Nhật Bản
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Mục từ Nhật dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Nhật (định hướng).
|
|||||
Khẩu hiệu quốc gia: 平和と進歩 (Hòa Bình và Tiến Bộ) | |||||
Quốc ca: Kimi Ga Yo (君が代) | |||||
![]() |
|||||
Thủ đô | Tokyo
|
||||
Thành phố lớn nhất | Yokohama ¹ | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Nhật | ||||
Chính phủ | Quân chủ lập hiến Akihito (明仁 Minh Nhân) Abe Shinzo (安倍 晋三 An Bội Tấn Tam) |
||||
Độc lập • Hiến pháp áp dụng • Hiệp ước được ký • Chủ quyền |
Từ lực lượng Đồng Minh Ngày 3 tháng 5, 1947 Tháng 9 năm 1951 Ngày 28 tháng 4, 1952 |
||||
Diện tích • Tổng số • Nước (%) |
377.835 km² (hạng 60) 0,8% |
||||
Dân số • Ước lượng • Thống kê dân số 2005 • Mật độ |
127.417.244 337 người/km² |
||||
HDI (2005) | 0,949 (hạng 7) – cao | ||||
GDP (2006) • Tổng số (PPP) • Trên đầu người (PPP) |
4.167 tỷ Mỹ kim (hạng 3) 35.757 đô la (hạng 14) |
||||
Đơn vị tiền tệ | Yên (¥, 円 (Yên), JPY ) |
||||
Múi giờ • Quy ước giờ mùa hè |
JST (UTC+9) Không áp dụng |
||||
Tên miền Internet | .jp |
||||
Mã số điện thoại | +81 | ||||
¹ Tokyo là một tỉnh, chứ không phải là thành phố. Nói chính xác hơn, Khu vực Đại Tokyo là khu vực đô thị lớn nhất, và Yokohama là thành phố lớn nhất. |
Nhật Bản (tiếng Nhật: 日本国 Nihon-koku/Nippon-koku; Hán-Việt: Nhật Bản quốc, chữ Bản 本 trong các văn bản cũ cũng được đọc là Bổn), cũng được gọi tắt là Nhật, là tên của một quốc gia hải đảo hình vòng cung, có diện tích tổng cộng là 377,834 km² nằm xoải theo bên sườn phía đông lục địa châu Á. Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt. Nước Nhật có 4 đảo chính, theo thứ tự từ bắc xuống nam là: Bắc Hải Đạo (北海道 Hokkaido), Bản Châu (本州 Honshu), Tứ Quốc (四国 Shikoku) và Cửu Châu (九州 Kyushu) cùng hàng ngàn đảo nhỏ chung quanh.
Tên "Nhật Bản" viết theo chữ cái Latinh (Romaji) là Nihon hoặc Nippon (đọc là "Ni-hôn" hoặc "Níp-pôn"); theo chữ Hán hai chữ "Nhật Bản" có nghĩa là "gốc của Mặt Trời" và như thế, được hiểu là "xứ Mặt Trời mọc".
Nhật Bản còn có các mĩ danh là "xứ Hoa Anh Đào" - vì người Nhật rất thích trồng cây hoa anh đào khắp nước - hay "xứ Mặt Trời Mọc" (The Land of Rising Sun) - vì Nhật Bản là quốc gia ở vùng cực đông. Vào thế kỷ thứ 4, Nhật Bản đã tự lấy tên nước là Đại Hòa (大和 Yamato), vì vậy người Nhật còn được tự gọi hay nhận mình là Hòa Nhân (和人) và tiếng Nhật cũng được gọi là Hoà ngữ (和語). Thời xưa, Trung Hoa gọi Nhật Bản là Oa/Nuỵ Quốc (倭國, "nước của những người lùn"), hay Phù Tang (扶桑, xứ có nhiều cây phù tang, tức một loại cây dâu). Năm 670, năm đầu niên hiệu Hàm Hanh (670-674) nhà Đường (vua Đường Cao Tông), Nhật Bản gởi một sứ bộ đến chúc mừng triều đình Trung Quốc nhân dịp vừa bình định Cao Ly (Triều Tiên) và từ đó được đổi tên là Nhật Bản.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử Nhật Bản
Theo thần thoại Nhật Bản trong Cổ Sự Kí (古事記 Kojiki) viết vào đầu thế kỷ thứ 8, thuở ban sơ, vũ trụ chưa có hình thù. Có tới tám trăm vạn thần linh, sống ở trên Cánh Đồng Trời, từ đó nhìn xuống chỉ thấy bóng tối, sương mù và nước. Hai vị thần trong tuổi thanh xuân là chàng Izanagi và nàng Izanami nhận nhiệm vụ "làm cho mặt đất đi theo đời sống mà sinh sôi nẩy nở". Họ bước qua Thiên Phù Kiều, là chiếc cầu nối trời và đất, "quậy sóng" cho kết đọng lại thành đảo Onogoro và xuống đó, đây là sáng tạo đầu tiên của họ. Họ bắt tay dựng trụ trời và xây nhà trên quê hương mới.
Rồi hai vị thần trẻ quên mình là thần linh, sống như con người, kết hôn với nhau sinh "con" đầy đàn... Trong lúc Izanagi đang rửa mặt, thì bỗng nhiên từ mắt trái sinh ra Thiên Chiếu Đại Thần (天照大神 Amaterasu Omikami), nữ thần của nhan sắc và ánh sáng tượng trưng cho phụ nữ Nhật Bản) và từ mắt phải sinh ra Thần Mặt Trăng (月読命 Tsukiyom). Sau đó là Thần Bão (素戔嗚尊 Susanoo) từ mũi của mình.
Sau đó, Nữ thần Mặt Trời phái cháu trai của mình là Ninigi giáng thế, chinh phục vùng Izumo. Ninigi gặp và lấy con gái xinh đẹp của thần Oyamatsumi, sinh ra hai con trai là Hoderi và Hoori. Hoori sau lấy công chúa Thủy cung Toyotama sinh được một con trai. Người con trai này lấy em gái của Toyotama sinh ra bốn hoàng tử, họ chinh phục xứ Đại Hòa (大和 Yamato). Sau khi các anh chết, hoàng tử út lên ngôi xưng là Thiên Hoàng Thần Vũ (神武 Jinmu), đó là Thiên Hoàng đầu tiên gọi là Hoàng Kỷ (kỷ nguyên Thiên Hoàng), cai trị xứ Yamato, tức Nhật Bản, từ năm 660 TCN và truyền tới nay là 125 đời.
- Nước Nhật Bản được hình thành từ rất lâu đời, muộn nhất vào khoảng 660 năm TCN. Trong khoảng thế kỉ 7-8, nhà nước phong kiến được thiết lập. Từ cuối thế kỉ 12 đến giữa thế kỉ 19, nhóm quân phiệt Shogun (Shōgun) nắm giữ chính quyền. Cuộc Duy Tân dưới thời vua Minh Trị (Meiji Tennō) từ 1867-1868 đã tạo điều kiện phát triển theo chiều hướng tư bản chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa, Nhật Bản bắt đầu bành trướng. Từ 1894-1895, đã tấn công cướp bóc Trung Quốc (cuối đời nhà Thanh). Năm 1904-1905, chiến tranh với Nga. Năm 1910, sáp nhập Triều Tiên vào Đế quốc Nhật Bản. Năm 1931, chiếm Mãn Châu (Manchuria). Năm 1937, đánh Trung Quốc (Trung Hoa Dân quốc). Từ ngày 7 tháng 12 năm 1941, sau trận đánh Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), mở rộng chiến tranh ra Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Năm 1943, bị Hoa Kỳ và Đồng Minh phản công. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Mỹ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima, ngày 9 tháng 8 năm 1945, Mỹ ném quả bom thứ hai xuống Nagasaki. Ngày 8 tháng 8 năm 1945, Liên Xô tham chiến, đánh tan đội quân Quan Đông của Nhật. Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vào ngày 14 tháng 8 và vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 kí văn bản đầu hàng vô điều kiện, Mỹ đưa quân vào chiếm đóng. Ngày 8 tháng 9 năm 1951, kí Hoà ước San Francisco, sau đó Mỹ rút quân (trừ một số căn cứ còn lại cho đến ngày nay).
Lịch sử Nhật Bản được phân chia thành các thời kì chính sau đây.
[sửa] Nhật Bản buổi bình minh
Thời kỳ này, người Nhật, cũng như các dân tộc khác, sinh hoạt bằng săn bắn và đánh cá. Họ chịu ảnh hưởng văn hoá Triều Tiên và Trung Hoa. Đã bắt đầu trồng lúa và biết dùng kim thuộc.
Các thời kỳ chính bao gồm:
- Thời đại đồ đá cũ (15.000 năm đến 5.000 năm trước Công Nguyên)
- Thằng Văn Thời đại (縄文時代 Jomon), thời đại đồ gốm - 5.000 năm đến 200 năm trước CN
- Di Sinh Thời đại (弥生時代 Yayoi) - 200 năm trước CN đến năm 200 CN
- Cổ Phần Thời đại (古墳時代 Kofun), văn hoá "Gò mộ cổ" - cuối thế kỷ 3 đến cuối thế kỷ 6
- Phi Điểu Thời đại (飛鳥時代 Asuka) - cuối thế kỷ thứ 6 đến đầu thế kỷ thứ 8
- Nại Lương Thời đại (奈良時代 Nara) - đầu thế kỷ thứ 8 đến cuối thế kỷ thứ 8
[sửa] Nhật Bản thời trung cổ
Thời kì này, kinh đô được chuyển đến Bình An Kinh (平安京 Heian-kyo) và kéo dài gần 4 thế kỉ. Sau đó, chế độ Mạc Phủ (Shogun) hình thành rồi dẫn tới các cuộc cát cứ của các Sứ quân và Võ sĩ (samurai), gọi là thời Chiến Quốc. Các thời kì chính bao gồm:
- Bình An Thời đại (平安時代 Heian)
- Đầu Bình An - cuối thế kỷ thứ 8 đến cuối thế kỷ thứ 9
- Giữa Bình An - cuối thế kỷ thứ 9 đến cuối thế kỷ 11
- Cuối Bình An - cuối thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 12
- Liêm Thương Thời đại (鎌倉時代 Kamakura) - cuối thế kỷ 12 đến cuối thế kỷ 14
- Thất Đinh Thời đại (室町時代 Muromachi) - đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 15
[sửa] Nhật Bản thời đụng độ với phương Tây
Thời kì này, Nhật Bản đã phải bắt đầu đụng độ với các thế lực phương Tây và đạo Cơ Đốc. Năm 1603, Tokugawa lập Mạc Phủ, thống nhất đất nước. Các thời kì chính trong khoảng thời gian này gồm có:
- An Thổ-Đào Sơn Thời đại (安土桃山時代 Azuchi-Momoyama) - cuối thế kỷ 15 đến hết thế kỷ 16
- Giang Hộ Thời đại (江戸時代 Edo)
[sửa] Nhật Bản thời cải cách Minh Trị
Đây là thời Cận Đại của Nhật Bản gồm các niên đại sau:
- Minh Trị Thời đại (明治時代 Meiji)
- Đầu Minh Trị - Cuối thế kỷ 19
- Cuối Minh Trị - Đầu thế kỷ 20
[sửa] Nhật Bản thời chiến tranh
Hiệu quả của cuộc cải cách Minh Trị đã vô tình dẫn Nhật tới sự bành trướng về chủ nghĩa đế quốc thực dân. Cho tới trước khi chiến tranh kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần 5 lần diện tích quốc gia. Các thời kì chính bao gồm:
- Đại Chính Thời đại (大正時代 Taisho) - đầu thế kỷ 20
- Chiêu Hòa Thời đại (昭和時代 Showa)
- Đầu Chiêu Hòa - Đầu thế kỷ 20 đến giữa thế kỷ 20
[sửa] Nhật Bản sau chiến tranh
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, lần đầu tiên Thiên Hoàng Nhật Bản lên tiếng kêu gọi đầu hàng vô điều kiện trên đài phát thanh. Chấm dứt một cuộc chiến làm cho hơn 50 triệu người thương vong trên toàn thế giới. Có hai niên đại trong thời kì này.
- Cuối thời Chiêu Hòa - Giữa thế kỷ 20
- Bình Thành Thời đại (平成時代 Heisei) - cuối thế kỷ 20
Để biết thêm chi tiết, xin đọc bài Lịch sử Nhật Bản.
[sửa] Địa lí Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia hải đảo, có diện tích tổng cộng là 377,834 km². Đất đai của Nhật Bản là một dãy hải đảo trải theo hình vòng cung bên cạnh phía đông của lục địa Châu Á, dài 3,800 km. Địa hình chủ yếu là đồi núi (71%). Có nhiều núi nguồn gốc núi lửa, tiêu biểu là ngọn Phú Sỹ (Fuji) (3.776 m). Nhật Bản thường có động đất nhất trên thế giới., gây tổn thất nặng.
[sửa] Các khu vực hành chính Nhật Bản
Nhật Bản được chia thành 8 vùng (地方 chihō - địa phương). Tuy nhiên vùng không phải là một cấp hành chính chính thức. Cấp hành chính chính thức (dưới vùng) gồm 1 đô (Tokyo), 1 đạo (Hokkaido), 2 phủ (Osaka và Kyoto) và 43 huyện, gọi chung là 47 "đô đạo phủ huyện" (都道府県 todōfuken), dịch sang tiếng Anh là prefecture, tương đương cấp tỉnh ở Việt Nam. Đô đạo phủ huyện được chia thành các thành phố (市 shi - thị) và huyện (郡 gun - quận). Thành phố được chia thành các khu/quận (区 ku - khu), còn huyện được chia thành các thị trấn (町 chō/machi - đinh) và làng (村 son/mura - thôn).
Nhật Bản có hơn 3,900 hòn đảo nhỏ và 4 đảo lớn là đảo Honshu (本州 Bản Châu), hơi lớn hơn đảo Anh và chiếm khoảng 60% toàn thể diện tích, đảo Hokkaido (北海道 Bắc Hải Đạo), đảo Kyushu (九州 Cửu Châu) và đảo Shikoku (四国 Tứ Quốc). Trong số các hòn đảo nhỏ, đảo Okinawa (沖縄 Xung Thằng) là lớn nhất và quan trọng nhất, nằm giữa đường kéo dài từ mỏm phía cực tây của đảo Honshu tới đảo Đài Loan. Hòn đảo Okinawa này tuy thuộc về Nhật Bản nhưng trước kia do ở khá xa phần đất chính nên đã phát triển được một thứ văn hóa riêng và một số điểm khác biệt với nếp sống của bốn hòn đảo lớn.
Các vùng:
- Hokkaido gồm đạo Hokkaido
- Tohoku - nằm ở vị trí phía Bắc đảo Honshu, có 6 tỉnh
- Kanto - vùng bao gồm thủ đô Tokyo và thành phố Yokohama, có 7 tỉnh
- Chubu - vùng trung bộ bao gồm thành phố lớn thứ 4 Nhật Bản Nagoya, có 9 tỉnh
- Kansai - đôi khi còn được gọi là vùng Kinki. Đây là vùng cố đô bao gồm thành phố Osaka, Kyoto, Nara và Kobe, có 7 tỉnh, trong đó có 2 phủ
- Chugoku - bao gồm những thành phố chính như Hiroshima và Shimonoseki, có 5 tỉnh
- Shikoku - là đảo nhỏ nhất trong bốn đảo lớn nhất, có 4 tỉnh
- Kyushu - bao gồm những thành phố lớn như Fukuoka và Nagasaki, có 7 tỉnh
- Okinawa - nhóm đảo phía Nam Nhật Bản, là 1 tỉnh, được xếp vào vùng Kyushu
Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là đẹp nhất thế giới, đặc biệt nhất là ngọn núi Phú Sĩ (Fujisan) có tuyết trắng bao phủ nơi phần đỉnh núi. Núi Phú Sĩ là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ xứ Phù Tang cũng như của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương.
Để biết thêm chi tiết, xin đọc bài Địa lí Nhật Bản.
[sửa] Văn hoá Nhật Bản
Cho đến nay người ta vẫn chưa chắc chắn về xuất xứ và thời gian xuất hiện của những cư dân đầu tiên trên quần đảo Nhật Bản. Tuy nhiên, hầu hết các học giả đều cho rằng người Nhật đã có mặt tại quần đảo từ xa xưa và định cư liên tục từ đó cho đến thời nay. Những phát hiện trong nghiên cứu cổ vật, xương... đã củng cố thêm sự nghi ngờ đối với thuyết trước kia cho rằng người Nhật là con cháu của những người xâm chiếm đến sau "thổ dân" Ainu và đã đẩy bộ tộc này ra khỏi quần đảo. Ngày nay, người ta tin rằng tổ tiên của người Nhật là những người đã làm nên đồ gốm mang tên Jomon. Những người này được biết là đã có mặt trên quần đảo ít nhất từ năm 5000 TCN, sau đó theo thời gian, pha trộn với các giống người khác, phát triển qua lịch sử thành dân tộc Nhật Bản ngày nay.
Ngôn ngữ và phong tục của người Nhật gồm những thành tố văn hoá của cả phương Bắc lẫn phương Nam. Dưới góc độ sử dụng và cú pháp, rõ ràng tiếng Nhật thuộc hệ ngôn ngữ Altai của các dân tộc phía Bắc lục địa châu Á, song trong từ vựng lại có nhiều từ gốc từ phía Nam. Trong các tập quán và tín ngưỡng, ta thấy các lễ nghi gắn với văn hóa lúa nước vốn có nguồn gốc ở phía Nam; còn huyền thoại lập nước bởi vị thần - ông tổ của nòi giống - từ thiên đường xuống hạ giới thì có nguồn gốc ở phía Bắc. Vì vậy, người ta cho rằng dân cư ở đây có xuất xứ từ cả phương Bắc lẫn phương Nam, đến quần đảo Nhật Bản từ thời tiền sử và qua một quá trình hoà trộn các chủng tộc dần dần tạo ra dân tộc Nhật Bản.
Để biết thêm chi tiết, xin đọc bài Văn hoá Nhật Bản.
[sửa] Chính trị Nhật Bản
Hiến pháp của nước Nhật Bản, được công bố vào ngày 3 tháng 11 năm 1946 và có hiệu lực kể từ ngày 3 tháng 5 năm 1947, quy định rằng nhân dân Nhật Bản thề nguyện trung thành với các lý tưởng hòa bình và trật tự dân chủ. Bản hiến pháp này khác hẳn với bản Hiến pháp Minh Trị năm 1889 ở các điểm sau:
- Thiên hoàng Nhật Bản chỉ là "biểu tượng" của Quốc Gia (symbol of the State) và của sự đoàn kết nhân dân. Quyền hành của đất nước thuộc về người dân.
- Nhật Bản từ bỏ chiến tranh và mọi đe dọa, hay cách dùng võ lực để giải quyết các tranh chấp với các nước khác.
- Nhân quyền căn bản được bảo đảm là vĩnh cửu và không thể bị xâm phạm.
- Hội đồng Quý tộc (House of Peers) trước kia được thay thế bằng Thượng viện (House of Councillors) và Hạ viện (House of Representatives) với các nghị viên được bầu ra và là các đại biểu của nhân dân. Hạ viện có quyền hơn Thượng viện.
- Quyền hành pháp được giao cho Nội các chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội.
- Chính quyền tự trị địa phương được thiết lập trên một căn bản rộng rãi.
- Thiên hoàng Nhật Bản không có quyền lực đối với chính quyền, làm việc theo các quy định bởi hiến pháp, chẳng hạn như chấp thuận Thủ tướng và Chánh án Tối cao Pháp viện, công bố các đạo luật và hiệp ước, triệu tập Quốc hội và ban thưởng, tất cả việc làm của Thiên hoàng Nhật Bản đều có sự cố vấn và đồng ý của Nội các.
[sửa] Hoàng gia Nhật Bản
Hoàng đế của Nhật Bản hiện nay là Thiên hoàng Akihito (người Nhật gọi Hoàng đế Nhật Bản là Thiên Hoàng 天皇), sinh ngày 23 tháng 12 năm 1933 tại Tokyo, là con trai trưởng của Chiêu Hòa Thiên hoàng (昭和天皇) và Hoàng hậu Nagako, đã lên ngôi ngày 7 tháng 1 năm 1989 khi Chiêu Hòa Thiên hoàng băng hà. Khi còn là Thái tử, Akihito đã theo học trường tiểu học và trung học Gakushuin cho tới năm 1952, rồi trường Đại học Gakushuin cho tới năm 1956. Vào tháng 4 năm 1956, Thái tử Akihito cưới cô Shoda Michiko, trưởng nữ của một nguyên tổng giám đốc của đại công ty sản xuất bột thực phẩm. Cố Chiêu Hòa Thiên hoàng sinh tại Tokyo ngày 29 tháng 4 năm 1901, là Thiên hoàng trị vì lâu dài nhất, 62 năm và cũng sống lâu nhất, 87 tuổi, trong lịch sử của nước Nhật.
Thiên hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko có 3 người con, Thái tử Naruhito sinh ngày 23 tháng 2 năm 1960, đã tốt nghiệp Phân khoa Lịch sử của Đại học Gakushuin vào tháng 3 năm 1982. Tháng 6 năm 1983, Thái tử tới Anh theo học Đại học Oxford và vào tháng 4 năm 1993 đã chính thức hứa hôn với cô Masako, trưởng nữ của ông Owada Hisashi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
[sửa] Cơ quan lập pháp
Quốc hội Nhật Bản (国会 Kokkai) là cơ quan lập pháp cao cấp nhất, gồm có Hạ viện (衆議院 shugi-in - Chúng nghị viện) với 512 ghế và Thượng viện (参議院 – sangi-in - Tham nghị viện) với 252 ghế. Dân biểu Hạ viện có nhiệm kỳ 4 năm nhưng hạn kỳ này có thể bị chấm dứt nếu Quốc hội bị giải tán. Hạ viện được bầu ra từ 130 đơn vị bầu cử với số nghị viên từ 2 tới 6 vị tùy theo dân số. Nhiệm kỳ của Thượng viện là 6 năm, mỗi 3 năm được bầu lại một nửa. 100 Thượng nghị sĩ được bầu theo sự đại diện tỉ lệ (proportional representation) tức là do các cử tri toàn quốc, số còn lại 152 ghế được bầu từ 47 đơn vị bầu cử tỉnh. Hạ viện có quyền bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm Nội các, đây là một quyền lực chính trị quan trọng nhất của nền chính trị đại nghị. Các công dân Nhật Bản trên 25 tuổi đều có quyền ứng cử Dân biểu và trên 30 tuổi có thể tranh cử ghế Thượng viện. Việc phổ thông đầu phiếu là của mỗi người dân nam nữ trên 20 tuổi.
[sửa] Các đảng phái chính trị
Nhật Bản là quốc gia có đa đảng. Những đảng phái chính trị lớn gồm có:
- Đảng Tự do Dân chủ Nhật Bản (LDP; 自由民主党)
- Đảng Dân chủ Nhật Bản (JDP; 民主党)
- Đảng Komei (NKP; 公明党 Công Minh)
- Đảng Xã hội Dân chủ Nhật Bản (JSP; 社会民主党)
- Đảng Cộng sản Nhật Bản (JCP; 日本共産党)
Để biết thêm chi tiết, xin đọc bài Đảng phái Nhật Bản.
[sửa] Các cơ quan Hành pháp và Tư pháp
Quyền hành pháp được giao cho Nội các, gồm Thủ tướng và hơn 20 Bộ trưởng, tất cả chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội. Thủ tướng phải là một nghị viên của Quốc hội và được Quốc hội bổ nhiệm, có quyền chỉ định và bãi nhiệm các bộ trưởng, các vị sau này phải là dân sự và phần lớn là nghị viên Quốc hội.
Vào tháng 3 năm 1992, Nhật Bản có 12 bộ và 32 cơ quan (agency) với Văn phòng Thủ tướng, 1,17 triệu công chức kể cả 240 ngàn nhân viên thuộc Lực lượng Tự vệ (自衛隊). Ngoài ra còn có Hội đồng Kiểm soát (the Board of Audit) chịu trách nhiệm thanh tra các trương mục quốc gia.
Nhật Bản được chia làm 47 tỉnh (prefecture). Vào tháng 4 năm 1990, các chính quyền địa phương gồm 3,23 triệu công chức trong đó có 1 triệu giáo chức và 221 ngàn nhân viên cảnh sát. Cơ quan tư pháp gồm Tối cao Pháp viện, 8 tòa án cao cấp và các tòa án địa phương, tòa án gia đình. Tối cao Pháp viện gồm Chánh án được Thiên hoàng Nhật Bản bổ nhiệm và 14 vị Thẩm phán chọn do Nội các. Tất cả các vụ án đều được xét xử công khai, nhất là các vụ vi phạm chính trị, báo chí và nhân quyền.
[sửa] Kinh tế
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973). Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có nền kinh tế-công nghiệp-tài chính thương mại-dịch vụ-khoa học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kì), GDP trên đầu người là 36.217 USD (1989). Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều. Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị tiền tệ là: đồng yên Nhật.
Nhật Bản đang xúc tiến 6 chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu chính phủ... Cải cách hành chính của Nhật được thực hiện từ tháng 1 năm 2001. Dù diễn ra chậm chạp nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ đạo, trở thành xu thế không thể đảo ngược ở Nhật Bản và gần đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế Nhật đã phục hồi và có bước tăng trưởng năm 2003 đạt trên 3%, quý I/2004 đạt 6%.
Để biết thêm chi tiết, xin đọc bài Kinh tế Nhật Bản.
[sửa] Quốc phòng
Hiện nay lực lượng phòng vệ (quân đội) của Nhật Bản có 18 vạn người, trong đó lực lượng hải quân mạnh nhất. Với ngân sách 50 tỉ USD/năm (kể cả chi phí cho quân đội Mỹ ở Nhật Bản), chi phí quân sự của Nhật Bản đứng hàng thứ ba sau Mỹ và Nga. Từ năm tài khoá 2002, ngân sách quốc phòng Nhật đã vượt con số 1% GDP, vươn lên hàng thứ hai trên thế giới.
Hướng phát triển quân đội Nhật Bản chủ yếu tập trung vào giảm quân số nhưng tăng chất lượng, trang thiết bị, tăng khả năng cơ động, mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng phòng vệ Nhật Bản, tăng cường hợp tác với Mỹ, đồng thời đẩy nhanh các biện pháp củng cố an ninh, phòng ngừa, công khai về quốc phòng qua các hoạt động, diễn đàn chung về an ninh, giải trừ quân bị; trao đổi quân sự với các nước trong ngoài khu vực.
Nhân sự kiện khủng bố 11/9, Chính phủ và Quốc hội Nhật đã thông qua 3 luật chống khủng bố gồm: Luật đặc biệt chống khủng bố, Luật sửa đổi Lực lượng phòng vệ và Luật sửa đổi Cục bảo an trên biển, cho phép Nhật lần đầu tiên sau Thế chiến thứ hai được phép cử quân đội ra nước ngoài, hợp tác với Mỹ chống khủng bố. Nhật Bản đã đưa 600 binh sĩ sang Iraq thực hiện các hoạt động nhân đạo. Đây là bước chuyển mới trong chính sách quốc phòng của Nhật, từng bước tăng cường và mở rộng phạm vi hoạt động của Lực lượng phòng vệ.
Đồng thời, tháng 5 năm 2003, Quốc hội Nhật Bản thông qua bộ luật hữu sự (gồm 3 luật liên quan quốc phòng) với nội dung sửa đổi, mở rộng chức năng và hoạt động của Lực lượng phòng vệ và tăng quyền chỉ huy của Thủ tướng. Bộ luật này đã thay đổi cơ bản chính sách quốc phòng của Nhật, là bước tiến mới theo hướng giải thích lại hiến pháp và cho phép Nhật phòng thủ tập thể, nằm trong tổng thể đường lối từng bước biến Nhật trở thành quốc gia bình thường có quân đội.
[sửa] Chính sách đối ngoại
Từ sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản bước vào thời điểm bước ngoặt điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường tính độc lập, chủ động và tích cực hơn nhằm vươn lên thành cường quốc chính trị tương xứng với sức mạnh kinh tế, phát huy vai trò, và ảnh hưởng trên thế giới và vùng Châu Á - Thái Bình Dương. Theo đó, chính sách đối ngoại được triển khai theo 5 hướng cơ bản là:
- Giải quyết hòa bình các cuộc xung đột khu vực.
- Giải trừ quân bị và không phổ biến vũ khí hạt nhân.
- Duy trì phát triển kinh tế thế giới.
- Hợp tác với các nước đang phát triển và các nước đang trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế.
- Giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Mặc dù vẫn lấy quan hệ Nhật-Mỹ làm nền tảng chính sách đối ngoại, song gần đây Nhật Bản tăng cường chiến lược "Trở lại châu Á", phát huy vai trò người đại diện cho châu Á trong Khối G8, lấy châu Á làm bàn đạp để từng bước đưa Nhật Bản trở thành cường quốc về chính trị; thúc đẩy cải cách Liên Hiệp Quốc, thực hiện mục tiêu trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua các đề nghị, các đóng góp cụ thể trong các lĩnh vực an ninh, kinh tế và các vấn đề toàn cầu (Nhật Bản hiện là thành viên không thường trực nhiệm kỳ 2004-2004). Tuy nhiên còn một số hạn chế cơ bản: nội bộ chưa thống nhất, còn nhiều tranh cãi; hạn chế về hiến pháp và các luật lệ trong nước; bị kiềm chế bởi các cường quốc khác. Chính quyền mới của Koizumi đang thăm dò khả năng sửa đổi hiến pháp, cho phép Nhật có quân đội và quyền tự vệ tập thể. Tuy nhiên điều này sẽ gây phản ứng mạnh từ các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc, Hàn Quốc...
Nhìn toàn cục, ở chừng mực nhất định, vai trò quốc tế của Nhật Bản đã được cải thiện hơn; vị thế của Nhật Bản đã được coi trọng hơn trong một số vấn đề quốc tế và khu vực như WTO, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ARF, ASEM, UNHCR, G8, Ủy ban sông Mê Kông, ADB, PKO... Dư luận chung tỏ đồng tình với việc Nhật Bản cần có vai trò to lớn hơn, đặc biệt trong những vấn đề kinh tế và các vấn đề toàn cầu vì Nhật Bản có ưu thế về tài chính.
[sửa] Quan hệ với Việt Nam
Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam-Nhật Bản phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và đã bước sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ kinh tế chính trị, giao lưu văn hóa không ngừng được mở rộng; đã hình thành khuôn khổ quan hệ ở tầm vĩ mô; sự hiểu biết giữa hai nước không ngừng được tăng lên.
- Về chính trị: hàng năm đều có các cuộc gặp cấp cao
Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam 4 lần (Tomiichi Murayama 8/1994, Ryutaro Hashimoto 1/1997, Keizo Obuchi 12/1998, Junichiro Koizumi 4/02), Ngoại trưởng Nhật thăm chính thức 2 lần (1996 và 2004). Thủ tướng Việt Nam thăm Nhật bản 6 lần (1993, 1999, 2001, 2003 - 2 lần - và 6/2004). Từ 1993 đến nay, Tổng Bí thư (2 lần vào 1995 và 2002), Chủ tịch Quốc hội và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam cũng đã thăm Nhật Bản. Năm 2002, Lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất xây dựng quan hệ Việt Nam-Nhật Bản theo phương châm "đối tác tin cậy, ổn định lâu dài". Trong chuyến thăm Việt Nam 7/2004 của Ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã ký Tuyên bố chung "Vươn tới tầm cao mới của đối tác bền vững".
Hai bên đã tạo dựng được cơ chế đối thoại ở nhiều cấp. Ngoài đối thoại chính trị định kỳ ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao (từ năm 1993), hai bên cũng đã xây dựng được cơ chế đối thoại kinh tế, an ninh và quốc phòng. Hai bên đã trao đổi tùy viên quân sự, mở Tổng lãnh sự quán ở Thành phố Hồ Chí Minh và Osaka.
Nhật Bản ủng hộ đường lối đổi mới, mở cửa của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới (vào APEC, WTO, ASEM, ARF, vận động OECD giúp Việt Nam về kỹ thuật...); coi trọng quan hệ với Việt Nam, lấy lợi ích và mục tiêu lâu dài làm trọng. Việt Nam ủng hộ Nhật làm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mở rộng, và vận động Nhật ủng hộ Việt Nam ứng cử làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
- Quan hệ kinh tế: Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam.
- Về mậu dịch Nhật Bản là bạn hàng số 1 của Việt. Kim ngạch 2 chiều năm 2003 đạt 5,9 tỷ USD. Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999.
- Đầu tư trực tiếp đến tháng 11/2003 có 354 dự án với số vốn đăng ký 4,47 tỷ $. Trong số 62 nước vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Nhật đứng thứ 3 sau Singapore và Đài Loan về số vốn đăng ký nhưng đứng đầu về kim ngạch đầu tư đã đi vào thực hiện (3,7 tỷ $). 11 tháng đầu năm 2003, Nhật đứng thứ 5 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn 78 triệu USD, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2002. Hai nước đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư tháng 11/2003. Tháng 12/03 hai bên đã thoả thuận Sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam.
- Về ODA: Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, từ 1992-2003 đạt khoảng 8,7 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng khối lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành cho Việt Nam, trong đó viện trợ không hoàn lại khoảng 1,2 tỷ USD. Từ năm 2001, Nhật Bản cắt giảm 10% ngân sách ODA nhưng vẫn giữ và tăng kim ngạch ODA cho Việt Nam. Năm 2003, mặc dù cắt giảm 5,8% ODA cho các nước nói chung, nhưng ODA cho Việt Nam vẫn là 91,7 tỷ yên, giảm khoảng 1% so với năm 2002.
Hai bên đã thoả thuận chương trình viện trợ lâu dài của Nhật Bản cho Việt Nam nhằm vào 5 lĩnh vực chính là: phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế; xây dựng và cải tạo các công trình giao thông và điện lực; phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; phát triển giáo dục đào tạo và y tế; bảo vệ môi trường. Ngày 2/6/04, Nhật Bản đã công bố chính sách viện trợ ODA mới cho Việt Nam với 3 mục tiêu chính: Thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện đời sống - xã hội, hoàn thiện cơ cấu.
- Về hợp tác lao động: Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử 16 ngàn tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật. Nhật là một thị trường tiềm năng cho lao động Việt nam trong 5-10 năm tới. Tuy nhiên mấy năm gần đây nổi lên vấn đề lao động Việt Nam bỏ trốn tại Nhật (tỷ lệ bỏ trốn năm 2002 là 24,7%, cao nhất trong các nước cử lao động sang Nhật) gây khó khăn cho việc hợp tác lao động.
- Về văn hóa giáo dục: hai nước đang triển khai các chương trình đào tạo con người, chương trình thanh niên ASEAN (100 người/năm) và trao đổi các đoàn văn hóa, những người người tình nguyện, chuyên gia. Hàng năm Chính phủ Nhật viện trợ cho Việt Nam từ 1 đến 2 dự án viện trợ văn hoá không hoàn lại như thiết bị học ngoại ngữ, thiết bị bảo quản tư liệu Viện Hán-Nôm, Bảo tàng Lịch sử, xưởng phim hoạt hình. Về giáo dục, Chính phủ Nhật Bản nhận khoảng trên 100 học sinh sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản đào tạo hàng năm. Ngoài ra còn có nhiều học sinh du học tự túc. Tổng số lưu học sinh Việt Nam ở Nhật hiện nay khoảng hơn 1000 người. Trong 5 năm (1994-1999), Chính phủ Nhật đã viện trợ 9,5 tỉ yên để xây dựng 195 trường tiểu học ở các tỉnh miền núi và vùng ven biển hay bị thiên tai.
- Về du lịch: Nhật Bản cũng là một thị trường được chú trọng để phát triển du lịch Việt Nam. Năm 2002 đã có 280 ngàn. Do ảnh hưởng của SARS, du lịch Nhật Bản vào Việt nam trong năm 2003 giảm sút. Tuy nhiên, cơ hội và tiềm năng thúc đẩy hợp tác du lịch giữa hai nước còn rất lớn. Từ tháng 1/2004, Việt Nam đã chính thức đơn phương miễn thị thực cho người Nhật Bản đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày và gần đây nhất từ 1/7/2004, Việt Nam đã quyết định miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho công dân Nhật. Đây là thuận lợi lớn để thúc đẩy du lịch Nhật Bản vào Việt Nam. Từ ngày 1/5/2005, Việt Nam và Nhật Bản song phương miễn thị thực hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ.
[sửa] Đọc thêm
- Phạm Thu Giang Phúc Ông tự truyện - Fukuzawa Yukichi, Nxb Lý luận Chính trị và Sách Alpha, 2005
[sửa] Liên kết ngoài
Tiếng Việt
- Hanami Web - Inside Japan
- Đại Sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam
- Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á
- Từ điển trực tuyến Nhật-Việt-Anh
- Nhật Bản net
- Thông tin Nhật Bản
- Japanese for Vietnamese
- Study Japanese on Computer
Tiếng Nhật
Tiếng Anh
- Japan - A Huge Directory of Japan in English
Cộng đồng thanh niên sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản
- Hội Thanh niên Sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản - VYSA
- Hội Sinh viên Cao đẳng Việt Nam tại Nhật Bản - VCSJ
Các nước ở Đông Á |
Trung Quốc (CHNDTH) | Nhật Bản | Triều Tiên | Hàn Quốc | Đài Loan (THDQ) Các khu tự trị đặc biệt của CHNDTH: Hồng Kông | Ma Cao |
Các nước ở châu Á | ![]() |
---|---|
Afghanistan | Ai Cập | Armenia1 | Azerbaijan1 | Ả Rập Xê Út | Ấn Độ | Bahrain | Bangladesh | Bhutan | Bờ Tây2 | Brunei | Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất | Campuchia | Dải Gaza2 | Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)4 | Đông Timor | Gruzia1 | Hàn Quốc | Hồng Kông3 | Indonesia | Iran | Iraq | Israel | Jordan | Kazakhstan1 | Kuwait | Kyrgyzstan | Lào | Liban | Ma Cao3 | Malaysia | Maldives | Mông Cổ | Myanma | Nepal | Nga1 | Nhật Bản | Oman | Pakistan | Palestin | Philippines | Qatar | Singapore | Síp1 | Sri Lanka | Syria | Tajikistan | Thái Lan | Thổ Nhĩ Kỳ1 | Triều Tiên | Trung Quốc | Turkmenistan | Uzbekistan | Việt Nam | Yemen |
|
1. Thường gắn với châu Á về mặt địa lý, tuy nhiên cho là thuộc Châu Âu về mặt văn hóa và lịch sử. 2. Lãnh thổ do Israel kiểm soát, Chính quyền Palestin quản lý. 3. Khu tự trị đặc biệt của CHNDTH. 4. Xem thêm: Vị thế chính trị Đài Loan |
Các thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc | ![]() |
---|---|
5 thành viên thường trực | |
Hoa Kỳ - Nga - Pháp - Trung Quốc - Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland | |
Các thành viên sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào 31 tháng 12, 2006 | |
Argentina - Đan Mạch - Hy Lạp - Nhật Bản - Tanzania | |
Các thành viên sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào 31 tháng 12, 2007 | |
CH Congo - Ghana - Peru - Qatar - Slovakia |