Hà Huy Tập
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hà Huy Tập (24 tháng 4 năm 1906 – 28 tháng 8 năm 1941) là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương từ 1936 đến 1938. (Có tài liệu ghi sinh năm 1901, 1902 hoặc 1903, nhưng tờ hôn thú do chính tay Hà Huy Tập viết đầu năm 1928 ghi ngày sinh là 24 tháng 4 năm 1906).
Mục lục |
[sửa] Tiểu sử
Ông sinh ở làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ là một nhà nho nghèo. Hà Huy Tập là con thứ hai, người anh cả tên là Hà Huy Sum (ở quê còn có tên gọi là Sâm), sau ông còn 3 em gái, một người có tên là Hà Thị Chuốt mất từ hồi nhỏ. Còn lại Hà Thị Chước người em gái kề ông Tập lấy chồng ở quê có tên là Nguyễn Đình Cương cũng hoạt động cùng thời với ông Tập là đảng viên Cộng sản thời kỳ 1930-1931.
Năm 1923, tốt nghiệp hạng ưu trường Quốc học Huế. Từ năm 1923 đến 1926, ông làm giáo viên tiểu học ở thành phố Nha Trang.
Giữa năm 1926, ông bị trục xuất khỏi Nha Trang và chuyển về dạy học ở trường tiểu học Cao Xuân Dục (thành phố Vinh). Ông tham gia Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam, tiền thân của Tân Việt Cách mạng Đảng) nên bị sa thải.
Tháng 3 năm 1927, ông chuyển vào Sài Gòn hoạt động, kiếm sống và dạy học ở An Nam học đường tức trường Nguyễn Xích Hồng, đến tháng 1 năm 1928 ông lại bị sa thải khỏi An Nam học đường.
Tháng 12 năm 1928, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc bàn việc hợp nhất với tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội rồi hoạt động trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Ngày 19 tháng 7 năm 1929, ông sang Liên Xô, học trường Đại học Lao động Cộng sản phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh là Cinichkin (Xi-nhi-trơ-kin).
Cuối năm 1929, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản toàn liên bang (bôn-sê-vích) (tên gọi lúc đó của Đảng Cộng sản Liên Xô).
Năm 1932, ông tốt nghiệp đại học và trở về Việt Nam. Trên đường về ông bị Pháp bắt và bị trục xuất sang Bỉ, sau đó trở về Trung Quốc.
Năm 1934, ông tham gia Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Ông trực tiếp chủ trì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng tại Ma Cao từ 27 tháng 3 đến 31 tháng 3 năm 1935. Tại Đại hội này, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và có chân trong Ban Thường vụ Trung ương.
Tháng 3 năm 1935, ông được cử làm Bí thư Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 7 năm 1936, Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương cử ông về nước để lập lại Trung ương cấp ủy và và giữ chức Tổng Bí thư từ ngày 26 tháng 7. (Chức Tổng Bí thư của ông mới được công nhận trong thời gian gần đây, nhưng thời gian ông giữ chức vụ này cũng không được ghi thống nhất. Có tài liệu ghi ông "lãnh đạo Ban chấp hành Trung ương trên cương vị Tổng Bí thư" từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng, tháng 3 năm 1935).
Ông trực tiếp chỉ đạo các báo L'Avant garde (Tiền phong) (1937), Dân chúng (1938) của Đảng dưới danh nghĩa "cơ quan lao động và dân chúng" ở Nam Kỳ.
Từ 3 tháng 9 đến 5 tháng 9 năm 1937, Hội nghị Trung ương họp ở Bà Điểm, Gia Định, ông báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của đảng từ sau Đại hội I đến năm 1937.
Tháng 3 năm 1938, ông thôi chức Tổng Bí thư, là Ủy viên Thường vụ Trung ương và thành viên Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Ngày 1 tháng 5 năm 1938, ông bị quân Pháp bắt tại Sài Gòn, sau đó bị quản thúc ở quê.
Ngày 30 tháng 3 năm 1940 ông bị bắt lại và ngày 25 tháng 10 năm đó, ông bị thực dân Pháp xử tuyên án 5 năm tù giam.
Ngày 25 tháng 3 năm 1941, Pháp đổi thành án tử hình vì "chịu trách nhiệm tinh thần về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" ( Cùng bị kết án tử hình với Hà Huy Tập còn có Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai .)Trước tòa ông tuyên bố: "Tôi chẳng có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống tôi sẽ tiếp tục hoạt động."
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, ông bị Pháp xử bắn cùng với một số nhà cách mạng khác tại Sở Rác (nay là bệnh viện Hóc Môn_ Sài Gòn).( Có tài liệu nói là ông và các đồng chí bị xử bắn ở Ngã Ba Giồng_Hóc Môn, Gia Định, hiện nay có khu di tích tại đây .)
[sửa] Tác phẩm và bút danh
Toàn bộ trước tác gồm 14 bài viết và văn kiện, 20 tác phẩm sách báo trong đó có cuốn Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương bằng tiếng Pháp, 291 trang, xuất bản đầu năm 1933 (lấy bút danh Hồng Thế Công (H-T-C)) và Trôtxkit và phản cách mạng (lấy bút danh Thanh Hương). Ngoài 2 bút danh trên, Hà Huy Tập còn có các bút danh khác như Xinhikin, Xinhitrơkin, Sinitchkin, Giodep Marat, Hồng Quy Vít và Nhỏ.
- Lịch sử của Tân Việt cách mệnh Đảng (1929);
- Hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương (1931);
- Đảng Cộng sản Đông Dương đứng trước chủ nghĩa cải lương quốc gia (1932);
- Thư gửi Ban biên tập Tạp chí Bôn-sơ-vích (1932);
- Kỷ niệm ba năm ngày Đảng Cộng sản Đông Dương thống nhất (1933),
v.v..
Nổi bật nhất là tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương (1933)
[sửa] Đánh giá
Công lao của ông là đã góp phần tích cực trong việc khôi phục ban lãnh đạo của Đảng bị địch phá vỡ sau cao trào 1930-1931, tham gia chuẩn bị và tổ chức Đại hội Đảng I, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lãnh đạo suốt 4 năm liền.
Ông cũng là người phê phán Nguyễn Ái Quốc mạnh mẽ về chủ nghĩa dân tộc cải lương. Ông đã viết trên Tạp chí Bônsơvích (số 8/12-1934):
“Công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với chúng ta thật to lớn, nhưng các đồng chí chúng ta không được quên những tàn tích quốc gia chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ thị sai lầm của đồng chí ấy về những vấn đề căn bản của phong trào cách mạng tư sản dân quyền và những lý luận cơ hội của đồng chí ấy bám rễ vào đầu óc của phần đông đồng chí chúng ta, giống như những tàn tích tư sản vẫn sống dai dẳng trong đầu óc những hội viên Thanh Niên, Tân Việt và Vừng Hồng.
Nguyễn Ái Quốc không hiểu được những chỉ thị của Quốc tế cộng sản; không hợp nhất được ba tổ chức cộng sản từ trên xuống dưới… Tài liệu Sách lược vắn tắt của Đảng và Điều lệ của Đảng hợp nhất không theo đúng chỉ thị của Quốc tế cộng sản. Ngoài ra Nguyễn Ái Quốc còn chủ trương một sách lược cải lương và hợp tác: “trung lập tư sản và phú nông”, “liên minh với địa chủ nhỏ và vừa”, v.v… Vì những sai lầm đó, nên từ tháng Giêng đến tháng Mười năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đi theo một chiến lược có nhiều điểm trái với những chỉ thị của Quốc tế cộng sản, tuy trong thực tế đã lãnh đạo quần chúng kiên quyết đấu tranh cách mạng”. (Trích dẫn và dịch lại từ Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese communism 1925-1945, Cornell University Press, 1982, USA).
[sửa] Gia đình
Ông Hà Huy Tập có vợ là bà Nguyễn Thị Giáo và con gái duy nhất là Hà Thị Thúy Hồng, sinh năm 1928. Khoảng 4-5 năm sau khi sinh con, bà Nguyễn Thị Giáo cùng con gái từ quê ở Hà Tĩnh đi vào Sài Gòn sống một thời gian rồi xuống Cần Thơ, sau đó lại lên Sài Gòn. Sau khi ông bị kết án tử hình, bà Giáo kết duyên với người chồng thứ hai tên là Tạ Phước Lai ở Sài Gòn, sinh thêm 3 người em chung mẹ khác cha với bà Hồng, hiện nay đều sống bên Mỹ. Bà Giáo mất năm 1997 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bà Hồng từ thuở nhỏ được bố dượng coi như con đẻ, cho học xong chương trình Diplome trường Pháp -Việt. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, bà theo nghề mẹ làm giáo viên tiểu học tại trường Chi Lăng, rồi xây dựng gia đình với ông Bùi Quang Hiên hơn bà 6 tuổi. Đến 1975 đất nước thống nhất, bà Hồng bước sang tuổi 46 mới biết bố mình là Hà Huy Tập. Ông Hiên đã từng hoạt động cách mạng gắn bó với vùng chiến khu D, bị tù đày ở Côn Đảo suốt 10 năm. Năm 1965 ra tù, ông về hoạt động ở thành phố, rồi mất 1988. Ông bà có 3 người con đều là gái có tên là Hồng Anh, Hồng Liên và Hồng Vân.
Trước: Lê Hồng Phong |
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam 1936 - 1938 |
Sau: Nguyễn Văn Cừ |