Quần đảo Trường Sa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Trường Sa.
Bản đồ quần đảo Trường Sa, do chính phủ Việt Nam vẽ
Bản đồ quần đảo Trường Sa, do chính phủ Việt Nam vẽ

Quần đảo Trường Sa (tiếng Anh: Spratly Islands; tiếng Trung Quốc: 南沙群岛 Nam Sa quần đảo; tiếng Filipino và tiếng Tagalog: Kalayaan; tiếng Malay và tiếng Indonesia: Kepulauan Spratly) là nhóm gần 100 đảo đá ngầm và đảo nhỏ đang trong tình trạng tranh chấp ở Biển Đông (South China Sea). Là một phần của các đảo ở Biển Đông, quần đảo Trường Sa được bao quanh bởi những vùng đánh cá trù phú và giàu có về tài nguyên dầu mỏ và khí gas, hiện vùng mở rộng (diện tích) của nó vẫn còn chưa được biết và đang trong vòng tranh cãi. Việt Nam, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, mỗi nước đều tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo; trong khi Brunei, MalaysiaPhilippines, mỗi nước tuyên bố chủ quyền nhiều phần. Nhiều nước tham gia tranh cãi này có quân lính đóng trên quần đảo Trường Sa và kiểm soát nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đảo đá ngầm khác nhau. Đài Loan chiếm một trong những đảo lớn nhất, đảo Ba Bình. Tháng 2 năm 1995, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chiếm đảo đá ngầm Mischief (Mischief reef), gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị lớn ở Đông Nam Á, đặc biệt với Philippines. Đầu năm 1999, những cuộc tranh cãi lại tăng lên khi Philippines tuyên bố rằng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đang xây dựng đồn bốt quân sự trên đảo đá ngầm. Mặc dầu những sự tranh cãi sau đó đã giảm bớt một chút chúng vẫn là một trong những nguyên nhân có thể gây ra một cuộc chiến lớn ở Đông Á có sự tham gia của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa hay một cuộc chiến ở tầm nhỏ hơn giữa các nước tuyên bố chủ quyền khác.

Mục lục

[sửa] Địa lý và phát triển kinh tế

  • Toạ độ: 8°38′ Bắc 111°55′ Đông
  • Diện tích (đất liền): nhỏ hơn 5 km²
    • Ghi chú: gồm khoảng 100 đảo nhỏ, đảo san hô và đỉnh núi nhô lên khỏi mặt biển rải rác trên một diện tích gần 410,000 km² ở giữa biển Đông
  • Đường bờ biển: 926 km
  • Đơn vị hành chính
    • Việt Nam: thuộc tỉnh Khánh Hoà
    • Philippines: thuộc tỉnh Palawan
    • Trung Hoa Dân Quốc: thuộc tỉnh
    • Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa: thuộc tỉnh Hải Nam
    • Malaysia: thuộc tỉnh Sabah
  • Khí hậu: nhiệt đới
  • Địa thế: phẳng
  • Độ cao:
    • điểm thấp nhất: Biển Đông (0 m)
    • điểm cao nhất: vị trí không đặt tên ở Southwest Cay (4 m)
  • Thảm hoạ thiên nhiên: bão; nhiều cơn bão biển lớn bởi vì nhiều đảo đá ngầm và nông

Quần đảo Trường Sa, vốn không có đất trồng trọt và không có dân bản địa, có khoảng hai mươi đảo trong đó đảo Ba Bình là đảo lớn nhất được coi là nơi cư dân có thể sinh sống bình thường. Các nguồn lợi thiên nhiên gồm: cá, phân chim, tiềm năng dầu mỏ và khí gas còn chưa được xác định. Ngoài nghề cá các hoạt động kinh tế khác bị kiềm chế do tranh chấp chủ quyền . Do nằm gần khu vực lòng chảo trầm tích chứa nhiều dầu mỏ và khí gas, quần đảo Trường Sa có tiềm năng lớn về dầu khí. Hiện địa chất vùng biển này vẫn chưa được khảo sát nhiều và chưa có các số liệu đánh giá đáng tin cậy về tiềm năng dầu khí và khoáng sản khác. Các khảo sát khác nhằm phục vụ kinh tế và thương mại còn ít thực hiện. Quần đảo Trường Sa hiện chưa có cảng hay bến tàu nhưng có bốn sân bay trên các đảo có vị trí chiến lược do nằm gần tuyến đường vận chuyển tàu biển chính trên biển Đông.

[sửa] Sự có mặt của con người

Có thể con người đã biết đến quần đảo Trường Sa từ khoảng những năm 3 TCN. Điều này dựa trên một số sự phát hiện rằng những người đánh cá Việt Nam và Trung Quốc, đa số là cư dân từ Vương quốc Chăm Pa cổ của Việt Nam hoặc cư dân từ các quận ở đảo Hải NamQuảng Đông đã đến quần đảo Trường Sa, và các đảo khác ở vùng Biển Đông để đánh cá hàng năm. Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 thỉnh thoảng có một số thuỷ thủ từ một số nước lớn châu Âu (gồm hoặc Richard Spratly hoặc William Spratly đến quần đảo Trường Sa, từ đó quần đảo có cái tên tiếng Anhlà Spratly và tên này được thừa nhận chung , nhưng các nước châu Âu hồi đó còn ít chú ý đến quần đảo này. Đa số các tên tiếng Anh của các đảo, đảo nhỏ và đảo chìm được những ngư dân Việt Nam hay Trung Quốc đặt. Các tàu Đức nghiên cứu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa năm 1883 nhưng cuối cùng đã rút lui sau khi có những phản ứng từ phía nhà Thanh.

Các bản đồ địa lý Việt Nam cổ ghi nhận Bãi Cát Vàng (được dùng để chỉ chung cả Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ Việt nam từ đầu thế kỷ 17. Trong cuốn "Phủ biên tạp lục" (Frontier Chronicles) của học giả Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ thuộc về tỉnh Quảng Ngãi. Ông miêu tả đó là nơi người ta có thể khai thác các sản phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Tài liệu ghi chép Việt Nam vào thế kỷ 17 nhắc đến các hoạt động kinh tế được tài trợ của chính phủ dưới triều nhà Lê từ 200 năm trước đó. Chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu địa lý về các đảo từ thế kỷ 18.

Các bản đồ về địa lý cổ của Trung Quốc có vẽ quần đảo Trường Sa nhưng không tỏ rõ các đảo là lãnh thổ Trung Quốc. Thập niên 1930, Pháp tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Chính phủ Bảo hộ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay cho Việt Nam, lúc đó đang nước thuộc địa của Pháp. Họ chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa, gồm cả đảo Ba Bình, và xây các trạm thời tiết trên hai đảo, và sau đó quản lý chúng như một phần lãnh thổ của Đông Dương thuộc Pháp. Sự chiếm đóng này bị chính phủ quốc gia Trung Quốc phản đối bởi vì theo họ thì khi các tàu chiến của Pháp tới chín đảo thì trên biển có một số ngư dân gốc Trung Quốc đánh cá, theo họ thì các ngư dân này đã xé cờ Pháp sau khi tàu của Pháp rời khỏi đảo. Sau đó, Nhật Bản chiếm một số đảo trong Thế chiến thứ hai, và sử dụng các đảo này làm căn cứ tàu ngầm cho các chiến dịch ở Đông Nam Á. Dưới thời đó, những đảo này được gọi là Shinnan Shoto (新南諸島), nghĩa đen là "Đảo Mới phía Nam",cùng với quần đảo Hoàng Sa được đặt dưới sự cai trị của Chính quyền Nhật tại Đài Loan. Sau khi Nhật Bản bị đánh bại, Quốc Dân Đảng tuyên bố chủ quyền toàn bộ quần đảo Trường Sa (gồm cả đảo Ba Bình) và chấp nhận sự đầu hàng của người Nhật. Nhật Bản rút bỏ tất cả các tuyên bố chủ quyền đối với các đảo vào năm 1951 trong Hiệp ước Hoà bình San Francisco. Trong hiệp ước với Cộng hoà Trung Hoa, Nhật một lần nữa rút bỏ chủ quyền khỏi các đảo cùng với Hoàng Sa, Đông Sa (Pratas) và các đảo khác đã chiếm của Trung Quốc. Tuy nhiên, Quốc Dân Đảng đã rút khỏi Trường Sa và Hoàng Sa khi họ bị các lực lượng Đảng cộng sản Trung Quốc đối lập đánh bại năm 1949.

Khi người Pháp rời Việt Nam, các đơn vị hải quân chính phủ Nam Việt Nam thay thế Pháp thực hiện chủ quyền chiếm đóng Trường Sa .

[sửa] Tranh chấp chủ quyền

Biển Đông với các khu vực và tài nguyên tranh chấp giữa các nước.
Biển Đông với các khu vực và tài nguyên tranh chấp giữa các nước.

Dấu hiệu đầu tiên cho thấy quần đảo Trường Sa không chỉ đơn giản là một mối nguy cho tàu chở hàng đi qua đó khi vào năm 1968 người ta tìm thấy dầu mỏ trong vùng. Theo ước tính của Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vùng quần đảo Trường Sa có chứa trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên rất lớn lên đến 17,7 tỷ tấn (1,60 × 1010 kg), so với 13 tỷ tấn (1,17 × 1010 kg) của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới. Đương nhiên, tiềm năng trữ lượng dầu khí to lớn này góp phần làm tình hình thêm căng thẳng và thúc đẩy các nước trong vùng tuyên bố có chủ quyền. Ngày 11 tháng 3 năm 1976, cuộc thám hiểm dầu khí lớn đầu tiên của Philippines được tiến hành ngoài khơi Palawan, trong khu vực quần đảo Trường Sa, và các khu khai thác ở đó hiện chiếm năm mươi phần trăm toàn bộ số dầu tiêu thụ tại Philippines.

Các nước tuyên bố chủ quyền không cấp giấy phép khai thác ngoài khơi trong vùng đảo vì sợ gây ra một sự xung đột lập tức. Các công ty nước ngoài cũng không đưa ra bất kỳ một cam kết nào về việc khai thác vùng này cho đến khi tranh cãi về lãnh thổ được giải quyết hay các nước tham gia đạt được thoả thuận chung.

Một động cơ khác để tranh chấp là trữ lượng khai thác cá thương mai của vùng biển quần đảo Trường Sa. Vào năm 1988, Biển Đông chiếm 8% tổng số lượng đánh bắt cá và hải sản của thế giới, một con số chắc chắn còn có thể tăng lên. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã dự đoán rằng Biển Đông chứa lượng cá và các nguồn dầu mỏ, khí gas tự nhiên có giá trị lên đến một nghìn tỷ đôla. Đã có nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa Philippines và các nước khác - đặc biệt là Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa - về những tàu đánh cá nước ngoài trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ và báo chí cũng thường đưa tin về những vụ bắt giữ ngư dân Trung Quốc.

Vùng này cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông đúc nhất trên thế giới. Trong thập niên 1980, ít nhất có lượt 270 tàu đi qua quần đảo Trường Sa mỗi ngày, và hiện tại hơn một nửa số tàu chở dầu siêu cấp của thế giới chạy qua vùng biển này hàng năm. Lượng tàu chở dầu chạy qua Biển Đông lớn gấp ba lần lượng tàu chạy qua Kênh Suez và năm lần lớn hơn lượng tàu qua Kênh đào Panama;gần 20% lượng dầu thô thế giới được chuyên chở ngang qua Biển Đông.

Có nhiều ám chỉ rằng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã sáp nhập và chiếm các đảo không phải chỉ vì mục tiêu khai thác tài nguyên mà còn để giám sát các hoạt động trên biển Đông. Ví dụ, đảo ngầm Mischief sẽ là một điểm lý tưởng để quan sát các tàu Hải quân Mỹ chạy qua biển tây Philippines. Việc Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chiếm đảo này cũng có thể có mục đích đối chọi với Trung Hoa Dân Quốc hơn là Philippines bởi vì Trường Sa nằm ngang vùng biển thiết yếu của Cộng hoà Trung Hoa. Đó cũng có thể chỉ đơn giản là một nỗ lực của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa nhằm thông báo sự củng cố quyền bá chủ trong vùng của họ.

Đã có một số đụng độ giữa các tàu ở quần đảo Trường Sa. Năm 1974, sau khi Việt Nam Cộng Hòa đã cho phép các công ty dầu khí phương Tây thăm dò quần đảo Trường Sa, Cộng hoà Nhân dân Trung hoa phản ứng bằng cách chiếm quyền kiểm soát chúng sau một trận hải chiến ngắn ngủi; năm 1988, Trung Quốc cũng chiếm sáu đảo nhỏ trong một vùng từng là lãnh thổ của Việt Nam bằng vũ lực cũng bằng cách như vây. Một xô xát diễn ra liên quan tới một tàu dân sự vào ngày 10 tháng 4 năm 1983, khi một du thuyền của Đức bị bắn chìm. Không ai bị coi là chịu trách nhiệm về vụ này.

Để trả lời cho những lo ngại ngày càng tăng bởi các nước có bờ biển ở vùng biển quần đảo Trường Sa về sự xâm phạm của các tàu nước ngoài đối với tài nguyên thiên nhiên của họ, Liên hiệp quốc đã triệu tập Hội nghị Liên hiệp quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982 để xác định các vấn đề về các biên giới biển quốc tế. Về những lo lắng trên, chúng được giải quyết rằng một nước có đường bờ biển có thể tuyên bố 200 dặm hàng hải quyền tài phán từ biên giới đất liền của mình. Tuy nhiên UNCLOS không thể giải quyết vấn đề làm thế nào để giải quyết các tranh chấp chồng lấn và vì thế tương lai của quần đảo vẫn còn mờ mịt.

Năm 1984, Brunei lập ra một vùng đặc quyền đánh cá bao gồm cả đảo ngầm Louisa ở phía nam quần đảo Trường Sa, nhưng không công khai tuyên bố chủ quyền hòn đảo. Sau đó, vào năm 1988, Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa một lần nữa lại đụng độ ở biển về quyền sở hữu đảo ngầm Johnson thuộc Trường Sa. Tàu chiến Trung Quốc đánh đắm các tàu chở đội quân đổ bộ Việt Nam. Hai nước bình thường hoá quan hệ vào năm 1991 và Chủ tịch Giang Trạch Dân sau đó đã hai lần viếng thăm Việt Nam, nhưng hai nước vẫn đối đầu về tương lai của Trường Sa.

Năm 1992, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam trao các hợp đồng thăm dò dầu khí cho các công ty Mỹ trên vùng chồng lấn ở Trường Sa; và vào tháng 5 năm 1992, Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC) và Crestone Energy (một công ty Mỹ có trụ sở ở Denver, Colorado) đã ký một hợp đồng hợp tác để cùng thăm dò Wan'an Bei-21 block, một vùng rộng 25.155 km² ở phía tây nam Biển Đông gồm cả các vùng quần đảo Trường Sa. CNOOC cung cấp các dữ liệu về địa chất và các thông tin khác về đáy biển vùng đó trong khi Crestone đồng ý chịu mọi chi phí và tiếp tục tiến hành thăm dò địa chất và khoan trong vùng. Hợp đồng được kéo dài tới năm 1999 sau khi Crestone thất bại trong việc hoàn thành thăm dò. Một phần trong hợp đồng của Crestone bao gồm cả hai block 133 và 134 của Việt Nam nơi Petro Vietnam và ConocoPhillips Vietnam Exploration & Production, một đơn vị của ConocoPhillips, đã đồng ý đánh giá khả năng vào tháng 4 năm 1992. Điều này dẫn tới một sự chạm trán giữa Trung Quốc và Việt Nam, với việc mỗi nước đều yêu cầu rằng bên kia huỷ bỏ hợp đồng của mình. Xung đột cấp độ cao hơn nữa diễn ra đầu năm 1995 khi Philippines tìm thấy một kết cấu quân sự đầu tiên ở đảo ngầm Mischief, 130 dặm biển ngoài khơi Palawan. Việc này thúc đẩy chính phủ Philippines đưa ra một kháng cáo chính thức đối với sự chiếm đóng hòn đảo của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Hải quân Philippines bắt giữ sáu mươi hai ngư dân Trung Quốc ở bãi cát ngầm Half Moon, cách Palawan 80 kilômét. Một tuần sau, sau sự xác nhận của Fidel V. Ramos về việc ra lệnh tăng cường cho các lực lượng quân sự trong vùng, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng kết cấu đó là các chòi tạm dành cho ngư dân.

Tiếp theo sự tranh cãi đó, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và các nước thành viên ASEAN, với sự môi giới của ASEAN, đã đạt được một thoả thuận rằng một nước sẽ thông báo tới các nước còn lại về hành động quân sự của mình bên trong vùng lãnh thổ tranh chấp và sẽ không tiến hành xây dựng thêm các công trình. Thoả thuận nhanh chóng bị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Malaysia xâm phạm. Tuyên bố rằng vì bị hư hại do bão, bảy tàu Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiến vào vùng đó để sửa "các chòi ngư dân" ở đảo ngầm Panganiban. Malaysia xây dựng một kết cấu trên Investigator Shoal và đổ bộ tại đảo ngầm Rizal, cả hai chỗ này đều nằm bên trong vùng EEZ của Philippines. Để trả đũa Philippines trao phản đối chính thức, yêu cầu dỡ bỏ các kết cấu đó, tăng cường tuần tra hải quân ở Kalayaan và mời các nhà chính trị Mỹ tới giám sát các căn cứ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bằng máy bay. Tới năm 1998, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiếp tục sự sáp nhập các đảo của mình, đặt các cột mốc lãnh thổ hay phao trên bãi cát Thomas thứ nhất và thứ hai, bãi cát Pennsylvania, bãi cát Half Moon và đảo san hô vòng Sabina cùng đảo Jackson, vùng quần đảo Trường Sa được đưa vào danh sách một trong tám điểm nóng xung đột trên thế giới. Cuối năm 1998, các căn cứ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã bao quanh các tiền đồn của Philippines. Một sỹ quan Hải quân hoàng gia Anh phân tích các bức ảnh chụp các kết cấu của Trung Quốc và tuyên bố rằng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa "có lẽ đang chuẩn bị chiến tranh". Quan hệ giữa ManilaBắc Kinh đã xấu đi tới mức sắp xảy tới xung đột.

Đầu thế kỷ 21, như một phần trong chính sách ngoại giao lúc đầu được gọi là "khái niệm an ninh mới" và "sự lớn mạnh của Trung Quốc hoà bình", Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa giảm bớt chạm trán ở quần đảo Trường Sa. Gần đây Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiến hành thương lượng với các nước ASEAN nhằm mục đích thực hiện đề xuất tự do thương mại giữa 10 nước tham gia. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ASEAN cũng đã thoả thuận đàm phán để đưa ra một bộ luật ứng xử nhằm giảm căng thẳng tại các đảo tranh chấp. Ngày 5 tháng 3 năm 2002, một thoả thuận đã ra đời, công bố mong ước của các nước liên quan giải quyết vấn đề chủ quyền "mà không sử dụng thêm nữa vũ lực". Tháng 11 năm 2002, một tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông được ký kết, làm giảm căng thẳng nhưng không phải là một bộ luật ứng xử mang tính bắt buộc.

[sửa] Việt Nam tuyên bố chủ quyền

Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với đảo dựa trên vị trí lịch sử và trên nguyên tắc thềm lục địa. Các bản đồ địa lý cổ Việt Nam ghi chép Bãi Cát Vàng để chỉ cả Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ 17. Trong cuốn Phủ Biên Tạp Lục của học giả Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được định nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Trong Đại Nam Thống Nhất Toàn Đồ, một cuốn bản đồ của Việt Nam được hoàn thành năm 1838, Trường Sa được vẽ thuộc lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc khảo sát địa lý và tài nguyên trên quần đảo. Kết quả của các chuyến khảo sát đó đã được ghi chép trong văn học và lịch sử Việt Nam và được xuất bản kể từ thế kỷ 17. Hơn nữa, sau một hiệp ước ký kết với triều đại nhà Nguyễn, Pháp đại diện cho các quyền lợi của Việt Nam đối với các công việc quốc tế và đã thi hành chủ quyền trên quần đảo thay cho Việt Nam.

Ngày 7 tháng 7 năm 1951, Trần Văn Hữu, chủ tịch phái đoàn chính phủ Bảo Đại tới dự Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản tuyên bố rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc lãnh thổ Việt Nam. Tuyên bố này không bị bác bỏ hay bảo lưu ý kiến nào của 51 nước có mặt tại hội nghị. Sau khi Pháp rút đi, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thi hành chủ quyền trên quần đảo.

Hiện nay Việt Nam chiếm 21 đảo. Chúng được gộp vào thành một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà.

[sửa] Philippines tuyên bố chủ quyền

Trong khi Philippines lần đầu tiên tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc năm 1946, thì sự dính líu nghiêm túc của họ chỉ diễn ra vào năm 1956 khi vào ngày 15 tháng 5 công dân Philippines là Tomas Cloma tuyên bố lập ra một nhà nước mới, Kalayaan (Vùng đất tự do). Kalayaan của Cloma trải rộng trên toàn bộ phía đông Biển Đông, gồm cả toàn bộ quần đảo Trường Sa, đảo Ba Bình, Pagasa và đảo Nam Yết, cũng như đảo West York, đảo chìm North Danger, đảo chìm Mariveles và bãi cát ngầm Invertigator. Sau đó Cloma lập ra một thuộc địa vào tháng 7 năm 1956 với thủ đô là Pagasa và Cloma là "Chủ tịch hội đồng tối cao của nhà nước Kalayaan". Hành động này dù không được chính phủ Philippines xác nhận, vẫn bị các nước khác coi là một hành động gây hấn của Philippines và sự phản ứng quốc tế nhanh chóng xảy ra. Đài Loan, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Cộng Hòa, Pháp, AnhHà Lan đưa ra phản kháng chính thức (Hà Lan có liên quan vì họ coi quần đảo Trường Sa là một phần của New Guinea thuộc Hà Lan) và Đài Loan đã gửi lực lượng hải quân tới chiếm các đảo và lập một căn cứ ở đảo Ba Bình, và họ vẫn giữ tới tận ngày nay.

Tomas Cloma và Philippines tiếp tục tuyên bố chủ quyền của họ đối với quần đảo; tháng 10 năm 1956 Cloma tới Thành phố New York để trình bày sự việc trước Liên hiệp quốc và Philippines đã cho đóng quân trên ba đảo từ năm 1968 để bảo vệ các công dân Kalayaan. Đầu năm 1971 Philippines gửi một lưu ý ngoại giao nhân danh Cloma tới Đài Bắc yêu cầu Cộng hoà Trung Hoa rút quân khỏi đảo Ba Bình và ngày 10 tháng 7 cùng năm Ferdianand Marcos thông báo sự sáp nhập nhóm 53 hòn đảo mà họ gọi là Kalayaan, mặc dù cả Cloma và Marcoss không chỉ rõ 53 đảo nào tạo thành Kalayaan, người Philippines bắt đầu tuyên bố chủ quyền ở càng nhiều nơi càng tốt. Tháng 4 năm 1972 Kalayaan chính thức sáp nhập với tỉnh Palawan và được quản lý như một poblacion (khu vực nhỏ), với Tomas Cloma là chủ tịch hội đồng khu vực và tới năm 1992 có 12 cử tri được đăng ký ở Kalayaan. Philippines cũng liên tục cố gắng đổ quân xuống đảo Ba Bình năm 1977 để chiếm đảo nhưng bị quân đội Cộng hoà Trung Quốc đóng trên đảo đẩy lùi. Không có báo cáo về thương vong trong xung đột. Năm 2005, một trạm điện thoại di động được lắp đặt ở đảo Pagasa bởi Smart Communications của Philippines.

Người Philippines đưa ra res nullius và địa lý làm cơ sở cho tuyên bố chủ quyền của mình. Cái cho rằng Kalayaan của Philippines là res nullius bởi vì không có nỗ lực giành chủ quyền nào với các đảo cho tới thập niên 1930, khi người Pháp và sau đó là người Nhật chiếm đảo. Khi Nhật Bản tuyên bố rút lui chủ quyền đối với các đảo trong Hiệp ước Hoà bình San Francisco, đã có một sự từ bỏ quyền đối với các đảo mà không có bất kỳ một bên yêu cầu chủ quyền nào. Vì thế, người Philippines cho rằng quần đảo trở thành res nullius và có thể được sáp nhập. Nhà kinh doanh người Philippines Tomas Cloma đã làm đúng điều đó vào năm 1956 và trong khi Philippines không bao giờ chính thức ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Cloma, trong lúc chuyển giao chủ quyền đảo từ Cloma sang Philippines, người Philippines sử dụng đúng quyền tuyên bố chủ quyền như Cloma đã từng làm. Philippines yêu cầu Kalayaan về các căn cứ địa lý có thể tóm tắt bằng cách khẳng định rằng Kalayaan là riêng biệt khỏi các nhóm đảo khác ở Biển Đông bởi vì:

"Có sự công nhận chung về thông lệ hải dương học coi một dãy các đảo có tên thuộc về đảo lớn nhất trong nhóm hay có tên dựa theo sự tập hợp chung. Ghi chú rằng Trường Sa (đảo) chỉ có diện tích 13 hectare so với diện tích 22 hectare của đảo Pagasa. Xét về mặt khoảng cách, đảo Trường Sa cách quần đảo Pagasa 210 m. Điều này nhấn mạnh lý lẽ rằng chúng không phải là phần của cùng một dãy đảo. Quần đảo Hoàng Sa còn ở xa hơn (34.5 km tây bắc đảo Pagasa) rõ ràng là một nhóm đảo khác."

Một lý lẽ thứ hai được Philippines sử dụng liên quan tới tuyên bố chủ quyền địa lý của họ đối với Trường Sa là những đảo thuộc phần tuyên bố chủ quyền của Philippines nằm bên trong đường căn bản quần đảo của họ, họ là nước duy nhất có thể tuyên bố như vậy. Hội nghị Liên hiệp quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982 nói rằng các nước bờ biển có thể tuyên bố 200 dặm biển tài phán từ biên giới đất liền của mình. Có thể điều đó có nghĩa rằng trong khi Philippines là một nước đã ký kết vào UNCLOS, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam vẫn chưa tham gia. Philippines cũng viện lý lẽ rằng, theo các điều khoản của Luật biển, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không thể mở rộng đường căn bản của mình tới Trường Sa bởi vì Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không phải là nước có biển đảo. Việc lý lẽ này (hay bất kỳ lý lẽ nào khác của người Philippines) có được đưa ra trước toà án để tham khảo và tranh cãi hay không còn chưa chắc chắn, khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam còn chưa muốn chứng minh các yêu cầu chủ quyền của mình theo pháp lý và bác bỏ các nỗ lực của Philippines nhằm đưa sự tranh cãi ra trước Toà án biển thế giới ở Hamburg.

[sửa] CHNDTH tuyên bố chủ quyền

Vào năm 1958, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cũng tuyên bố chủ quyền của mình dựa trên vị trí lịch sử. Sau này họ cho rằng quần đảo Trường Sau đã từng là một phần thuộc Trung Quốc trong gần 2.000 năm và đưa ra các thư tịch cổ có nhắc tới quần đảo Trường Sa và những mảnh vỡ đồ gốm Trung Quốc và tiền được tìm thấy ở đó để chứng minh. Sử dụng lý lẽ này, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố rằng Philippines đã "lấy" 410.000 km² biên giới biển truyền thống của họ, lợi dụng lúc Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bị tẩy chay khỏi các công việc quốc tế. Một số nhà phân tích đặt câu hỏi về sự chính xác của các tuyên bố chủ quyền đó, tuy nhiên:

"Sẽ không có tính thuyết phục nếu cho rằng việc tìm thấy các đồng tiền xu thời Hán và các đồ gốm trên quần đảo Hoàng Sa chỉ riêng nó có thể coi là cơ sở chứng minh cho yêu cầu chủ quyền của Trung Quốc vào những năm 1990. Sự hiện diện của những vật đó có thể chỉ đơn giản chứng minh rằng đã có các quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á hơn là cho thấy sự hiện diện của người Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa đang tranh cãi."

Không có ghi chép chính thức nào về việc người Trung Quốc đã tới đảo và các liên hệ tạm thời của ngư dân không đủ để làm bằng chứng cho bất kỳ một yêu cầu chủ quyền nào dựa trên vị trí lịch sử. Tuy nhiên họ trưng ra nhiều ghi chép chính thức và bản đồ từ thời nhà Hán, nhà Nguyên, nhà Thanh và Cộng hoà Trung Hoa có tính đến quần đảo Trường Sa trong lãnh thổ Trung Quốc. (Xem bản tiếng Trung của trang này để có thêm chi tiết và ngày tháng của tài liệu.)

[sửa] Niên biểu thế kỷ 20

  • 1927 - Tàu SS De Lanessan của Pháp tiến hành một cuộc khảo sát khoa học trên quần đảo Trường Sa.
  • 1930 - Pháp tiến hành cuộc khảo sát thứ hai bằng chiếc La Malicieuse, treo cờ Pháp trên một đảo tên là Ile de la Tempête (đảo Phong Ba). Ngư dân Trung Quốc có mặt trên đảo nhưng người Pháp cũng không trục xuất họ.
  • 1932 - Trung Hoa Dân Quốc gửi tới chính phủ Pháp một bản ghi nhớ tranh cãi về chủ quyền của họ đối với Trường Sa, dựa trên bản dịch hiệp ước năm 1887 kết thúc Chiến tranh Trung-Pháp.
  • 1933 - Ba tàu Pháp chiếm quyền kiểm soát chín đảo lớn nhất và tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với quần đảo. Pháp quản lý vùng Cochinchine. Đế quốc Nhật tranh giành chủ quyền với Pháp về quần đảo, đưa ra bằng chứng về việc khai mỏ phosphate của các công dân Nhật.
  • 1939 - Nhật tuyên bố ý định đặt quần đảo dưới quyền tài phán của họ. Pháp và Anh phản đối và tái xác nhận sự tuyên bố chủ quyền của Pháp.
  • 1941 - Nhật dùng vũ lực chiếm quần đảo và tiếp tục kiểm soát nó tới cuối Thế chiến thứ II, cai quản vùng này như một phần của Đài Loan. Một căn cứ tàu ngầm được thiết lập ở đảo Ba Bình.
  • 1945 - Sau khi Nhật Bản đầu hàng cuối Thế chiến thứ II, Pháp và Cộng hoà Trung Quốc tái khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Trung Quốc gửi quân tới đảo và đổ bộ xuống phá bỏ các mốc chủ quyền.
  • 1946 - Pháp gửi tàu chiến tới quần đảo nhiều lần nhưng không tìm cách tấn công các lực lượng Trung Quốc.
  • 1947 - Pháp yêu cầu Trung Quốc rút khỏi quần đảo.
  • 1948 - Pháp ngừng các chuyến tuần tra trên biển gần quần đảo và Trung Quốc rút đa số lính của họ.
  • 1951 - Sau Hội nghị San Francisco năm 1951 về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản, các phái đoàn từ Việt Nam, - ở thời điểm đó, vẫn thuộc sự kiểm soát của Pháp – tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
  • 1956 - Tomas Cloma, giám đốc Học viện hải dương Philippines tuyên bố chủ quyền trên đa phần quần đảo Trường Sa, gọi lãnh thổ của ông là "Kalaya'an" ("Vùng đất tự do"). Trung Hoa Dân Quốc, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Cộng Hòa, Pháp, Anh và Hà Lan tất cả đều đưa ra phản đối. Cộng hoà Trung Hoa và Việt Nam Cộng Hòa đưa các đơn vị hải quân tới quần đảo, mặc dù Việt Nam không có các đơn vị đồn trú thường xuyên ở đó. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ủng hộ yêu cầu của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, tuyên bố rằng "theo các dữ liệu của Việt Nam, các đảo Tây Sa và Nam Sa (gọi theo Trung Quốc chỉ Hoàng Sa và Trường Sa) về mặt lịch sử là một phần của lãnh thổ Trung Quốc." Cuối năm đó, Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố sự sáp nhập quần đảo Trường Sa thành một phần tỉnh Phước Tuy.
  • 1958 - Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đưa ra tuyên bố xác định lãnh thổ biển của họ gồm cả quần đảo Trường Sa. Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Phạm Văn Đồng, gửi một bản ghi chú chính thức tới Chu Ân Lai, tuyên bố rằng "Chính phủ Cộng hoà nhân dân Việt Nam tôn trọng quyết định này."
  • 1961-1963 - Việt Nam Cộng Hòa xây dựng các cột mốc lãnh thổ trên nhiều đảo thuộc quần đảo.
  • 1968 - Philippines gửi quân tới ba đảo để bảo vệ các công dân Kalayaan và tuyên bố sáp nhập nhóm đảo Kalayaan.
  • 1971 - Malaysia đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
  • 1972 - Philippines sáp nhập các đảo Kalayaan vào tỉnh Palawan của họ.
  • 1975 - Việt Nam, mới thống nhất, đưa ra tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo Trường Sa.
  • 1978 - Một nghị định của tổng thống Philippines phác thảo tuyên bố chủ quyền trên quần đảo.
  • 1979 - Malaysia xuất bản một bản đồ về thềm lục địa tuyên bố của mình, gồm cả mười hai đảo thuộc nhóm Trường Sa. Việt Nam xuất bản sách trắng phác thảo các yêu cầu chủ quyền của mình trên quần đảo và tranh cãi về yêu cầu chủ quyền của các nước khác.
  • 1982 - Việt Nam xuất bản một cuốn sách trắng khác, chiếm nhiều đảo và xây đựng các cơ sở quân sự. Philippines cũng chiếm thêm nhiều đảo và xây dựng một đường băng.
  • 1983 - Malaysia chiếm một đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
  • 1984 - Brunei thiết lập một vùng đánh cá đặc quyền gồm cả đảo chìm Louisa ở phía Nam quần đảo Trường Sa, nhưng không công khai tuyên bố chủ quyền vùng đó.
  • 1987 - Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiến hành các chuyến tuần tra hải quân ở quần đảo Trường Sa và thiết lập một căn cứ thường xuyên.
  • 1988 - Tàu của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam đụng độ ở đảo chìm Johnson. Các lực lượng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chiếm và giành quyền kiểm soát vùng đó.

[sửa] Tham khảo

  • Kelly, Todd C. (1999). "Vietnamese Claims to the Truong Sa Archipelago". Explorations in Southeast Asian Studies 3.

[sửa] Xem thêm

[sửa] Liên kết ngoài