Chiến dịch Tây Nguyên

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Loạt bài
Chiến tranh Việt Nam
Giai đoạn 1954–1959
Miền Bắc – Miền Nam
Thuyết Domino
Giai đoạn 1960–1965
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam
Kế hoạch Staley-Taylor
Sự kiện Phật Đản, 1963
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm
Giai đoạn 1965–1968
Miền Bắc – Chiến dịch Tìm-Diệt
Diễn biến Quốc tế
Tết Mậu Thân, 1968
Giai đoạn 1968–1972
Diễn biến Quốc tế
Việt Nam hoá chiến tranh
Chiến dịch:
Lam Sơn 719 – Hè 1972 – Linebacker II
Hiệp định Paris
Giai đoạn 1973–1975
Chiến dịch:
Tây Nguyên – Huế-Đà Nẵng
Xuân 1975 – Hồ Chí Minh
Sự kiện 30 tháng 4, 1975
Hậu quả chiến tranh
Chất độc da cam
Thuyền nhân sửa tiêu bản

Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 24 tháng 3 năm 1975) là chiến dịch mở đầu cuộc tiến công quân sự năm 1975 (xem chiến dịch mùa xuân năm 1975) của quân đội Bắc Việt Nam nhằm chấm dứt thắng lợi chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch này đã thành công to lớn gây được đột biến và bắt đầu làm tan rã quân lực Việt Nam Cộng hoà dẫn đến sự kiện chấm dứt chiến tranh Việt Nam (1954-1975).

Chiến dịch Tây Nguyên đã được lãnh đạo quân sự của Bắc Việt Nam trù tính và chuẩn bị kỹ theo kế hoạch ban đầu của họ giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975- 1976. Kế hoach 2 năm đó hoạch định trong năm 1975 chiếm hoàn toàn cao nguyên trung phần và phát triển từ đó xuống dải đồng bằng ven biển miền Trung của quân khu 2, tiêu diệt quân khu 2 Nam Việt Nam, cắt Nam Việt nam thành 2 phần: Quân khu 1 với Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Đà Nẵng bị cô lập ở phía Bắc và quân khu 3, 4 ở phía Nam. Trong năm 1976 sẽ tổng tấn công kết thúc chiến tranh. Như vậy chiến dịch Tây Nguyên có vai trò trọng tâm trong kế hoạch tấn công của quân Cộng sản năm 1975.

Mục lục

[sửa] So sánh lực lượng trên chiến trường Tây Nguyên

Phương án tiến công chiến dịch Tây Nguyên của Bộ tổng tư lệnh quân Bắc Việt Nam chỉ rõ lấy nam Tây Nguyên làm trận đột phá mà thị xã Ban Mê Thuột là trận then chốt. Để thực hiện chiến dịch phía Cộng sản đã đưa thêm 2 sư đoàn 316 và 968 lên Tây Nguyên đưa lực lượng của họ tại đây lên 4 sư đoàn (10, 320, 316, 968) và các lữ đoàn, trung đoàn độc lập của bộ binh, pháo binh, thiết giáp, đặc công, phòng không, công binh... Và chưa kể sư đoàn 3 của quân khu 5 tại Bình Định đánh chia cắt đường 19 và tấn công sư đoàn 22 Nam Việt Nam không cho ứng cứu để phục vụ trực tiếp chiến dịch này.

Tại Tây Nguyên lực lượng phòng thủ của Nam Việt Nam chỉ có 1 sư đoàn bộ binh số 23 (gồm 3 trung đoàn số 44, 45, 53) 1 sư đoàn không quân số 6 và 7 liên đoàn biệt động quân ngoài ra còn các tiểu đoàn bảo an đồn trú. Ưu thế lực lượng của quân Cộng sản tại Tây Nguyên đã là 4:1. Sự phối trí quân lực của quân đội Nam Việt nam tại Tây Nguyên cũng sơ hở: Hầu hết lực lượng của họ bố trí tại bắc phần Tây Nguyên để bảo vệ các thị xã PleikuKon Tum trong khi Nam phần với thị xã Ban Mê Thuột có vai trò trụ cột phòng thủ cao Nguyên lại chỉ có 1 trung đoàn số 53 và một liên đoàn biệt động quân số 21. Các hành động nghi binh của Cộng sản đã củng cố thế nguy hiểm của Ban Mê Thuột khi họ pháo kích và hư trương thanh thế tại Bắc phần cao nguyên và bí mật điều 2 sư đoàn 320 và 10 xuống khu vực Ban Mê Thuột. Lúc khởi đầu chiến dịch tại điểm quyết chiến Ban Mê Thuột tỷ lệ áp đảo của Cộng sản đã là 3 sư đoàn (320, 10, 316) chống lại 1 trung đoàn bộ binh và 1 liên đoàn biệt động đồn trú. Tỷ lệ áp đảo là khoảng 10:1 cho họ khả năng thắng lợi chớp nhoáng không cho phép địch cầm cự lâu dài chờ quân phản kích ứng cứu. Và thực tế đã diễn ra như vậy.

[sửa] Tiến công Ban Mê Thuột

Trước khi tiến công Ban Mê Thuột, các động tác chia cắt chiến trường của quân Cộng sản đồng thời có hai tác dụng: Thứ nhất việc cắt các đường 19, 21, 14 trong thời gian từ 4 tháng 3 đến 10 tháng 3 là hành động nghi binh tạo cảm giác là họ chuẩn bị đánh Pleiku hoặc Kon Tum mặt khác nó cách ly Ban Mê Thuột với phần còn lại của các lực lượng Nam Việt Nam không cho ứng cứu nhanh chóng và ồ ạt trong trường hợp Ban Mê Thuột bị tiến công và thất thủ.

Ban Mê Thuột 11.3.1975 (Nguồn: Việt Nam 30 năm chiến tranh giải phóng- NXB Thông tin 2004)
Ban Mê Thuột 11.3.1975 (Nguồn: Việt Nam 30 năm chiến tranh giải phóng- NXB Thông tin 2004)

2 giờ sáng 10 tháng 3 năm 1975 quân Cộng sản tiến công Ban Mê Thuột với lực lượng chủ công là sư đoàn 316 một đơn vị có truyền thống tác chiến rừng núi của quân đội Cộng sản. Cuộc tiến công có pháo binh chế áp mãnh liệt và xe tăng xung phong. Quân phòng ngự Ban Mê Thuột đã kháng cự quyết liệt và co cụm phòng thủ nhưng dưới áp lực quá mạnh của đối phương họ chỉ cầm cự được trong hơn 1 ngày. Quân Cộng sản đã hoàn thành nhanh gọn bước 1 của chiến dịch.

Sư đoàn 10 của Cộng sản sau khi tiến công chật vật quận lỵ Đức Lập phía nam Buôn Ma Thuột trong 2 ngày đến 10 tháng 3 đã đánh chiếm xong mục tiêu liền nhanh chóng cơ động đến phía Đông Bắc thị xã Ban Mê Thuột đứng chân chủ động chờ đánh quân phản kích.

Sau khi mất Ban Mê Thuột tư lệnh quân đoàn 2 và quân khu 2 Việt Nam Cộng hoà liền đưa 2 trung đoàn 44 và 45 còn lại của sư đoàn 23 về tái chiếm lại hậu cứ của mình. Việc quân Bắc Việt cắt đường 14 không cho phép quân phản kích đi đường bộ với số lượng lớn và vũ khí nặng mà họ phải trực thăng vận trong 2 ngày 12 và 13 tháng 3 xuống khu vực Phước An. Sư đoàn 10 của Bắc Việt Nam đã chờ sẵn và tiến công các lực lượng ứng cứu chưa kịp đứng chân. Các lực lượng này chưa hề có hành động phản kích nào mà phải lo bảo vệ mình, bị đẩy lùi xa dần khỏi Ban Mê Thuột và cuối cùng bị đánh tan tại Chư Cúc ngày 18 tháng 3. Ban Mê Thuột đã mất hẳn vào tay quân Bắc Việt.

[sửa] Bước ngoặt của chiến cuộc 1975

Mất căn cứ cơ bản trụ cột phòng thủ cao nguyên mà trong tay không còn lực lượng dự bị cơ động nào khả dĩ nào để có thể xoay chuyển tình thế (2 sư đoàn dự bị chiến lược là sư đoàn Dù và Thuỷ quân lục chiến là quá ít và chính họ cũng đang bị uy hiếp dính chặt ở quân khu 1 như các đơn vị đồn trú. Đến ngay như việc trước đó khoảng 2 tháng mất tỉnh Phước Long cách Sài Gòn chỉ khoảng 100 km mà quân Nam Việt Nam cũng không còn lực lượng để tái chiếm). Quân đội Nam Việt Nam không còn lực lượng để chiến đấu dài hơi được nữa. Điều đó cho thấy tình thế rất bị bó buộc của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Thêm nữa các lực lượng tại bắc Tây Nguyên đang chịu nguy cơ bị tấn công tiêu diệt, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà quyết định bỏ Tây Nguyên rút các lực lượng còn lại về cố thủ dải đồng bằng ven biển miền Trung. Tuyến hành quân sẽ là theo đường 14 từ Pleiku đi xuống phía nam sau đó rẽ vào đường 7 đã bỏ từ lâu và xuôi về thị xã Tuy Hoà tỉnh Phú Yên. Mệnh lệnh này được ban ra bằng lời sau cuộc họp của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Nha Trang với Tổng Tham mưu trưởng và Tư lệnh quân khu 2. Đây sẽ là thảm hoạ chết người cho quân đội Nam Việt nam. Quyết định này có lẽ là hệ quả tất nhiên của tình trạng suy kiệt lực lượng của Nam Việt Nam lúc đó.

Quân phòng thủ Bắc Tây Nguyên chỉ có 2- 3 ngày để chuẩn bị cuộc hành quân. Thực tế cuộc hành quân này không có kế hoạch, không có yểm trợ và phó mặc tất cả vào sự may rủi của số phận. Một lực lượng quân hàng vạn người chuẩn bị trong 2- 3 ngày, đi hàng trăm km không có yểm trợ với tinh thần chiến đấu xuống rất thấp sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, và đặc biệt họ đi cùng gia đình và dân chạy nạn tất cả đã làm cho cuộc hành quân thành đoàn xe cộ khổng lồ ùn tắc không đội hình, không tổ chức, không thể chỉ huy và chiến đấu được.

Khi được tin quân Nam Việt Nam bỏ Tây Nguyên Bộ chỉ huy quân Bắc Việt tại Tây Nguyên ra lệnh cho sư đoàn 320 đang phong toả đường 14 đuổi theo. Bộ phận đi đầu của đơn vị này chạy đua, tắt núi đón đầu và kịp chặn đường tại bên ngoài thị xã Cheo Reo tỉnh Phú Bổn. Chỉ một lực lượng rất nhỏ quân Nam Việt Nam đi thoát còn toàn bộ đoàn quân và dân chạy nạn đã bị tan rã không tổ chức lại được nữa.

Kế hoạch di tản của Nam Việt Nam đã không cứu được lực lượng quân bố phòng Tây Nguyên, Tây Nguyên mất vào tay Cộng sản mà đặc biệt nó làm thành làn sóng hoảng loạn lan khắp mọi nơi làm tan rã tinh thần các binh sĩ trên toàn quốc. Quân đội Nam Việt Nam bắt đầu tan rã nhanh chóng và sụp đổ.

[sửa] Liên kết ngoài

[sửa] Xem thêm