Hoàng Hạc Lâu (thơ Thôi Hiệu)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu (崔顥), một thi nhân thời nhà Đường. Tương truyền rằng, Lý Bạch khi đến Hoàng Hạc Lâu đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu...

Dịch nghĩa:

Trước mắt thấy cảnh không tả được
Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu

Mục lục

[sửa] Nguyên tác

黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。

[sửa] Dịch âm

Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân[1] dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tái không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ[2] châu.
Nhật mộ hưng quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

[sửa] Dịch nghĩa

Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến người sinh buồn!

[sửa] Dịch thơ

[sửa] Bản dịch của Tản Đà

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

[sửa] Bản dịch của Ngô Tất Tố

Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Trời tối quê hương đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây.

[sửa] Bản dịch của Vũ Hoàng Chương

Xưa cánh hạc bay vút bóng người
Nay Lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc, bay bay mãi
Trắng một mầu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!

[sửa] Bản dịch của Trần Trọng Kim

Người đi cưỡi hạc từ xưa
Đất này Hoàng Hạc còn lưu một lầu
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông
Hán Dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì
Chiều hôm lai láng lòng quê
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu.

[sửa] Bản dịch của Nguyễn Khuê

Cưỡi hạc người xưa đi đã lâu
Còn đấy Hoàng Hạc chỉ trơ lầu
Hạc vàng biền biệt từ xưa ấy
Mây trắng lững lờ đứng mãi sau
Sông tạnh Hán Dương cây lắng bóng
Bãi thơm Anh Vũ cỏ tươi màu
Chiều buồn quê cũ nơi nào nhỉ
Khói sóng trên sông giục khách sầu.

[sửa] Bản dịch tiếng Anh "Home Longings" của H.A. Giles

Here a mortal once sailed up to Heaven on a crane,
And the Yellow-Crane Kiosque will for ever remain;
But the bird flew away and will come back no morẹ
Though the white clouds are there as the white clouds of yore.
Away to the east lie fair forests of trees,
From the flowers on the west comes a scent-laden breeze,
Yet my eyes daily turn to their far-away home,
Beyond the broad River, its waves, and its foam.
(Chinese poetry in English verse, London, 1898)

[sửa] Chú thích

  1. Tục truyền Phí Văn Vi thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở Hoàng Hạc lâu.
  2. Khu bãi bến khúc sông thuộc Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc.

[sửa] Liên kết ngoài