Công cơ học
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Công cơ học, gọi tắt là công, là năng lượng được thực hiện khi có một lực tác dụng lên vật thể làm vật thể và điểm đặt của lực chuyển dời. Công cơ học thu nhận bởi vật thể được chuyển hóa thành sự thay đổi công năng của vật thể, khi nội năng của vật thể này không đổi.
Công được xác định bởi tích vô hướng của véctơ lực và véctơ đường đi:
- A=F.s
ở đây
- A là công, trong SI tính theo J.
- F là véc-tơ lực không biến đổi trên quãng đường di chuyển, trong SI tính theo N
- s là véc-tơ quãng đường thẳng mà vật đã di chuyển, trong SI tính theo m
- "." là nhân vô hướng
Khi quãng đường cong và/hoặc lực biến thiên trên đường đi, công được tính theo tích phân đường:
với
Trong SI, đơn vị đo của công là đơn vị đo năng lượng Jule, viết tắt là "J" (1J = 1N x 1m).
[sửa] Hệ quả từ tích vô hướng
- Nếu véctơ lực và đường đi tạo với nhau một góc nhọn, công được sinh ra mang dấu "+"
- Nếu véctơ lực và đường đi có độ lớn không đổi, công đạt cực đại khi hai véctơ có cùng hướng (cùng phương và cùng chiều).
- Nếu véctơ lực vuông góc với đường đi, không có công sinh ra.
- Nếu lực ngược hướng với đường đi (ví dụ lực ma sát, đóng vai trò lực cản), công được sinh ra mang dấu "-".
[sửa] Lực bảo toàn
Với các lực bảo toàn, tích phân đường của công thực hiện bởi lực F giữa hai vị trí r và r0:
có giá trị không phụ thuộc vào đường đi cụ thể từ r0 đến r.
Như vậy tại mỗi điểm r đều có thể đặt giá trị gọi là thế năng:
với φ(r0) là giá trị thế năng quy ước ở mốc r0.
Như vậy công của lực bảo toàn là chênh lệch thế năng của trường lực bảo toàn. Khi lực bảo toàn thực hiện công lên vật thể, vật thể sẽ thay đổi thế năng.