Lương Châu từ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lương Châu từ là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng của Vương Hàn (王翰) được sáng tác từ tên gọi của một điệu hát cổ của người Trung Hoa nói về chủ đề trận mạc, biên ải. Trong thơ cổ Trung Hoa, nhiều điệu hát dân gian như các từ, khúc Thượng chi hồi, Chiến thành nam, Tương tiến tửu, Hoàng tước hành, Lạc mai hoa... được rất nhiều nhà thơ ưa chuộng và thường dùng để đặt tên cho tác phẩm của mình, đặc biệt trong Đường thi.
Vương Chi Hoán, một tác giả thời Sơ Đường cũng có bài thơ Lương Châu từ (hay còn có tên Xuất tái-Lương Châu từ) nhưng không nổi tiếng bằng.
Mục lục |
[sửa] Tác phẩm
- 葡萄美酒夜光杯,
- 欲飲琵琶馬上催。
- 醉臥沙場君莫笑,
- 古來征戰幾人回。
[sửa] Phiên âm
- Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
- Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
- Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
- Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
[sửa] Dịch nghĩa
- Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
- Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
- Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười
- Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
[sửa] Dịch thơ
- Bồ đào rượu ngát chén lưu ly
- Toan nhắp tỳ bà đã giục đi
- Say khướt sa trường anh chớ mỉa
- Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
(Trần Quang Trân)
- Rượu bồ - đào, chén dạ quang
- Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
- Sa trường say ngủ ai cười
- Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu
(Trần Trọng San)
- Rượu ngon, ly cốc ngời ngời
- Chưa chi đã giục "Chàng ơi lên đường!"
- Đừng cười gã sỉn nằm sương
- Mấy ai chiến đấu còn đường rút lui.
(Hoàng Đình Quang)
[sửa] Lời bình
[sửa] Tham khảo
1. Lê Nguyễn Lưu, Đường Thi Tuyển dịch, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1997.
2. Trần Trọng San, Thơ Đường, Tủ sách Đại học Tổng hợp TpHCM, 1990.
3. Đinh Vũ Ngọc, Đường thi cảm dịch, Nxb Đà Nẵng, 1999.
6. Ngày xuân đọc lại Lương Châu từ...
[sửa] Chú thích
1. Vương Hàn (687 – 726) tự Tử Vũ người Tấn Dương, Tinh Châu, Sơn Tây- sống vào thời Thịnh Đường. Năm 710 ông đậu tiến sĩ và ra làm quan. Bài từ này Vương Hàn làm năm 713 khi bị biếm chức tại Lương Châu.
2. Lương Châu nay thuộc tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc. Chữ "mã thượng" trong bài "Lương Châu từ" của Vương Hàn. Câu thứ hai "Dục ấm, tì bà mã thượng thôi", phần lớn các bản dịch từ trước đến nay đều hiểu sai và dịch chữ " mã thượng" chưa chính xác:
Toan uống thì tiếng tì bà đã giục lên ngựa (dịch xuôi của Trần Trọng San). Muốn uống tiếng đàn đã giục lên ngựa (dịch xuôi của Nguyễn Hà). Toan nhắm, đàn vang, giục ngựa đi (dịch thơ của Nguyễn Hà) Tì bà giục giã ngựa đang đợi người (Lê Hữu Giáp) Toan uống, tì bà giục ngựa đi ( Lê Nguyễn Lưu)
"Mã thượng" trong câu này không có nghĩa là giục lên ngựa. Đây là một bài thơ tả cảnh sinh hoạt - một buổi " liên hoan", một tiệc rượu trong quân đội ngày xưa ở Trung Quốc có rượu nho hảo hạng lại được rót vào một loại chén đặc biệt ("Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi"). Rượu đã rót sẵn, mọi người đã ngồi vào chiếu tiệc, sắp nâng cốc thì tiếng đàn tì bà trên lưng ngựa tấu lên giúp cho không khí buổi " liên hoan thêm sôi nổi và phấn hứng tựa hồ như đoàn quân đang rầm rập ra trận. Ngày xưa ở Tây Vực người ta ngồi trên lưng ngựa để đánh đàn tì bà, do đó câu này không có nghĩa là đánh đàn để giục quân sĩ lên ngựa hành quân khi chưa kịp uống, mà ngược lại tiếng đàn trên lưng ngựa chỉ giúp cho bữa tiệc thêm vui, thêm phấn chấn và khuyến khích mọi người cứ uống nữa đi, uống cho say tuý luý... vì "xưa nay chinh chiến mấy ai về". Nếu chưa uống mà đã phải lên ngựa hành quân thì làm sao có thể "say nằm trên bãi cát" (!)... như ông Lê Nguyễn Lựu dịch (2) được.
Chữ "mã thượng" ở đây cũng không thể hiểu theo nghĩa bạch thoại là " ngay lập tức, tức thì" như Nguyễn Tuyết Hạnh đề xuất.(3)
Trên đây là một số trường hợp tiêu biểu, nếu các bạn có điều kiện đọc kĩ những bản tuyển dịch thơ Đường chắc sẽ phát hiện được nhiều điều thú vị.
Qua vài ví dụ vừa nêu, ta thấy việc dịch thơ Đường cũng lắm công phu, ai đó đã nói " dịch là phản" (traduire C'est trahir) xem ra có vẻ cực đoan, nhưng có lẽ cũng không sai với những trường hợp trên đây.