Anna Kournikova
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quốc tịch | ![]() |
|
Nơi cư trú | Miami, Florida, Hoa Kỳ | |
Ngày sinh | 07 tháng 06, 1981 | |
Nơi sinh | Moscow, Liên Xô | |
Chiều cao | 1.73 m | |
Bắt đầu chơi chuyên nghiệp | 1995 | |
Tay thuận | Tay phải, Revers hai tay | |
Tiền thưởng giành được | 3,584,662 US$ | |
Sự nghiệp đấu đơn | ||
Thắng/thua: | 209-129 | |
Số chức vô địch: | 0 | |
Hạng cao nhất: | Số.8 (20 tháng 11, 2000) | |
Thành tích tốt nhất tại các giải Grand Slam | ||
Australian Open | Tứ kết (2000) | |
French Open | Vòng 4 (1999) | |
Wimbledon | Bán kết (1997) | |
U.S. Open | Vòng 4 (1996, 1998, 1999) | |
Sự nghiệp đấu đôi | ||
Thắng/thua: | 200-71 | |
Số chức vô địch: | 16 | |
Hạng cao nhất: | Số. 1 (22 tháng 11, 1999) |
Anna Sergeyevna Kournikova (tiếng Nga: Ánna Sergéyevna Kúrnikova; sinh ngày 7 tháng 6 năm 1981) là một vận động viên quần vợt người Nga đã giải nghệ. Nổi danh nhờ sắc đẹp cũng như tài nghệ của mình, cô trở thành một trong những vận động viên quần vợt được biết đến nhiều nhất trên thế giới, ngay cả với những người không theo dõi tennis.
Là con một, cô sinh ra tại Moskva, Liên Xô ; sau đó cô cùng gia đình di cư sang Hoa Kỳ. Hiện nay, cô sống tại Miami, Florida.
Trong sự nghiệp quần vợt cô có vài thành tích tương đối ấn tượng ở nội dung đánh đơn, nhưng nội dung đánh đôi mới thực sự là sở trường của cô. Kournikoca đã có thời kỳ nắm vị trí #1 thế giới ở nội dung đánh đôi. Cùng Martina Hingis là đồng đội, cô dành được hai danh hiệu Grand Slam ở Australian Open vào các năm 1999 và 2002. Với dáng vẻ bề ngoài như siêu người mẫu, Hingis và Kournikova thường được gọi là "Spice Girls của môn Tennis".
Mục lục |
[sửa] Sự nghiệp quần vợt
Khi 13, 14 tuổi Kournikova bắt đầu được giới chuyên môn của làng quần vợt chú ý khi chiến thắng ở một loạt các giải đấu dành cho lứa tuổi trẻ, trong đó có Italian Open năm 1995. Cô dành danh hiệu Vô địch châu Âu U-18 và Vô địch thế giới U-18 năm 1995 khi mới 14 tuổi.
Kournikova bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp năm 1995 khi được gọi vào đội tuyển Nga tham dự Fed Cup, cô trở thành vận động viên trẻ nhất trong lịch sử tham gia giải đấu và dành chiến thắng. Năm 15 tuổi, cô lọt vào vòng 4 U.S. Open, và chỉ chịu gác vợt trước tay vợt hạt giống #1, Steffi Graf.
Kournikova là thành viên đội tuyển Nga tham dự Atlanta 1996. Năm 1997, khi 16 tuổi, cô lọt vào bán kết Wimbledon, trước khi chịu thua tay vợt sau đó sẽ dành chức vô địch, Martina Hingis, với tỉ số 6-3, 6-2. Năm 1998 là năm cô khẳng định sự kỳ vọng của giới hâm mộ, khi cô lọt vào Top 20 trong bảng xếp hạng của WTA's lần đầu tiên và một series chiến thắng trước Martina Hingis, Lindsay Davenport cùng Steffi Graf. Hai chức vô địch Grand Slam ở nội dung đánh đôi mà cô dành được đều là các chức vô địch Australian Open, vào các năm 1999 và 2002, cùng với một đồng đội là Martina Hingis, người mà cô bắt đầu thi đấu thường xuyên cùng kể từ năm 1999.
Nhưng sự nghiệp đánh đơn của cô bắt đầu trững lại kể từ năm 1999. Dù cô duy trì được vị trí xếp hạng của mình dao động vào khoảng từ #10 đến #15 trong bảng xếp hạng thế giới (vị trí tốt nhất mà cô dành được trong sự nghiệp là số #8), nhưng kỳ lại là cô chưa dành được một danh hiệu đánh đơn trong hệ thống giải WTA nào cả, khi chỉ 4 lần lọt vào các trận chung kết trong tổng số 130 giải đấu tham gia, và đều thua. Lối chơi của Kournikova nổi bật ở tốc độ di chuyển nhanh, lối đánh tấn công mãnh liệt cũng như khả năng chọn góc đánh bóng xuất sắc; Nhưng, chính lối chơi quá mạo hiểm và đường bóng thường quá phẳng khiến cô thường mắc khá nhiều lỗi khi thi đấu.
Năm 2003, Kournikova gặp phải hàng loạt chấn thương và quyết định tạm dừng sự nghiệp thi đấu quần vợt, từ đó cô chỉ thi thoảng tham gia vài giải đấu gây quỹ từ thiện. Cuối năm 2004, cô tham gia giải đấu do Elton John tổ chức cùng vài ngôi sao quần vợt khác như Serena Williams và Andy Roddick. Vào Tháng 01 năm 2005, cô chơi một trận đấu đôi nhằm ủng hộ các nạn nhân của Cơn sóng thần tại Ấn Độ Dương cùng John McEnroe, Roddick, và Chris Evert.
Trong một bài phỏng vấn tạp trí ELLE ấn hành vào Tháng 07 năm 2005, Kournikova khẳng định rằng cô vẫn xung sức 100%, và cô muốn quay trở lại thi đấu.
[sửa] Hình ảnh trong giới truyền thông
Phần lớn sự nổi tiếng mà Kournikova có được là nhờ sự truyền thông hóa một cách quá mức về cuộc sống riêng của cô. Vào lần đầu tham dự U.S. Open năm 1996 khi mới 15 tuổi, vẻ đẹp của Kournikova lập tức được tất cả trầm trồ, và ngay sau đó hàng loạt ảnh của cô được xuất hiện trên hàng loạt tạp trí được xuất bản khắp hành tinh.
Tình trạng hôn nhân của Kournikova cũng là một chủ đề gây nhiều xôn xao trong giới truyền thông. Đã từng có một cuộc tranh cãi xem cô đã từng đính hôn với vận động viên khúc côn cầu trân băng Pavel Bure hay chưa. Cũng đã có thông tin cô đã kết hôn với ngôi sao NHL Sergei Fedorov vào năm 2001. Người đại diện của Kournikova phủ nhận tin này, nhưng Fedorov lại phát biểu vào năm 2003 rằng hai người đã từng kết hôn nhưng đã ly dị. Kournikova gần đây có quan hệ với ngôi sao nhạc pop Enrique Iglesias (cô từng xuất hiện trong video clip "Escape" của anh), có tin đồn rằng hai người đã kết hôn vào năm 2003, đến năm 2005 lại xuất hiện tin đồn này. Kournikova không bao giờ tự khẳng định hay phủ nhận một tin đồn về các mối quan hệ cá nhân của mình.
Kournikova được tạp trí People's bầu chọn là một trong 50 người nổi tiếng đẹp nhất vào các năm 1998, 2000, 2002, và 2003. Cô cũng từng được bầu là "vận động viên thể thao quyến rũ nhất" và "cặp tình nhân quyến rũ nhất" (cùng Iglesias) trên ESPN.com. Vào năm 2002, cô được xếp ở vị trí số một trong danh sách 100 người phụ nữ quyến rũ nhất thế giới của tạp trí FHM' (bản của Mỹ và Anh quốc).
Nhưng ngược lại, ESPN cũng xếp cô vào vị trí thứ 18 trong số "25 sự thất vọng nhất của thể thao trong 25 năm gần đây".
Kournikova có một vai diễn nhỏ (quản lý khách sạn) trong bộ phim Me, Myself and Irene, với sự tham gia của Jim Carrey, khởi chiếu năm 2000.
Trong bài poker, khi cầm trên tay một cây As và một cây K, bây giờ người ta thường gọi là một "Anna Kournikova" (Ý nói trông thì hay nhưng chẳng bao giờ thắng được) (Susie Dent (2006) The Language Report).
[sửa] Chung kết Grand Slam đã tham dự
[sửa] Vô địch đôi nữ (2)
Stt. | Năm | Giải | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 1999 | Australian Open | ![]() |
![]() ![]() |
7-5, 6-3 |
2. | 2002 | Australian Open (2) | ![]() |
![]() ![]() |
6-2, 6-7 (4), 6-1 |
[sửa] Thua ở trận chung kết (1)
Stt. | Năm | Giải | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 1999 | Pháp mở rộng | ![]() |
![]() ![]() |
6-3, 6-7 (2), 8-6 |
[sửa] Thua ở trận chung kết đôi nam nữ phối hợp (2)
Stt. | Năm | Giải | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 1999 | Wimbledon | ![]() |
![]() ![]() |
6-4, 3-6, 6-3 |
2. | 2000 | US Open | ![]() |
![]() ![]() |
6-4, 6-3 |
[sửa] Chung kết các giải WTA Tour đã tham dự
[sửa] Thua ở trận chung kết (4)
|
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 29 tháng 03, 1998 | Miami, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
2-6, 6-4, 6-1 |
2. | 04 tháng 04, 1999 | Hilton Head, Hoa Kỳ | Đất nện | ![]() |
6-4, 6-3 |
3. | 29 tháng 10, 2000 | Moscow, Nga | Trải thảm | ![]() |
6-3, 6-1 |
4. | 15 tháng 09, 2002 | Thượng Hải, Trung Quốc | Cứng | ![]() |
6-2, 6-3 |
[sửa] Vô địch đôi nữ (16)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 27 tháng 09, 1998 | Tokyo [Princess Cup] Nhật Bản |
Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-4, 6-4 |
2. | 31 tháng 01, 1999 | Australian Open, Melbourne Australia |
Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
7-5, 6-3 |
3. | 14 tháng 03, 1999 | Indian Wells, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-2, 6-2 |
4. | 09 tháng 05, 1999 | Roma, Ý | Đất nện | ![]() |
![]() ![]() |
6-2, 6-2 |
5. | 20 tháng 06, 1999 | Eastbourne, Anh | Cỏ | ![]() |
![]() ![]() |
6-4 bỏ cuộc. |
6. | 21 tháng 11, 1999 | WTA Championships New York, Hoa Kỳ |
Trải thảm | ![]() |
![]() ![]() |
6-4, 6-4 |
7. | 07 tháng 01, 2000 | Gold Coast, Australia | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-3, 6-0 |
8. | 07 tháng 05, 2000 | Hamburg, Đức | Đất nện | ![]() |
![]() ![]() |
6-7 (5), 6-2, 6-4 |
9. | 08 tháng 10, 2000 | Fiderstadt, Đức | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-4 6-2 |
10. | 15 tháng 10, 2000 | Zurich, Thụy Sĩ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-3, 6-4 |
11. | 12 tháng 11, 2000 | Philadelphia, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-2 7-5 |
12. | 19 tháng 11, 2000 | WTA Championships New York, Hoa Kỳ |
Trải thảm | ![]() |
![]() ![]() |
6-2, 6-3 |
13. | 14 tháng 01, 2001 | Sydney, Australia | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-2 7-5 |
14. | 07 tháng 10, 2001 | Moscow, Nga | Trải thảm | ![]() |
![]() ![]() |
7-6 (3), 6-3 |
15. | 27 tháng 01, 2002 | Australian Open, Melbourne Australia |
Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-2, 6-7 (4), 6-1 |
16. | 15 tháng 09, 2002 | Thượng Hải, Trung Quốc | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-2 7-5 |
[sửa] Thua ở trận chung kết (13)
Stt. | Ngày | Giải | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ ở trận chung kết | Kết quả |
1. | 24 tháng 09, 1995 | Moscow, Nga | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-1, 6-0 |
2. | 15 tháng 02, 1998 | Paris, Pháp | Trải thảm | ![]() |
![]() ![]() |
1-6, 6-3, 7-6 (3) |
3. | 01 tháng 03, 1998 | Linz, Áo | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-3, 3-6, 6-4 |
4. | 11 tháng 10, 1998 | Filderstadt, Đức | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-4, 6-2 |
5. | 28 tháng 03, 1999 | Miami, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-2, 6-1 |
6. | 06 tháng 06, 1999 | Pháp mở rộng Paris, Pháp |
Đất nện | ![]() |
![]() ![]() |
6-3, 6-7 (2), 8-6 |
7. | 01 tháng 08, 1999 | Stanford, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-4, 6-4 |
8. | 19 tháng 03, 2000 | Indian Wells, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-2, 6-3 |
9. | 06 tháng 08, 2000 | San Diego, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
4-6, 6-3, 7-6 (6) |
10. | 29 tháng 10, 2000 | Moscow, Nga | Trải thảm | ![]() |
![]() ![]() |
4-6, 6-4, 7-6 (5) |
11. | 04 tháng 02, 2001 | Tokyo [Pan Pacific] Nhật Bản |
Trải thảm | ![]() |
![]() ![]() |
7-6 (5), 2-6, 7-6 (6) |
12. | 05 tháng 08, 2001 | San Diego, Hoa Kỳ | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
6-4, 1-6, 6-4 |
13. | 13 tháng 01, 2002 | Sydney, Australia | Cứng | ![]() |
![]() ![]() |
bỏ cuộc |
[sửa] Sách
- Anna Kournikova, tác giả Susan Holden (2001)
- Anna Kournikova (Women Who Win), tác giả Connie Berman
[sửa] Liên kết ngoài
- Anna Kournikova's journal
- Anna Kournikova Picture Archive @ Anna-Fans (fansite)
- WTA Tour hồ sơ về Anna Kournikova
- Anna Kournikova ở Internet Movie Database
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
Tên | Kournikova, Anna Sergeyevna |
Tên khác | Курникова, Анна Сергеевна (tiếng Nga); Kúrnikova, Ánna Sergéyevna |
Tóm tắt | Vận động viên quần vợt người Nga |
Lúc sinh | 7 tháng 6, 1981 |
Nơi sinh | Moskva, Nga |
Lúc mất | |
Nơi mất |