co bóp được bình thường, do đó sẽ không bơm đủ lượng máu vào tâm thất. Lượng máu tim bơm ra cơ thể sẽ giảm đem đến những triệu chứng chóng mặt, khó thở, xỉu (bất tỉnh), mệt mỏi. Điện xáo trộn trong tâm nhĩ truyền xuống tâm thất làm hai thất này co bóp nhanh (tạo đánh trống ngực), sau đó khi tim thiếu máu tiếp tế sẽ làm tức ngực.
- Biến chứng nguy hiểm: Khi máu không được bơm sự di chuyển trì trệ sẽ dễ làm đông máu trong tâm nhĩ. Cục máu đông có thể rời tim, theo động mạch lên não gây chứng tai biến mạch máu não. Ngoài ra, khi tim đập nhịp nhanh trong khi thiếu máu tiếp tế sẽ có thể bị nhồi máu cơ tim. Khi tim yếu đi gây ra hiệu chứng suy tim.
- Chẩn đoán: nhịp tim nhanh, mạch nhẩy không đều về nhịp lẫn cường độ, điện tâm đồ, xét nghiệm máu để tìm nguyên nhân (rối loạn hóa học máu, tăng giáp trạng, v.v...) .
Chú ý: Bệnh nhân trẻ tuổi và không có nguyên nhân rõ rệt, cần phủ định chứng thuyên tắc phổi.
- Điều trị [1]:
- Bệnh phát lần đầu tiên và trong vòng 7 ngày: thuốc có thể sử dụng gồm quinidine, procainamide, flecainide, propafenone, amiodarone.
- Bệnh phát lần đầu tiên hơn 7 ngày: thuốc có thể sử dụng gồm ibutilide.
- Rung nhĩ kinh niên: thuốc có thể sử dụng gồm propafenone, amiodarone, dofetilide.
- Sốc điện: "an toàn và hiệu quả nhất". Theo một báo cáo tại việt Nam, tỷ lệ điều hòa nhịp tim thành công bằng sốc điện là 90% [2]. "Sốc điện là phương thức điều trị nên chọn khi bệnh chứng không ổn" [3]. Tuy trong một tháng đầu sau khi được chữa bằng sốc điện, hơn 80% không tái phát chứng rung nhĩ, những tháng sau đó, tỉ lệ này tụt xuống 39%.
- Chống đông máu: để tránh tai biến não, bệnh nhân nên được điều trị chống đông máu (dùng warfarin).
[sửa] Cuồng nhĩ
(Atrial flutter)
[sửa] Nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất
(AV node re-entry tachycardia)
[sửa] Nhịp nhanh vào lại nhĩ thất
(AV re-entry tachycardia)
[sửa] Hội chứng Wolf-Parkinson-White
[sửa] Nhịp nhanh bộ nối không kích phát
[sửa] Các rối loạn nhịp thất
[sửa] Ngoại tâm thu thất
(ventricular extra-systole)
[sửa] Nhịp nhanh thất
(ventricular tachycardia)
[sửa] Xoắn đỉnh
(torsade de pointes)