Thảo luận:Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục lục |
[sửa] Tên gọi chính thức
Tên gọi chính thức của cuộc chiến Việt-Trung được gọi là gì trong sách giáo khoa tại Việt Nam? Nguyễn Hữu Dụng 02:10, ngày 22 tháng 10 năm 2005 (UTC)
- Tên mục này không chính xác, thông thường người ta gọi là "Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979". Nguyễn Thanh Quang 09:56, ngày 22 tháng 10 năm 2005 (UTC)
[sửa] Bổ sung của Huỳnh Tường Minh
Xin bổ xung thêm vài chi tiết về nguyên nhân, lực lượng tham chiến, và hậu quả. Nếu anh em thấy OK, xin cho thêm vào bài. Xin cám ơn, --- Huỳnh Tường Minh 12:09, ngày 29 tháng 10 năm 2005 (UTC)
[sửa] Nguyên nhân
Theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, nguyên nhân Trung Quốc (TQ) tấn công Việt Nam (VN) năm 1979, ngoài việc công bố “dạy cho Việt Nam một bài học,” còn có các nguyên nhân sâu xa hơn về chiến thuật và chiến lược như sau
-
- Về mặt chiến lược, năm 1978 Việt Nam gia nhập Comecon, và trong cùng năm ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô, trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự . Theo nhận định của Quân Ủy Trung Ương Đảng Cộng sản TQ, đây là hiểm họa quốc phòng lớn dối với TQ, vì hiệp ước quân sự này đặt TQ vào tình thế lưỡng đầu thọ địch (two-front war), nếu chiến tranh xảy ra với VN và Liên Xô can thiệp, hoặc chiến tranh xảy ra với Liên Xô và VN can thiệp. Trước tình huống đó, TQ quyết định thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để biểu lộ rõ khả năng tương trợ của Liên xô, và họ khôn ngoan tuyên bố trước là “dạy cho Việt Nam bài học” để giới hạn mức độ giao tranh và tổn thất.
- Về mặt chiến thuật, nhà nghiên cứu quân sự Tây phương cho rằng TQ muốn thử nghiệm chủ thuyết phòng thủ linh động (active defense doctrine), đưa cuộc phòng thủ biên giới vào sâu lãnh thổ đối phương. Đồng thời họ cũng muốn giảm bớt áp lực cho quân đội chư hầu Pol Pot, vì theo họ VN sẽ đưa các đại đơn vị thiện chiến từ Kampuchea về miền Bắc
[sửa] Lực lượng tham chiến
-
- Phía TQ, các tài liệu Phương Tây cho biết có Đệ Tam Tổng Lộ Quân (3rd Field Army) Đệ Tứ Thập Nhị Lộ Quân (42nd Army) thuộc các Đại Quân Khu Côn Minh và Quảng Châu, gồm 5 Quân Đoàn chủ lực và các đơn vị yểm trợ tổng cộng 17 sư đoàn trong đợt đầu, và sau đó thêm 8 sư đoàn bô binh, tổng số 250.000 quân.
- Phía VN, Các đơn vị tham chiến gồm có các đơn vị thuộc Quân khu 1 và các đơn vị yểm trợ, gồm 11 sư đoàn và 9 trung đoàn biệt lập, chia làm hai tuyến phòng thủ, tổng số 100.000 quân
-
- Tuyến 1 : Sư đoàn 325B, Sư đoàn 338, Sư Đoàn 3 Sao Vàng, Sư Đoàn 374, Sư Đoàn 304, Sư Đoàn 346, và các Trung Đoàn 43, 576, 244, 49 biệt lập. Các sư đoàn 325B, 304, 3 là các đại đơn vị thiện chiến, chịu trách nhiệm hướng Đông và Đông Bắc Lạng Sơn
- Tuyến 2: Sư đoàn 312 Điện Biên, Sư đoàn 431, Sư đoàn 327, Sư đoàn 329, và Sư đoàn 242, và các Trung Đoàn 196, 38, 98 biệt lập.
[sửa] Hậu quả
-
- Về mặt chiến thuật, TQ thất bại vì VN đã không đưa các đơn vị ở Kampuchea về tham chiến, và quân TQ chịu tổn thất nặng.
- Về mặt chiến lược, TQ thành công lớn vì đã chứng minh rõ bản chất không thật của hiệp ước tương trợ quân sự Liên Xô-VN, và đã chứng minh khả năng lưỡng đầu thọ địch sẽ không xảy ra. Tài liệu Phương Tây còn cho rằng tai hại nhất cho VN là cuộc chiến này, vì nó cho thấy quân TQ còn yếu, đưa đến việc TQ dồn sức hiện đại hóa các đơn vị chủ lực của quân đội TQ. Điều này sẽ thấy rõ sau này trong Chiến tranh biên giới Việt Trung 1984-1988
[sửa] Tham khảo
“Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict”, Bruce Elleman , Tài liệu thư khố Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh Việt Nam, [[1]] “The Sino-Vietnam War-1979: Case Studies in Limited Wars” Colonel G.D. Bakshi, Bharat Rakshak Monitor - Volume 3(3) November-December 2000
- Trên báo và trên các nguồn thông tin thì lý do là "dạy cho Việt Nam một bài học", nhưng ngay tôi, một người biết rất ít về quân sự, cũng nghĩ là có các lý do khác. Do đó, Huỳnh Tường Minh nên cho vào bài viết. Mekong Bluesman 15:02, ngày 29 tháng 10 năm 2005 (UTC)
-
- Cảm ơn Mekong Bluesman, đã cho vào bài, và có thêm tham khảo ý của anh Nguyễn Thanh Quang --- Huỳnh Tường Minh 15:21, ngày 29 tháng 10 năm 2005 (UTC)
- Tôi hợp nhất thành 2 nguyên nhân chủ đạo. Tôi nghĩ rằng phần kết quả cũng cần được diễn đạt rõ ràng hơn. Vietbio 15:38, ngày 29 tháng 10 năm 2005 (UTC)
[sửa] Tương quan lực lượng
Có một số điểm bổ sung :
- Thứ nhất, biên chế Field Army (Dã chiến quân - tương đương phương diện quân hoặc cụm tập đoàn quân) và Army (binh đoàn - Bingtuan, tương đương tập đoàn quân)đã được quân đội Trung Quốc bãi bỏ vào năm 1955, cấp biên chế cao nhất của họ chỉ còn là Corp (quân đoàn - Juntuan).
- Các đơn vị Trung Quốc thống kê chi tiết theo phía Trung Quốc gồm : quân đoàn 11 (gồm sư đoàn 31, 32, 33), (quân đoàn 41 gồm sư đoàn 121, 122, 123), quân đoàn 13 (gồm sư đoàn 37, 38, 39), quân đoàn 14 (gồm sư đoàn 40, 41, 42), quân đoàn 42 (gồm sư đoàn 124, 125, 126), quân đoàn 43 (gồm sư đoàn 127, 128, 129), quân đoàn 50 (gồm sư đoàn 148, 149, 150), quân đoàn 54 gồm sư đoàn (160, 161, 162), quân đoàn 55 (gồm sư đoàn 163, 164, 165) và sư đoàn 58 (quân đoàn 20) tức là 28 sư đoàn chủ lực, chưa kể một số sư đoàn địa phương và binh chủng khác. Với biên chế một quân đoàn đoàn của Trung Quốc là 50.000 quân, một sư đoàn là 12.900 quân. Như vậy tổng số quân của Trung Quốc phải từ 350.000 đến 500.000.
- Danh sách các đơn vị Việt Nam có nhiều chi tiết sai hoặc thiếu (có lẽ vì đó là thống kê của nước ngoài) : ví dụ, sư đoàn 304 (thuộc quân đoàn 2) không tham gia vì còn đang tham chiến ở Campuchia, sư đoàn 312 (thuộc quân đoàn 1) cũng không tham gia vì còn đang đóng quân ở Ninh Bình. Hoặc thiếu nhiều đơn vị như sư đoàn 337 (ở Lạng Sơn), trung đoàn 567 (ở Cao Bằng), sư đoàn 316 và trung đoàn 192, 218, 254 (ở Hoàng Liên Sơn tức Lào Cai)...
Do vậy tôi nghĩ phần tương quan lực lượng này có lẽ tạm thời chưa nên đưa vào vội.
Truong Son 11:06, ngày 30 tháng 10 năm 2005 (UTC)
-
- Anh Truong Son có thể kiểm tra và bổ sung thông tin này vào bài viết được ko? Tôi tạm thời để phần Tương quan ra như ý kiến của anh để mọi ng cùng nhau thảo luận trước khi đưa nó trở lại. Vietbio 11:19, ngày 30 tháng 10 năm 2005 (UTC)
- Cảm ơn anh Truong Son. Bài nầy nếu được anh bổ sung thêm tài liệu của VN thì hay lắm!! Lý do liệt kê 304 và 312 vào đây là có tài liệu tiếng Anh, do tác giả dựa theo tài liệu TQ biên soạn, tại đây [[2]]. Tuy nhiên các nguồn khác thí dụ như tại đây [[3]] thì lại không thấy.
- Về việc 300.000-500.000 quân TQ tham chiến, xin anh Truong Son cho xin tài liệu tham khảo, xin đội ơn trước
- Riêng về tổ chức PLA và cách phiên dịch "Field Army", thì do bản thân chưa rõ phải dịch làm sao. Theo tài liệu của RAND, tại đây [[4]] thì biên chế Corps (không phải Corp) 軍團(军团), Quân Đoàn (juntuan) không còn xử dụng, chỉ có 役軍團 (役军 团) Dịch Quân Đoàn (jituanjun). Nếu dịch là 野戰軍(野战军) Dã Chiến Quân (yezhanjun), 路軍 Lộ Quân, 兵團(兵团) Binh đoàn (bingtuan) đều không đúng. Nếu dịch là Army Group có lẽ là ổn nhất, nhưng các tác giả Tây Phương không dịch như vậy. Xin anh Truong Son cho ý kiến.
- Theo thiển ý, có hai lý do đưa đến khác biệt về danh mục các đơn vị tham chiến. Thứ nhất do đôi bên xử dụng nghi binh và ký hiệu điện đàm ma để đánh lạc hướng đối phương (thí dụ có vài tài liệu TQ khai thác radio hay tù binh cho rằng có Trung Đoàn 982 của VN tham chiến, các nhà biên khảo Tây phương cho rằng không có đơn vị nào của VN mang danh hiệu đó, nên họ phỏng đoán đây là một trung đoàn của 304 hay 312). Thứ hai là do các dịch giả Tây phương thiếu tài liệu từ phía VN.
- Cũng theo thiển ý, viết về các đơn vị tham chiến VN, ta nên xử dụng tài liệu VN nếu có, viết về các đơn vị tham chiến TQ, ta nên xử dụng tài liệu TQ nếu có, là chắc nhất. --- Huỳnh Tường Minh 13:13, ngày 31 tháng 10 năm 2005 (UTC)
- Cảm ơn anh Truong Son. Bài nầy nếu được anh bổ sung thêm tài liệu của VN thì hay lắm!! Lý do liệt kê 304 và 312 vào đây là có tài liệu tiếng Anh, do tác giả dựa theo tài liệu TQ biên soạn, tại đây [[2]]. Tuy nhiên các nguồn khác thí dụ như tại đây [[3]] thì lại không thấy.
- Anh Truong Son có thể kiểm tra và bổ sung thông tin này vào bài viết được ko? Tôi tạm thời để phần Tương quan ra như ý kiến của anh để mọi ng cùng nhau thảo luận trước khi đưa nó trở lại. Vietbio 11:19, ngày 30 tháng 10 năm 2005 (UTC)
- Phía Trung Quốc, các tài liệu phương Tây cho biết có Đệ Tam Tổng lộ quân (3rd Field Army), Đệ Tứ thập nhị Lộ quân (42nd Army) thuộc các Đại Quân khu Côn Minh và Quảng Châu, gồm 5 quân đoàn chủ lực và các đơn vị yểm trợ tổng cộng 17 sư đoàn trong đợt đầu, và sau đó thêm 8 sư đoàn bộ binh, tổng số 250.000 quân.
- Phía Việt Nam, các đơn vị tham chiến gồm có các đơn vị thuộc Quân khu 1 và các đơn vị yểm trợ, gồm 11 sư đoàn và 9 trung đoàn biệt lập, chia làm hai tuyến phòng thủ, tổng số 100.000 quân.
-
- Tuyến 1: Sư đoàn 325B, Sư đoàn 338, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Sư đoàn 374, Sư đoàn 304, Sư đoàn 346 và các Trung đoàn 43, 576, 244, 49 biệt lập. Các sư đoàn 325B, 304, 3 là các đại đơn vị thiện chiến, chịu trách nhiệm hướng Đông và Đông Bắc Lạng Sơn.
- Tuyến 2: Sư đoàn 312 Điện Biên, Sư đoàn 431, Sư đoàn 327, Sư đoàn 329, Sư đoàn 242 và các Trung đoàn 196, 38, 98 biệt lập.
[sửa] Thiếu dữ liệu
Trong phần hậu quả theo tôi cần phải nêu thêm sự thiệt hại về mặt nhân sự và tài sản của nhân dân Miền Bắc cũng như là các nhà máy và di tích bị quân Trung Cộng đã cố tình phá hủy (theo tôi còn nhớ thì rất nhiều người vùng Biên giới bị mất mạng và các nhà máy ở Thái Nguyên Tuyên Quang (như là nhà máy làm lương khô, nhà máy chế tạo ping pong Tiền Phong, ... đều bị xóa sổ -- kể cả hang Pắc Pó.) Đây là những bằng chứng về sự dã man của cuộc chiến này mà thế hệ sau nên biết rõ.
LĐ
-
- Xin cám ơn ý kiến của anh LĐ, sẽ tìm thêm tài liệu và cho vào bài -- Huỳnh Tường Minh 12:13, ngày 01 tháng 11 năm 2005 (UTC)
- Về cách gọi tên các đơn vị PLA : từ trước tới nay tất cả các tài liệu của Việt Nam trong nước đều gọi tên các cấp đơn vị theo thứ tự tăng dần như sau :
Sư đoàn (division) - Quân đoàn (Corps) - Tập đoàn quân (Army) Trong PLA (thời kì nội chiến) thì cấp Army được gọi là Binh đoàn, cao hơn Binh đoàn là Dã chiến quân (Field Army), tương đương Phương diện quân (Front) của Liên Xô hoặc Cụm Tập đoàn quân (Group Army) của Đức quốc xã trong thế chiến. Theo thông tin ở đây : http://www.china-defense.com/orbat/pla_orbat/pla_orbat_02.html thì cấp Dã chiến quân (Field Army) và Binh đoàn (Army) được PLA bãi bỏ vào năm 1955. Cấp cao nhất còn lại là Quân đoàn (Corps). Theo tôi, do tổ chức quân đội của Việt Nam học từ tổ chức của Trung Quốc nên thông tin của các sách báo Việt Nam ở đây là đúng. Chẳng hạn như 55st Corps của Trung Quốc năm 1979 có 3 sư đoàn 163, 164, 165, là đúng bằng một Quân đoàn của Việt Nam. Ngoài ra các tài liệu từ quân đội Việt Nam vẫn nhắc đến các Quân đoàn (Corps) của PLA và không nói gì tới một cấp nào cao hơn (Army hay Field Army).
- Về danh sách các đơn vị PLA : danh sách 28 sư đoàn thuộc 9 quân đoàn PLA mà tôi đã đưa ở trên được lấy từ forum china-defense.com. Tôi đã đối chiếu nó với tài liệu Việt Nam và thấy hoàn toàn khớp. Do vậy đây có lẽ là danh sách chính xác.
Biên chế thông thường của một sư đoàn PLA là khoảng 10.000-13.000 người, nhân với 28 sư đoàn ta sẽ có số quân Trung Quốc khoảng trên 300.000 người. Đây mới chỉ là tính số bộ binh chủ lực, còn chưa tính quân thuộc các binh chủng xe tăng, pháo binh, hậu cần, không quân, hải quân... được huy động, chưa tính số quân địa phương, dân binh... cũng tham gia. Con số 250.000 như trên theo ý kiến cá nhân thấp hơn nhiều so với thực tế. Tài liệu Việt Nam thì cho rằng tổng cộng Trung Quốc huy động 600.000 người.
- Về danh sách các đơn vị Việt Nam, hiện không có một tài liệu nào thống kê chính xác toàn bộ, tôi đã thử sưu tầm nhưng chỉ lập được một danh sách chưa hoàn chỉnh như sau :
- Cấp sư đoàn : 3, 311, 316, 323, 328, 325B, 338, 346, 334 (công binh).
- Cấp trung đoàn : 4 (thuộc sư 337), 52 (thuộc su 337), 42 (thuộc sư 327), 43, 192, 196, 218, 254, 567, 741, 852, 12 (biên phòng), 16 (biên phòng), 166 (pháo binh), 268 (pháo binh), 272 (cao xạ)...
Truong Son 04:53, ngày 01 tháng 11 năm 2005 (UTC)
-
- Cám Ơn anh Truong Son, Orbat tại [[5]] mà anh đã dẫn là do tác giả, học giả Xinhui của china-defense.com, trích từ tài liệu của RAND, Table 1.1, Chương 1, [[6]] như tôi đã dẫn trên. Chi tiết tôi trích dẫn là cũng từ tài liệu đó, Table 1.2, Chương 1. Theo thiển ý, ông Xinhui viết chính xác và thường cung cấp tài liệu tham khảo đầy đủ ở trang cuối bài nên rất đáng tin cậy. (Rất tiếc bài nầy không vào được trang cuối). Cũng cám ơn anh đã giải thích rất rõ ràng về ước lượng số quân tham chiến, các tài liệu mà tôi được đọc trước đây không chỉ dẫn rõ ràng như anh. Để thông qua phần nầy cho đến khi có thêm tài liệu, xin anh Truong Son thảo phần Tương quan lực luợng tham chiến dựa theo tài liệu anh có, và cho vào bài. Xin anh cũng cho nguồn tham khảo, nhất là các tài liệu VN. Xin Cám Ơn --- Huỳnh Tường Minh 12:13, ngày 01 tháng 11 năm 2005 (UTC)
Các tài liệu chính của Việt Nam mà tôi đã tham khảo gồm :
- Chinese Aggression : How and Why it failed, NXB Ngoại ngữ 1979.
- Sư đoàn Sao Vàng, NXB Quân đội nhân dân, 1980 (sư đoàn Sao Vàng tức sư đoàn 3, là đơn vị chính của Việt Nam phòng thủ Lạng Sơn năm 1979).
- Binh đoàn Hương Giang, NXB Quân đội nhân dân, 1985 (binh đoàn Hương Giang tức quân đoàn 2, năm 1979 sư đoàn 304 và 325 thuộc quân đoàn này đã được không vận từ Campuchia lên Lạng Sơn).
- Ngoại giao Việt Nam, NXB Công an nhân dân, 1997.
- Việt Nam thế kỉ XX những sự kiện lịch sử quân sự, NXB Quân đội nhân dân 2001.
Thông tin về quân Trung Quốc mà các sách trên đưa ra được chú thích là từ "tài liệu nghiên cứu về địch của Bộ Tổng tham mưu Việt Nam". Ngoài ra danh sách các đơn vị Việt Nam được tổng hợp (chưa đầy đủ) từ sách lịch sử một số quân đoàn, sư đoàn Việt Nam, các tập kí sự viết về những gương chiến đấu của Việt Nam... Truong Son 12:46, ngày 01 tháng 11 năm 2005 (UTC)
-
- Rất cám ơn anh Truong Son, tôi sẽ cố gắng tìm đọc các tài liệu nầy--tuy nhiên
- quyển Sư đoàn Sao Vàng hiện tại tôi chỉ có thể đọc bản (1984) Su´ doàn Sao Vàng : Binh doàn Chi Lang Quân khu 1 : ký su´.Hà Nôi : NXB Quân dôi nhân dân, 1984. Không tìm thấy bản anh ghi (1980)
- quyển Ngoại giao Việt Nam thì chỉ thấy có hai bản nầy (1) Ngoai giao Viêt Nam, 1945-1995 / Lu´u Van Lo´i. [Hà Nôi] : Nhà xu´ât b?an Công an nhân dân, 2004. (2)Ngoai giao Viêt Nam, 1945-2000 / [ban biên soan, Nguy~ên Ðình Bin, ch?u biên ... [et al.]] Hà Nôi : Nhà xu´ât b?an Chính tri qu´ôc gia, 2002. không tìm thấy bản anh ghi (1997)
- Cũng có thắc mắc : như anh liệt kê, thì 304 và 325 có mặt tại Lạng Sơn, và theo các tài liệu ngoại ngữ thì TQ tấn công vào đó trước khi lui quân. Nhưng sao không thấy 304, 325 trong danh sách các đơn vị tham chiến anh nêu ra trước đây ?? --- Huỳnh Tường Minh 13:30, ngày 01 tháng 11 năm 2005 (UTC)
- Rất cám ơn anh Truong Son, tôi sẽ cố gắng tìm đọc các tài liệu nầy--tuy nhiên
- Quyển Sư đoàn Sao Vàng mà tôi dùng được xuất bản lần đầu năm 1980 nhân kỷ niệm 15 năm ngày thành lập sư đoàn (1965-1980), hiện lưu ở thư viện Hà Nội. Quyển năm 1984 có lẽ là tái bản sau này.
- Quyển Ngoại giao Việt Nam đúng là của Lưu Văn Lợi, do NXB Công an nhân dân phát hành. Có thể đã nhớ sai năm phát hành. Tôi sẽ kiểm tra lại.
- Sư đoàn 304 và 325 có mặt Lạng Sơn nhưng triển khai ở tuyến sau, chưa kịp tham chiến thì Trung Quốc đã rút quân. Vì thế tôi không đưa vào danh sách. Nhiều đơn vị khác (như sư đoàn 311, 323, 328) cũng chỉ biết là có mặt ở biên giới thời điểm Trung Quốc tấn công chứ không xác định được là có tham chiến không.
Truong Son 15:41, ngày 01 tháng 11 năm 2005 (UTC)
-
- Xin cảm ơn bạn Truong Son chỉ dẫn rất tường tận rõ ràng, nay tôi được hiểu rõ hơn. Se ~ soạn lại phần tương quan lực lượng theo tài liệu của bạn . --- Huỳnh Tường Minh 18:42, ngày 03 tháng 11 năm 2005 (UTC)
[sửa] Tham Khảo thêm
"Trung Quốc dồn sức hiện đại hóa các đơn vị chủ lực và đã thành công. Điều này sẽ thấy rõ sau này trong Chiến tranh biên giới Việt Trung 1984-1988, khi Việt Nam tổn thất nặng nề"==>xin anh Minh cho biết thêm về điều này được không. Theo tôi biết thì việc Việt Nam thiệt hại nặng trong giai đoạn 1984-1988 chỉ là do Trung Quốc nói thôi, chứ tài liệu phương Tây gần như không có. Truong Son 05:59, ngày 05 tháng 11 năm 2005 (UTC)
- Tôi xử dụng Dyadic Militarized Interstate Disputes Data (viết tắt là MID hay MIDD hay DyDMID) phiên bản đặc biệt. MID là 1 data set có dữ liệu tất cả các cuộc chiến tranh từ 1816 đến 2001, ghi rõ kết quả, thương vong và tương quan đôi bên cho hơn 4300 trận chiến toàn thế giới. Có phiên bản dành cho công chúng (xem bên dưới). Anh Truong Son có thể vào đó để tham khảo thêm về so sánh các cuộc chiến Trung-Việt (trận 1979 code là 3007, và các trận 1984-1988 code bắt đầu 3622 đến 3628) Trung Quốc code CHN, Việt Nam code DRV và RVN (chỉ Việt Nam Cộng Hòa ). Nếu anh xử dụng trong bài thì họ có chỉ dẫn cho cách nêu nguồn, nếu anh có thắc mắc có thể trao đổi thêm. Nghiên cứu data này, anh Truong Son sẽ rất đau lòng khi thấy miền Nam Việt Nam đơn độc chiến đấu với Trung Quốc suốt những năm 1964,65,66,67,68,69,70,71 và cuối cùng là 1974 khi mất quần đảo Hoàng Sa. Đây là điều tài liệu phương Tây hoàn toàn không bao giờ đề cập, và theo tôi là vết nhơ trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam, khi chúng ta mãi lo cắn xé nhau mà quên đi mốí thù truyền kiếp với anh láng giềng to con phương Bắc.
- DYDMID/MID locations:
- Chúc anh may mắn --- Huỳnh Tường Minh 11:24, ngày 05 tháng 11 năm 2005 (UTC)
Tôi đã sửa và bổ sung thêm vào phần Tương quan lực lượng và Diễn biến. Mong anh Minh và mọi người cho ý kiến. Truong Son 04:40, ngày 13 tháng 11 năm 2005 (UTC)
- Cảm ơn anh Truong Son bổ sung rất tốt. Theo tài liệu của Trường Cao Đẳng Chiến Tranh thuộc Đại Học Quốc Phòng, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì họ ước lượng TQ có 250.00-300.000 quân tham chiến. Anh có thể xem tại các tài liệu và link tôi liệt kê bên dưới. Riêng phần kết quả cuộc chiến, các con số do bạn Thành_viên:duongdttt đưa vào có khác biệt với các con số mà tôi có từ nguồn Hoa Kỳ, ước lượng từ 20.000 đến 46.000 quân TQ thương vong, và Việt Nam khoảng 50.000 thương vong. Nếu anh Truong Son có tài liệu nào về thương vong phía Việt Nam, của Việt Nam, thì hay lắm, ta đối chiếu thêm.
- “China's Border Wars: Two Studies in Diplomacy and Deterrence--India (1962) and Vietnam (1979),” Lt Col Eric K. Shinseki, National War College, National Defense University, U.S. Department of Defense, Strategic Studies Report no. 86-3D-28S: Washington D.C. February 1986. [[9]]
- “Fighting To Make A Point: Policy-Making By Aggressive War On The Chinese Borders,” Roy C. Pettis, Jr., National War College, National Defense University, U.S. Department of Defense: Washington D.C. 2002 [[10]]
- "The Sino-Viet War: Causes, Conduct, and Consequences," Charles R. Nelson, Parameters, Vol. IX, No. 3, September 1979, pp. 23-30.
- The Sino-Vietnamese War. Eugene K.Lawson, Hong Kong: Kingsway International Publications, 1981.
- --- Huỳnh Tường Minh 14:25, ngày 14 tháng 11 năm 2005 (UTC)
Thương vong do VN tự đưa ra thì rất tiếc là không có. Ban đầu tôi định bổ sung thêm vào phần kết quả cuộc chiến một số liệu của phương Tây (bên cạnh số liệu VN và TQ), nhưng sau phải bỏ, vì có quá nhiều chênh lệch giữa các nguồn. Ví dụ :
- "The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”", Russell D. Howard, USAF Institute for National Security Studies, USAF Academy, Colorado [[11]] : TQ mất 60.000 người (trong đó có 26.000 người chết).
- "The Sino Vietnamese War", Li Man Kin, Kingsway International Publications, 1981 :
- TQ có 26.000 người chết, 37.000 người bị thương, 260 người bị bắt, thiệt hại 420 xe tăng thiết giáp, 66 khẩu pháo cối.
- VN có 30.000 người chết, 32.000 người bị thương, 1.638 người bị bắt, thiệt hại 185 xe tăng thiết giáp, 200 khẩu pháo cối, 6 dàn tên lửa.
- "International Conflict : A Chronological Encyclopedia of Conflicts and Their Management 1945-1995" (1997), từ 1979-1982 có 50.000 người chết của cả hai bên.
- “Fighting To Make A Point: Policy-Making By Aggressive War On The Chinese Borders”, Roy C. Pettis, Jr., National War College, National Defense University, U.S. Department of Defense: Washington D.C. 2002 : TQ mất 46.000 người và 400 xe tăng.
Con số tôi thấy nhắc đến nhiều nhất là 20.000 người chết của cả hai bên, ví dụ từ :
- "World Political Almanac", 3rd Ed. (Facts on File: 1995), Chris Cook
- "Vietnam in Military Statistics" (1995), Michael Clodfelter.
- "SIPRI Yearbook" (1988), Stockholm International Peace Research Institute : cả hai bên có 30.000 người chết (21.000 binh lính và 9.000 dân thường).
- "Resort to Arms : International and Civil Wars 1816-1980" (1982), Melvin Small & Joel David Singer : VN có 8.000 người chết, TQ có 13.000 người chết.
(Những số liệu trên trích lại ở đây [[12]]).
Theo ý kiến cá nhân thì có lẽ hợp lý nhất là TQ chết 13.000 người, VN chết 8.000 người (có thể dao động chút ít). Nhưng không rõ ý kiến anh Minh thế nào ? Truong Son 10:19, ngày 15 tháng 11 năm 2005 (UTC)
- Xin đồng ý với anh Truong Son.Theo DyDMID thì thương vong hai bên đều cao hơn, nhưng tôi không xác định được nguồn từ đâu họ có. Trong các tài liệu liệt kê ở đây, tôi thấy Báo cáo của Trung Tá Shinseki là có độ chính xác cao. Tuy nhiên ta có thể dùng hai con số (13K/8K) anh Truong Son nêu trên trong bài viết, rồi có phần chú thích trên đầu trang thảo luận này về việc có nhiều chênh lệch giữa các nguồn, và liệt kê các nguồn ở đó cho người đọc tùy nghi nhận định. Theo tôi thì như vậy cũng tạm đầy đủ cho bài nầy. -- Huỳnh Tường Minh 12:28, ngày 15 tháng 11 năm 2005 (UTC)
[sửa] cho tôi hỏi với
Cho tới nay chính tôi vẫn chưa thuyết phục về nguên nhân chiến tranh biên giới Viêt-Trung ,ai có thể nói rõ ràng và thuết phục hơn được hơn cho tôi hiểu biết thêm với được không. Yahoo:ngcs_sam@yahoo.com xin cam ơn Kimchungsam 10:24, 13 tháng 8 2006 (UTC)