Franz Bopp
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Franz Bopp (14 tháng 9, 1791 - 23 tháng 10, 1867) là một nhà ngôn ngữ học người Đức nổi tiếng về công trình ngôn ngữ học so sánh đối với các ngôn ngữ thuộc hệ Ấn-Âu.
[sửa] Cuộc đời
Franz Bopp sinh ngày 14 tháng 9 năm 1791 tại Mainz. Trong thời gian đó, vì một số rắc rối về chính trị, cha mẹ của ông chuyển đến Aschaffenburg, Bavaria nơi ông được tự do học tập tại Lyceum. Chính tại đây ông đã bắt đầu chú ý đến ngôn ngữ và văn hóa phương Đông qua những bài giảng hùng biện của Karl J. Windischmann cùng với G. F. Creuzer, J. J. Görres, và anh em Schlegel về triết học và kiến thức của Ấn Độ. Ngoài ra, cuốn Über die Sprache und Weisheit der Indier (Heidelberg, 1808) ảnh hưởng mạnh mẽ đến trí tuệ của các nhà lịch sử và triết học Đức nhưng cũng không thể ngăn cản mối quan tâm của Bopp đối với ngôn ngữ Hindu. Năm 1812 đến năm 1816, ông nhận được học bổng của chính phủ Bavaria nghiên cứu tiếng Ba Tư, Ả Rập, Do Thái tại trường Sylvestre de Sacy, học tiếng Phạn với Chezy tại Paris, thủ đô nước Pháp. Chính ở Paris, Bopp đã viết công trình Về hệ thống biến ngôi của động từ trong tiếng Phạn so với ngôn ngữ Hy Lạp, Ba Tư, Latinh và Giéc Manh. Cuốn sách được in tại Mainz, Frankfurt. Năm 1816 - 1820, ông tiếp tục nhận được học bổng nghiên cứu tiếp tại London. Tại đây ông đã quen biết nhà ngôn ngữ học nổi tiếng V. Humboldt. Về nước, ông lại không được phân công giảng dạy tiếng Phạn tại đại học cho mãi đến khi Humboldt thành lập Trường Đại học Berlin, đã bổ nhiệm ông làm giáo sư dạy tiếng Phạn tại trường đại học này.
[sửa] Sự nghiệp
Một phần do công trình của Rask viết năm 1814 chưa được nhiều người biết đến, phần về hoàn cảnh khách quan về môi trường nghiên cứu vào thời điểm Bopp ở Berlin vô cùng thuận lợi nên công trình Về hệ thống biến ngôi của động từ trong tiếng Sanskrit so sánh các ngôn ngữ Hy Lạp, Ba Tư, Latin và Giécmanh được in tại Mailz, Frankfurt đã đưa Franz Bopp lên ngôi sáng lập ra ngành ngôn ngữ học so sánh. Cũng vào thời điểm này, ở Đức đang dấy lên phong trào nghiên cứu ngôn ngữ, triết học, lịch sử dân tộc, …trong khi ngôn ngữ Sanskrit lại gắn liền với lịch sử dân tộc. Vì thế, người ta đã đưa ra thuật ngữ được người Đức nồng nhiệt đón chào là Ngôn ngữ Ấn – Giécmanh. Tuy nhiên, Bopp, Achopenhauer và một số nhà nghiên cứu khác lại không dùng thuật ngữ này mà dùng thuật ngữ Ấn – Âu xuất hiện từ năm 1814. Có thể nói, Bopp đã thực hiện công việc nghiên cứu ngôn ngữ so sánh hơn nửa thế kỷ, thể hiện qua các công trình So sánh phân tích tiếng Sanskrit với các ngôn ngữ thân thuộc [Transactions of the Berlin Academy (1824 - 1831)]; Ngữ pháp so sánh tiếng Sanskrit với các ngôn ngữ Hy Lạp, Ba Tư, Latin và Giécmanh năm 1833 – 1852, ngôn ngữ Giécmanh (1836); ngôn ngữ Celtic (Sentơ) (1839); tiếng Phổ cổ (1853), ngôn ngữ Albania (1854); Trọng âm của tiếng Sanskrit và Hy Lạp (1854); Về sự liên quan của ngôn ngữ Polynesia với ngôn ngữ Ấn – Âu (1840); và về tiếng Caucasia (1846). Sự thúc đẩy của cảm hứng đã dẫn ông vào con đường sai lầm trong hai tác phẩm cuối cùng vừa đề cập trên đây. Bopp bị buộc tội bỏ mặc việc nghiên cứu ngữ pháp địa phương Sanskrit. Nhưng trong buổi đầu nghiên cứu tiếng Sanskrit, các dữ liệu cần thiết không thể lấy được tại các thư viện lớn của châu Âu. Những tư liệu này lôi cuốn sự chú ý của ông trong nhiều năm. Trong khi đó thì việc nghiên cứu ngữ pháp tương tự của Wilkins và Colebrooke mà ông từ những kiến thức ngữ pháp của ông bắt nguồn từ đấy lại hoàn toàn dựa vào ngữ pháp địa phương. Ông còn bị buộc tội là trong cuốn Ngữ pháp so sánh của mình, bằng những lời lẽ của mình, ông đã tỏ ra quá đáng đối với ngôn ngữ Sanskrit vì ngay từ đầu những năm 1920, ông đã đưa ra ý kiến cho rằng thường thì những ngôn ngữ có cùng nguồn gốc có thể giải thích cho các hình thức ngữ pháp bị mai một dần trong tiếng Sanskrit (Annals of Or. Lit. I, 3), một ý kiến dẫn ông tiến xa hơn nữa trong tất cả các tác phẩm của ông sau này. Những nghiên cứu của Bopp, đã mang lại sự thâm nhập tuyệt vời vào những chi tiết nhỏ nhất của các hiện tượng ngôn ngữ dẫn đến việc mở rộng và đi xa hơn nữa của những vị trí cũng như cấu trúc, nguyên lý, thực hành và những cách sử dụng của dân địa phương của các quốc gia Ấn – Âu - một khoa học về ngữ pháp so sánh có lẽ chẳng ngoa khi người ta đề cập đến cái ngày mà tác phẩm đầu tay của ông được xuất bản. Và năm 1829 ông được phong là Viện sĩ Viện Hàn lâm Berlin.
[sửa] Bối cảnh ra đời của ngôn ngữ học đối sánh
Bước sang thế kỷ XIX, ngôn ngữ học châu Âu đã tích lũy được nhiều tri thức về các tiếng làm cơ sở cho sự hình thành ngữ pháp so sánh - lịch sử. Có hai nhân tố chủ yếu đạt được ở thời kỳ này là: 1) Việc sưu tập các mẫu ngôn ngữ trên thế giới và so sánh chúng; 2) Việc dùng những tài liệu của tiếng Xanxkrit vào việc so sánh các ngôn ngữ. Thời kỳ này có những đóng góp đáng lưu ý như: Phương pháp nghiên cứu của Lepnich; Việc sưu tập các mẫu ngôn ngữ mà người hưởng ứng tích cực đề nghị của Lepnich là nữ hoàng Nga Caterin II (1729-1796) [Theo ý kiến của bà, Dumaresk soạn quyển Từ vựng so sánh các ngôn ngữ phương Ðông.]; Việc so sánh với tiếng Sanskrit.
Những người đặt nền móng cho ngôn ngữ học so sánh - lịch sử là: Franz Bopp, (1791 - 1867), người Ðức. Chẳng thế mà A. Maillet đã khẳng định "Bopp đã tìm ra ngữ pháp so sánh khi tìm cách so sánh tiếng Ấn - Âu Cổ Đại, cũng như Christopher Colombo đã khám phá ra châu Mỹ trong khi tìm đường qua Ấn Độ”. Bopp được xem là người có công lao lớn nhất đối với sự ra đời của khuynh hướng nghiên cứu này vì ông đã chứng minh một cách có cơ sở, có hệ thống quan hệ họ hàng giữa các ngôn ngữ Ấn - Âu, vạch ra những quy luật tương ứng về hình thái học giữa các ngôn ngữ ấy. Rask là người có đóng góp lớn nhất về thủ pháp nghiên cứu. Ngoài ra, còn có nhiều nhà ngôn ngữ học tên tuổi khác trong lĩnh vực này như Ramous Christian Rask (1787 – 1832), A. Scheicher (1821 – 1868), …
Ở Pari, Bopp đã viết công trình Về hệ thống biến ngôi của động từ trong tiếng Xanxkrit so sánh với các ngôn ngữ Hi Lạp, Latin, Ba Tư và Giécman. Tác phẩm này đã đưa Bopp lên vị trí người sáng lập ra ngôn ngữ học so sánh. Và cũng chính từ tác phẩm này, ông đã khẳng định vững vàng quan niệm về tính thống nhất của họ ngôn ngữ Ấn-Âu.
Có thể nói, nếu tiếng Sanskrit chưa được phát hiện thì Bopp khó lòng có thể tiến hành so sánh để tìm thấy mối quan hệ họ hàng. Ở đây, tiếng Sanskrit xuất hiện như một nhân chứng thứ ba bên cạnh tiếng Hi Lạp và tiếng Latin, đã cung cấp cho ông một cơ sở nghiên cứu rộng hơn và vững hơn. Thuận lợi này lại được nhân lên vì một may mắn tình cờ là tiếng Xanxkrit có những điều kiện đặc biệt thuận lợi để soi sáng cho việc so sánh này.
Xét một số chuỗi biến cách: Latin: Genus - Genus, Generis, Genere, Genera, Generum... HiLạp: Génos - Génos, Géneos, Génei, Génea, Géneon... Hai chuỗi biến cách này không nói lên một điều gì hết, nhưng sự tình lại khác hẳn khi thêm chuỗi biến cách của tiếng Xanxkrit:
Sanskrit: Ganas - Ganas, Ganasas, Ganasi, Ganassu, Ganasam... Ngay từ đầu, người ta thấy đã xuất hiện bên cạnh Bopp, những nhà ngôn ngữ học ưu tú như: Jacob Grimm (1785-1863), August Pott (1802- 1887), Adalbert Kuhn (1812-1881), Theodor Benfey (1809- 1881) và August Schleicher (1821- 1868)... Ưu điểm lớn của Bopp là tạo nên một hình thức chính xác cho những ý niệm mà dưới hình thức khái quát, trừu tượng các ngôn ngữ như tiếng Sanskrit, Hy Lạp, Latin và cả tiếng Slave là vô bổ, không có khả năng sáng tạo qua công trình “Hệ thống chia động từ của tiếng Sanskrit so sánh với hệ thống của những tiếng Hy Lạp, Latin, Ba Tư và Giéc Manh”. Chính vì những ưu điểm này mà bài viết này muốn bàn về nhà ngôn ngữ học lẫy lừng được cho là người có công trong việc khai phá mảnh đất ngữ pháp so sánh vào buổi ban mai này.
Những công trình làm nên tên tuổi của Franz Bopp
Những nghiên cứu của Bopp, đã mang lại sự thâm nhập tuyệt vời vào những chi tiết nhỏ nhất của các hiện tượng ngôn ngữ dẫn đến việc mở rộng và đi xa hơn nữa của những vị trí cũng như cấu trúc, nguyên lý, thực hành và những cách sử dụng của dân địa phương của các quốc gia Ấn – Âu - một khoa học về ngữ pháp so sánh có lẽ chẳng ngoa khi người ta đề cập đến cái ngày mà tác phẩm đầu tay của ông được xuất bản. Và năm 1829 ông được phong là Viện sĩ Viện Hàn lâm Berlin. Trong công trình Về hệ thống biến ngôi của động từ trong tiếng Sanskrit so sánh các ngôn ngữ Hy Lạp, Ba Tư, Latin và Giécmanh được in tại Mailz, Bopp đã so sánh các hình thức biến ngôi của động từ trong tiếng Sanskrit với bốn ngôn ngữ cổ đại khác thuốc hệ Ấn – Âu bao gồm Hy Lạp, Ba Tư, Latin và Giécmanh. Trong công trình này ông đã nhận xét về những điểm tương đồng và đồng nhất đứng trên góc độ nguyên tắc, đó là chứng tích cộng đồng về nguồn gốc các ngôn ngữ được so sánh. Thoạt đầu, ông dựa vào hệ biến hình của động từ, thực ra đấy chỉ là một phương pháp hẹp trong phương pháp so sánh. Vì vậy khi công trình Về hệ thống biến ngôi của động từ trong tiếng Sanskrit so sánh các ngôn ngữ Hy Lạp, Ba Tư, Latin và Giécmanh được dịch sang tiếng Anh vào năm 1820 với nhan đề Analytical Comparison of the Sanskrit, Greek, Latin and Teutonic Languages, Shewing the Original Identify of their Grammatical Structure, Bopp đã mở rộng hệ biến cách của danh từ. Cống hiến lớn nhất của Bopp là khi so sánh các ngôn ngữ, ông lấy cấu trúc ngữ pháp làm cơ sở, lấy sự tương đồng về biến hình để chứng minh cho sự thân tộc ngôn ngữ. Bởi ông cho rằng sự biến hình này thuộc về lớp từ với những yếu tố hiếm khi là từ vay mượn của ngôn ngữ này qua ngôn ngôn ngữ khác. Tác phẩm tiêu biểu của Bopp trong thời kỳ này là bộ Ngữ pháp so sánh các ngôn ngữ Sanskrit, Zender, Acmeni, Hy Lạp, Latin, Litva, Slave cổ, Got và Đức gồm ba tập chia làm sáu phần. Xuất bản lần đầu tại Berlin (từ năm 1833 đến năm 1852); tái bản lần thứ hai (từ năm 1856 đến 1861) có nhiều tu chỉnh đáng chú ý). Chính tác phẩm này đã khẳng định quan điểm về tính thống nhất của họ ngôn ngữ Ấn – Âu một cách vững chắc. Các điểm chính của công trình Ngữ pháp so sánh các ngôn ngữ Sanskrit, Zender, Acmeni, Hy Lạp, Latin, Litva, Slave cổ, Got và Đức. Công trình này đã trình bày rất tỉ mỉ về hình thái học. Chỉ một điều đáng tiếc là công trình này ít bàn đến các vấn đề cú pháp cũng như về ngữ âm. Trong tác phẩm này cũng như nhiều tác phẩm khác của mình, Bopp không những đã nghiên cứu các ngôn ngữ trên góc độ lịch sử hoặc xác lập mối quan hệ thân tộc bằng cách xét sự đồng nhất hay dị biệt về hình thức mà ngôn ngữ biểu thị bằng những phạm trù ngữ pháp nhất định mà còn giải thích những sự khác biệt này có phải được qui định bởi những qui luật chung hay không và có nên bỏ qua những qui trình mà căn cứ vào đó có thể xác định xem có phải là một ngôn ngữ từ trạng thái xưa chuyển sang trạng thái ngày nay không? Như vậy, cũng như nhiều nhà ngôn ngữ học so sánh vào thời kỳ này, Bopp tiêu biểu cho Thế kỷ Triết học của Ngôn ngữ học.
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC TRÀO LƯU NGÔN NGỮ TRONG CÁC CÔNG TRÌNH CỦA BOPP
Ảnh hưởng của các nhà ngôn ngữ học châu Âu và Ấn Độ
Ngoài ảnh hưởng của các nhà ngôn ngữ học châu Âu đương thời, Bop cũng như những nhà ngôn ngữ học cùng thời còn chịu ảnh hưởng rất lớn từ các nhà ngôn ngữ học Ấn Độ cổ đại như Karl J. Windischmann cùng với G. F. Creuzer, J. J. Görres, và anh em Schlegel về triết học và kiến thức của Ấn Độ. Tuy vậy, khác với những người đi trước, ông không tiếp thu nguyên vẹn tất cả những luận điểm từ những nhà khoa học Ấn Độ cổ đại trong việc nghiên cứu tiếng Sanskrit mà chỉ chọn lọc những luận điểm những thuật ngữ hợp lý, thống nhất chứ không mâu thuẫn với những quan điểm lịch sử về ngôn ngữ. Trong tác phẩm Ngữ pháp so sánh các ngôn ngữ Sanskrit, Zender, Acmeni, Hy Lạp, Latin, Litva, Slave cổ, Got và Đức, Franz Bopp đã ứng dụng cách nghiên cứu của Panini về căn tố một cách nghiêm túc và cũng như Ocherki đã nói chỉ giải pháp này cũng đã có ý nghĩa cho việc hình thành một khuynh hướng mới trong khoa học ngôn ngữ.
Những đề xuất mới của Franz Bopp
Bopp đã cho rằng từ của các ngôn ngữ họ Ấn – Âu bắt nguồn từ những căn tố một âm tiết. Ông chia căn tố ra làm hai loại là căn tố danh từ và căn tố đại từ. Theo ông, căn tố danh từ là loại căn tố phong phú nhất và là nguồn gốc của động từ và danh từ. Căn tố đại từ là nguồn gốc của đại từ, giới từ, liên từ và các tiểu từ đầu tiên. Ý kiến này cũng gần như trùng khớp với ý kiến của các nhà ngôn ngữ học Đức như F. K. Fulda qua công trình Sưu tập và nguồn gốc các căn tố Giécmanh, I. C. Adeline trong tác phẩm Về nguồn gốc sự xuất hiện của một ngôn ngữ và cấu tạo từ đặc biệt của tiếng Đức vì những nhà ngôn ngữ học này cho rằng các từ bắt nguồn từ những yếu tố cấu tạo bằng một âm tiết. Ảnh hưởng tư tưởng và ý kiến A. Schlegel và F. Schlegel, lý thuyết về căn tố đơn âm tiết đã chi phối cách F. Bopp phân loại các ngôn ngữ. Ông chia các ngôn ngữ ra làm ba loại theo loại hình học như sau: Loại thứ nhất: những ngôn ngữ không có căn tố thật sự; có nghĩa là những căn tố không có khả năng hòa kết, do đó không thể hữu cơ được và cũng không có ngữ pháp, chẳng hạn như tiếng Hán. Loại thứ hai: những ngôn ngữ có căn tố đơn âm tiết, có khả năng hòa kết và nhờ con đường ấy mà nó có thể hữu cơ và có ngữ pháp. Nguyên tắc cơ bản trong phép cấu tạo từ của những ngôn ngữ loại này là hòa kết căn tố động từ với căn tố đại từ. Hầu như các ngôn ngữ Ấn - Âu thuộc loại này. Loại thứ ba: những căn tố động từ có hai âm tiết, đặc trưng bằng sự có mặt của ba phụ âm; những phụ âm này tạo nên một căn tố duy nhất, biểu thị một ý nghĩa duy nhất. Loại ngôn ngữ này chỉ bao trùm các ngôn ngữ Smit, có hình thức cấu tạo ngữ pháp bằng cách thay đổi nội bộ căn tố mà không theo con đường hòa kết. Ngoài ra, Bopp còn chịu ảnh hưởng của ngữ pháp học phổ quát. Xuất phát từ công thức cấu tạo mệnh đề gồm chủ từ - hệ từ - vị từ (Nguyễn Kim Thản, Lược sử ngôn ngữ học, tập 1) ông cũng cho rằng cách thức trong cấu trúc của động từ biến ngôi cũng gồm có những thành phần như thế hàm chứa trong chúng. Điều này được Bopp phân tích khá kỹ ở thì tương lai và quá khứ bất định của động từ trong tiếng Sanskrit và Hy Lạp. Ví dụ: Sanskrit Hy Lạp Latin tiếng Việt adiksam adekhsa diski Tôi đã trỏ Vĩ tố s trong những động từ trên đây, được Bopp xem là động từ - hệ từ (có nghĩa như là đã mất đi tính độc lập: trong ngôn ngữ Sanskrit nó là căn tố ~as, còn trong tiếng Hy Lạp nó là căn tố ~es). Do đó, Bopp cho rằng động từ - với nghĩa hẹp chân chính của từ này, chỉ có thể là hệ từ ~as, ~es v.v.. như vừa đề cập ở trên vì nó biểu thị sự kết hợp giữa một đối tượng với tính chất và quan hệ qua lại giữa chúng với nhau. Do đó, động từ, xét về mặt phát sinh, không có nghĩa đích thực mà chỉ là hệ từ ngữ pháp giữa chủ từ và vị từ. Còn vị từ chính là căn tố động từ, theo F. Bopp và những vĩ tố chỉ ngôi là chủ từ.
Các luận điểm của Franz Bopp về căn tố
Lý thuyết về hai loại căn tố và lý thuyết về ba thành phần hòa kết trong động từ nói trên cũng là lý thuyết cơ sở chắp dính của Franz Bopp. Theo lý thuyết này, mọi sự biến hình - cả động từ và danh từ - đều là kết quả của sự hòa kết (chắp dính) của một từ thực (chứa trong căn tố của động từ) với một từ phụ trợ (xuất hiện ở căn tố đại từ). Các vĩ tố ngôi bắt nguồn từ các đại từ ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. Ông chứng minh những luận điểm trên như sau. Dựa vào tiếng Sanskrit - một trong những ngôn ngữ có hình thức cố định hóa cổ nhất trong dòng họ Ấn - Âu làm xuất phát điểm nghiên cứu. Ông quan sát, theo dõi sự phát triển của các hình thức trong những ngôn ngữ Ấn – Âu có tính chất cổ, tách rời các bộ phận của chúng, phân tích tỉ mỉ các hiện tượng và cố tìm đến nguồn gốc đầu tiên của chúng. Mỗi nhóm sẽ chọn một ngôn ngữ tiêu biểu mà theo ông vẫn bảo tồn được những hình thức cổ xưa nhất. Đối với tiếng Giécmanh, ông chọn tiếng Gót, còn ngôn ngữ Slave, ông chọn tiếng Slave cổ. Ông đặc biệt chú ý đến tiếng Litva vì hai ngôn ngữ này có nhiều hình thức cổ gần giống như tiếng Sanskrit và tiếng Zender cổ và nguốn gốc là đại từ ma (tôi), như ad-mi (tôi ăn). Trong tiếng Sanskrit và tiếng Zender, hình thức mi xuất hiện ở mọi động từ không có ngoại lệ. Trong tiếng Hy Lạp, thời quá khứ bị mất đi chỉ còn ở thời hiện tại đối với những động từ tương ứng với loại biến ngôi số 2 trong tiếng Sanskrit.
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NGÀNH KHOA HỌC KHÁC ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NGÔN NGỮ CỦA FRANZ BOPP
Ảnh hưởng từ những công trình ngôn ngữ cổ khác
Lý thuyết về nguồn gốc đại từ của vĩ tố biến ngôi vừa đề cập trên đây thực ra đã thấy trong các công trình nghiên cứu ngữ pháp Ấn Độ vào thời cổ; vào thế kỷ thứ 17, chuyên gia về ngôn ngữ Do Thái cổ và các ngôn ngữ kinh điển khác – B. Seizer – đã ứng dụng lý thuyết này để giải thích hình thức của động từ trong tiếng Hy Lạp cổ. Đến đầu thế kỷ thứ 18, một số công trình của các nhà ngữ văn học khác ở Hà Lan cũng có cách lý giải tương tự như vậy, song chính Franz Bopp mới là người so sánh với một số lượng ngôn ngữ nhiều hơn. Tuy nhiên, lý thuyết về sự chắp dính của Bopp đề ra trực tiếp mâu thuẫn với Lý thuyết tiến hóa do K. Becker - một lý thuyết gia gần như cùng thời với ông. Becker cho rằng không phải là những biến tố bắt nguồn từ những từ phụ trợ (đại từ) mà ngược lại những từ phụ trợ là kết quả của việc phân chia từ một từ nguyên thủy duy nhất thành những yếu tố tạo thành.
Quan điểm tiến hóa của Franz Bopp trong ngôn ngữ học
Càng về sau, Bopp càng mở rộng lý thuyết về những biến cách này trên một diện rộng hơn bao gồm cả danh từ. Theo ông, các hình thức biến cách này cũng là sự kết hợp của căn tố động từ với đại từ. Theo ông, vĩ tố ~S chỉ chủ cách số ít trong các ngôn ngữ Ấn – Âu cổ, là do đại từ chỉ định ~sa (cái này) mà ra. Ví dụ: - bhi (sợ) fxbhi-s (sự sợ hãi) bhu (tồn tại) fxbhu-s (quả đất) Có thể nói rằng các công trình của Franz Bopp có quan điểm tiến hoá rõ ràng khi nhìn vào các ngôn ngữ, và do đó đã góp phần đẩy lui quan điểm lãng mạn chủ nghĩa là quan điểm của F. Schlegel cho rằng các ngôn ngữ Ấn – Âu xuất hiện ở trình độ hoàn thiện rất cao, dường như là có sẵn, thì ngược lại, công trình của Bopp, đã chứng minh ngôn ngữ thay đổi và kết hợp một cách máy móc tạo ra một thể hữu cơ ngôn ngữ gây ấn tượng mới trong ngành ngôn ngữ học. Theo quan điểm của ông, việc tạo thành các thể hữu cơ phải tuân theo những qui luật khắt khe nhất định, và việc xác định những qui luật hoạt động của chúng là nhiệm vụ cơ bản của việc nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ. Đó là những qui luật về ngữ âm, những qui luật cơ giới, những qui luật cân bằng vĩ tố và căn tố. Ngoài ra, Bopp cũng bị những ảnh hưởng của các phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên. Thể hiện qua việc ông không những chỉ bàn đến thể hữu cơ ngôn ngữ, phân chia so sánh các ngôn ngữ, mà còn bàn đến vấn đề giải phẫu học ngôn ngữ, vật lý học ngôn ngữ, sinh lý học ngôn ngữ. Nhưng dù sao thì cũng chỉ là những thuật ngữ trong việc trình bày của ông mà thôi chứ không hẳn là chúng chi phối quan điểm ngôn ngữ học của ông.
KẾT LUẬN
Có thể cho rằng công lao của Franz Bopp là ở chỗ ông chứng minh được một cách có cơ sở chặt chẽ, có tính hệ thống mối quan hệ thân tộc của các ngôn ngữ Ấn - Âu, đưa ra các qui luật về hình thái học giữa các ngôn ngữ này. Phương pháp của ông là giải thích các hình thức ngữ pháp của ngôn ngữ này bằng cách so sánh với các hình thức của một ngôn ngữ khác. Ngoài ra, Bopp cũng khác với những nhà khoa học cùng thời là họ dùng ngôn ngữ (chủ yếu là tiếng Sanskrit) làm công cụ nghiên cứu triết học, lịch sử, … nhưng với Bopp – cái quan trọng trước hết đối với tôi là ngôn ngữ - ngôn ngữ được coi là đối tượng chứ không phải là nhận thức. Một dự báo mà cho đến khi tác phẩm của F. D. Saussure ra đời, người ta mới chú ý đến. Có thể nhiều người phê bình ông chưa chú trọng về sự tương ứng trong ngữ âm … nhưng điều quan trọng nhất vẫn là những điều khám phá của Franz Bopp đã mang lại cho ngành ngôn ngữ học một khái niệm mới – khái niệm so sánh - lịch sử trong ngôn ngữ học. Một khái niệm đã giúp nhà ngôn ngữ học bước lên bục cao nhất của người khai phá mảnh đất ngữ pháp so sánh vào buổi bình minh ấy.