Di truyền
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Di truyền (tiếng Anh: heredity) là hiện tượng chuyển những tính trạng của cha mẹ cho con cái thông qua gen của bố mẹ.
Trong sinh học, di truyền chuyển những đặc trưng sinh học từ một sinh vật cha mẹ đến con cái và nó đồng nghĩa với di chuyển gen, gen thừa nhận mang thông tin sinh học (hay thông tin di truyền). Ở con người, xác định dặc trưng nào phụ thuộc vào di truyền và môi trường thường gây tranh cãi đặc biệt là đối với những đặc tính phức tạp như là thông minh và giống hay tự nhiên và nuôi dưỡng.
[sửa] Lịch sử
Từ thời thượng cổ, người ta đã nhận thức được rằng mọi sinh vật từ thực vật đến động vật đều thể hiện ít nhiều những đặc tính từ cha và mẹ; và khác biệt giữa con và cha mẹ cũng thường được truyền lại cho thế hệ cháu. Từ đó, con người dò đoán và tìm được phương pháp tuyển chọn và phát triển giống tốt cho gia súc cũng như rau cải, lúa gạo, v.v... . Hiện tượng di truyền được con người chấp nhận như chuyện hiển nhiên cho đấn cuối thế kỷ 19 mới có giải thích khoa học hơn.
Nhóm nghiên cứu di truyền theo chủ thuyết Lamarck cho rằng ngoài di truyền của nhựng biểu hiện bẩm sinh còn có di truyền của những biểu hiện mắc phải (gây nên) bởi môi trường.
Charles Darwin đưa lên giả thuyết về tiến hoá vào năm 1859 nhưng gặp một số khúc mắc - khó khăn nhất là giải thích phưong thức của di truyền. Darwin cho rằng có pha trộn giữa di truyền bẩm sinh và di truyền của những biểu hiện gây nên bởi môi trường. Nhưng nếu thật sự có sự pha trộn này, chỉ sau một vài thế hệ sẽ nảy sinh ra hiện tượng đồng dạng của toàn chủng và sẽ không có đủ biến dị để sự tuyển chọn tự nhiên có thể xảy ra. Do đó, Darwin phải tiếp thu phần nào giả thuyết của Lamarck vào công trình nghiên cứu của ông. Cách trình bày của Darwin về di truyền là cho thấy nó xảy ra như thế nào và người ta có thể dự đoán hướng di truyền trong thế hệ tới (thí dụ những đặc tính được di truyền nhưng không biểu hiện ở cha hay mẹ vào lúc thụ thai, nhiều cá tính di truyền phân biệt theo giống đực hay cái). Phương thức của di truyền thì Darwin không giải thích được.
Darwin's initial model of heredity was adopted by, and then heavily modified by, his cousin Francis Galton, who laid the framework for the biometric school of heredity. Galton rejected the aspects of Darwin's pangenesis model which relied on acquired traits.
The inheritance of acquired traits was shown to have little basis in the 1880s when August Weismann cut the tails off many generations of mice to find that their offspring did continue to develop tails.
The idea of particulate inheritance of genes can be attributed to the Austrian monk Gregor Mendel who published his work on pea plants in 1865. However, his work was not widely known and was rediscovered in 1901. It was initially assumed the Mendelian inheritance only accounted for large (qualitative) differences, such as those seen by Mendel in his pea plants — and the idea of additive effect of (quantitative) genes was not realised until Ronald Fisher's (1918) paper on The Correlation Between Relatives on the Supposition of Mendelian Inheritance. For the subsequent history of genetics, see history of genetics.
In the 1930s, work by Fisher and others resulted in a combination of Mendelian and biometric schools into the modern synthesis of evolution.
Trofim Lysenko however caused a backlash of what is now called Lysenkoism in the Soviet Union when he emphasised Lamarckian ideas on the inheritance of acquired traits. This movement affected agricultural research and led to food shortages in the 1960s and seriously affected the USSR.