Avril Lavigne
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Avril Ramona Lavigne (sinh 27 tháng 9, 1984) là một ca sĩ, nhạc sĩ người Canada. Hai đĩa của cô, Let Go (2002) và Under My Skin (2004), đã trở thành bán chạy nhất trong nhiều quốc gia.
Mục lục |
[sửa] Sự nghiệp
![]() |
Chất lượng (dịch thuật) của bài/đoạn dưới đây không được hoàn hảo. Xin hãy cẩn thận khi đọc bài vì một số thông tin của bài có thể không đáng tin cậy, xin xem lý do ở trang thảo luận. Nếu bạn có khả năng sửa, xin mời bạn tham gia hiệu đính lại bài này. Người đặt thông báo chú ý: Xin hãy đảm bảo rằng trang thảo luận của bài có nêu ra lý do tại sao chất lượng dịch không tốt. |
[sửa] Năm 2002
- Tháng 6:
&&Phát hành LP đầu tay - Let Go
- Tháng 7:
- Let Go được trao tặng đĩa bạch kim
- Complicated lên #1 tại Billboard Top 40 tracks trong 7 tuần
- Tháng 8:
- Complicated lên #1 tại Billboard Adult Top 40 chart trong 16 tuần
- Complicated lên #1 tại Canada
- Sk8erboi bắt đầu xuất hiện trên các chart
- Avril tháng giải Best New Artist tại VMA với video Compliacted và biểu diễn lúc mở màn buổi lễ trao gỉai
- Let Go được trao tặng đĩa bạch kim thứ 2
- Tháng 9:
- Let Go nhận được đĩa bạch kim thứ 3
- Let Go lên #1 tại LP chart ở Canada
- Bài hát "Falling Down" của Avril được chọn làm soundtrack cho bộ phim Sweet Home Alabama
- Tháng 10:
- Sk8erboi bắt đầu tấn công mạnh trân các chart
- Avril thắng giải Best New Artist, international tại MTV Video Music Award Latin America
- Tháng 11:
- I'm With You bắt đầu có mặt trên các bảng xếp hạng
- Tháng 12:
- Let Go được trao tặng đĩa bạch kim thứ 4
- I'm With You bắt đầu bon chen lên những vị trí cao trong 1 số bảng xếp hãng
- Let Go kết thúc 1 năm đầy vinh quang khi đứng #3 trong bảng xếp hạng biggest selling LP of the year với hơn 4,1 triệu dĩa được bán tại Mỹ
- Đọc giả của tạp chí Rolling Stone đã bầu chọn Avril là Best Female Performer and Best New Artist.
[sửa] Năm 2003
- Tháng 1:
- Avril dẫn đầu bảng xếp hạng LP của UK trong 3 tuần
- Let Go nhận đĩa bạch kim thứ 5
- Avril biểu diễn tại chương trình Saturday Night Live
- Avril thắng 3 giải tại MTV Asia Awards
- Tháng 2:
- I'm With You thật sự tấn công mạnh trên các chart
- Avril được đề cử 5 giải cho Grammy 2003 bao gồm Song of the Year, Best Female Pop Vocal Performance ("Complicated"), Best Pop Vocal Album (Let Go), Best Rock Vocal Performance - Female ("Sk8er Boi") , và Best New Artist. Avril cũng đã biểu diễn tại lễ trao giải.
- I'm With You lên #1 tại Billboard Adult Top 40 trong 10 tuần
- Tháng 3:
- Avril xuất hiện trên bìa tạp chí Rolling Stone.
- Tháng 4:
- Losing Grip bắt đầu xuất hiện trên các chart
- Avril thắng 4 giải tại June Awards gồm Single of the Year ("Complicated"), Album of the Year, Pop Album of the Year (Let Go), New Artist of the Year và được đề cử ờ 2 hạng mục khác
- Avril bắt đầu tour diễn đầu tiên của mình ở Montreal
- Avril thắng giải Favorite Song ("Sk8er Boi") tại Nickelodeon Kids' Choice Award
- Let Go được trao đĩa bạch kim thứ 6
- Tháng 5:
- Losing Grip lọt vào Top 10 1 vài chart
- Tháng 6:
- Avril thắng 2 giải Best International Video by a Canadian ("Sk8er Boi") và People Choice Award for Favorite Canadian Artist tại Much Music Awards
- Tháng 7:
- "I Dont Give" của Avril được chọn làm soundtrack cho bộ phim American Wedding
- Tháng 8:
- I'm With You được đề cử 2 giải Best Female Video và Best Pop Video tại VMA
- Tháng 10:
- Avril chiến thắng tại World Music Award cho giải thưởng Best Canadian Pop/Rock Artist.
- Avril chiến thắng tại Radio Music Awards với giải thưởng Song of the Year - Modern Adult Contemporary Radio ("Complicated").
- Tháng 11:
- Avril được đề cử cho giải Favorite Pop/Rock Female Artist tại AMAs
- Phát hành DVD My World
[sửa] Năm 2004
- Tháng 2:
- Avril được đề cử 3 giải tại Grammy bao gồm Best Female Pop Vocal Performance, Song of the Year (songwriter) ("I'm With You" with The Matrix), and Best Rock Vocal Performance - Female ("Losing Grip").
- Tháng 4:
- Don't Tell Me bắt đầu có mặt trong các bảng xếp hạng
- Tháng 5:
- Don't Tell Me bắt đầu leo cao lên các bảng xếp hạng
- Avril biểu diễn tại Saturday Night Live
- Avril phát hàng album thứ 2 Under My Skin
- Tháng 6:
- Under My Skin debut ngay tại vị trí số 1 trên Billboard Top 200
- Albums và bán được 381,000 bản tại Mỹ trong tuần phát hành đầu tiên
- Under My Skin cũng giữ ngôi vị quán quân tại UK và Canada
- Tháng 7:
- My Happy Ending bắt đầu đặt những bước chân đầu tiên lên các bảng xếp hạng
- "Knocking On Heaven's Door" của Avril được chọn vào LP Unity - Thế vận hội năm 2004 tại Athens
- Under My Skin được trao tặng đĩa bạch kim
- Tháng 8:
- "I Always Get What I Want" được chọn làm soundtrack cho bộ phim The Princess Diaries 2: Royal Engagement
- My Happy Ending bắt đầu tạo nên 1 làng sóng trên các chart
- "Don't Tell Me" được đề cử cho giải Best Pop video tại VMAs
- Tháng 9:
- Avril 1 lần nữa chiến thắng tại World Music Award cho giải Best Pop/Rock Artist
- Tháng 10:
- My Happy ending lên #1 13 tuần tại Đài Loan và #1 trên Billboard Mainstream Top 40 cùng #1 một số chart khác
- Single "Don't Tell Me" được trao đĩa vàng tại Mỹ
- Nobody's Home bắt đầu xuất hiện thay thế cho My Happy Ending trong các chart
- Tháng 11:
- Avril được đề cử giải Favorite Pop/Rock Female Artist tại AMAs.
- Under My Skin được trao tặng đĩa bạch kim thứ 2
- Single My Happy Ending được hiệp hội RIIA (Mỹ) trao tặng đĩa vàng
- Tháng 12:
- Nobody's Home bắt đầu có tên trên nhiều chart
[sửa] Năm 2005
- Tháng 1:
- "My Happy Ending" được trao tặng đĩa bạch kim
- Tháng 2:
- "He Wasn't" bắt đầu xuất hiện
- Tháng 3:
- Nobody's Home được trao tặng đĩa vàng
- Tháng 4:
- Avril giành 1 giải tại Kid's Choice Award cho danh hiệu Favorite Female Singer
- Tháng 5:
- "He Wasn't" lên #1 tại Canada
- "Fall To Pieces" có mặt trên 1 vài charts nhỏ ở Mỹ
- Tháng 6:
- Avril đính hôn với Deryck Whibley của Sum 41
- Tháng 7:
- "Fall to Pieces" lọt vào World Adult Top 20 và Top 20 của Billboard Adult