Lê Văn Duyệt

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tả quân quận công Lê Văn Duyệt (1764-1832) là một công thần trụ cột của nhà Nguyễn. Ông đã theo tòng chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng với chúa Nguyễn Phúc Ánh và các tướng lĩnh khác lấy thành Bình Định, chiếm thành Phú Xuân, thâu đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức Tổng Trấn thành Gia Định 2 lần: từ 1813 đến 1816 (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (đời vua Minh Mạng).

Mục lục

[sửa] Cuộc đời

Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 trong vùng thôn dã gần vàm Trà Lọt, làng Hòa Khánh, thuộc tỉnh Tiền Giang. Ông nội của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Hiếu từ Quảng Ngãi vào đây sinh sống. Sau khi Lê Văn Hiếu qua đời, cha ông là Lê Văn Toại rời vùng Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, thuộc làng Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay.

Khi Phúc Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy vào Nam có ngụ tại nhà thân sinh của ông là Lê Văn Toại, nhân đó ông được Nguyễn Phúc Ánh tuyển dụng làm thái giám ( ông là người ái nam ái nữ bẩm sinh chứ không phải tự hoạn để làm thái giám ). Lúc bấy giờ ông mới 17 tuổi. Ít lâu sau Lê Văn Duyệt được phong làm Cai Cơ trông coi nội binh.

Từ năm 1789 ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của Nguyễn Phúc Ánh. Năm 1793 Lê Văn Duyệt cùng với Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Văn Thành, Võ Di Nguy và Võ Tánh theo Nguyễn Phúc Ánh đi đánh Qui Nhơn, lấy được phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương. Tháng 1 năm 1801 ông đã cùng Nguyễn Phúc Ánh và các tướng Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận Thị Nại). Quân Tây Sơn thua to trong trận này. Tháng 4 Nguyễn Phúc Ánh đem thủy quân ra Đà Nẵng. Đến tháng 5 Nguyễn Phúc Ánh vào cửa Tư Dung, Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc. Ngày 3 tháng 5 Nguyễn Phúc Ánh đem binh vào thành Phú Xuân.

Tháng 5 năm 1802 sau khi lên ngôi, vua Gia Long phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê Chất mang quân tiên phong đánh ra Bắc thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, vua Gia Long đã thu phục được Bắc Hà.

Tả Quân Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn thành Gia Định hai thời kỳ: từ 1813 đến 1816. Năm 1813 ông lãnh chức Tổng Trấn thành Gia Định, kiêm trông coi luôn cả Bình ThuậnHà Tiên. Đến năm 1816 ông được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi Thái Tử. Lần thứ nhì từ năm 1820 cho đến khi mất. Lê Văn Duyệt làm tổng trấn ở Gia Định thành rất uy quyền, lòng người ai cũng kính phục, gọi ông là "ông Lớn Thượng". Đương thời các nước lân cận đều sợ oai phong của Lê Văn Duyệt, gọi ông là "Cọp Gấm Đồng Nai", một trong ngũ hổ tướng từng là tổng trấn Gia Định thành (bốn người còn lại là Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn, Kiến Xương Quận Công Nguyễn Huỳnh Đức và Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu). Lê Văn Duyệt đã thành lập hai cơ quan từ thiện là "Anh hài" để rèn luyện võ nghệ cho trẻ thích việc kiếm cung và "Giáo dưỡng" để cho những trẻ khác và quả phụ học văn chương và nghề nghiệp. Thành Phiên An (tức thành Gia Định) do Lê Văn Duyệt cho xây đắp thêm, đến năm 1830 thì xong. Thành được xây bằng đá ong, thành cao và rộng nên khi Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt, khởi loạn chiếm thành, quân triều đình vây đánh 3 năm mới hạ được. Hằng năm ông tổ chức hai lễ lớn: lễ triều kiến vua và lễ duyệt binh. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán vua Miên phải sang chúc thọ vua Việt Nam tại thành Phiên An. Cứ ngày 30 Tết vua Miên phải có mặt tại thành để ngày hôm sau cùng Tả Quân trấn hành lễ chúc thọ tại Vọng Cung. Ngoài ra ngày mồng sáu tháng Giêng thì tổ chức lễ "xuất binh" để thị oai với các nước láng giềng và để nhân dân an tâm vì thời đấy người dân tin rằng đầu năm có diễn oai binh lực thì sẽ được bình an suốt năm vì tà ma quỷ mỵ đều sợ oai phong của Tả Tướng Quân.

Tương truyền, từ lúc trẻ, ông đã là người ái nam ái nữ, thích đá gà và cũng tự nuôi nhiều gà chọi. Ngoài ra ông cũng là người rất sành thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu. Tả Quân Lê Văn Duyệt là người đã từng khuyên vua Gia Long chọn con của Đông Cung Cảnh để nối ngôi thay vì hoàng tử Đảm (là vua Minh Mạng sau này). Do từ tiền triều đã được nhập triều bất bái nên sau này ông không chịu lạy vua Minh Mạng và đã giết Huỳnh Công Lý, cha một quí phi của vua Minh Mạng, vì tội tham nhũng.

Ông qua đời tại thành Gia Định vào đêm 30 tháng 7 năm 1832.

[sửa] Khởi nghĩa

[sửa] Vụ án Lê Văn Duyệt

Từ khi Lê Văn Khôi là con nuôi của Lê Văn Duyệt nổi loạn chiếm thành Phiên An (tức thành Gia Định) vào năm 1833, vua Minh Mạng thường ban trách Lê Văn Duyệt. Năm 1835 Phan Bá Đạt dâng sớ kể tội Lê Văn Duyệt. Vua Minh Mạng mới dụ rằng: "Còn như Lê Văn Duyệt và con cháu hắn nên xử tội như thế nào thì giao cho đình thần nghị xử." Vài hôm sau, Hà Quyên, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh tâu lên vua 6 tội của Lê Văn Duyệt. Đến khi nghị án xong có 7 tội nên trảm, 2 tội nên giảo và 1 tội nên phát quân. Vua mới dụ rằng: "Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, không bõ gia hình. Vậy cho Tổng Đốc Gia Định đến chổ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết cho những chữ "Quyền yểm Lê Văn Duyệt thụ pháp xứ", để chính tội danh cho kẻ đã chết, mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền gian muôn đời."

[sửa] Ngôi mộ của Tả Quân

Đến năm 1841 vua Thiệu Trị xuống chiếu hủy bỏ bia kết tội và xiềng xích, cho xây đắp lại mộ mà ngày nay còn thấy ở Bà Chiểu, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến đời vua Tự Đức lại cho đắp mộ tại Gia Định cao rộng thêm và cho tu bổ lại đền thờ cạnh mộ, nay gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Năm 1848 Tả quân được truy phục Vọng các công thần, chưởng Tả Quân Bình Tây Tướng quân Quận Công và được đưa vào miếu Trung Hưng Công Thần. Trong đền thờ ở giữa là bài vị Khâm Sai Đại Thần, Quản Bình Tây Đại Tướng Quân, bên trái có bài vị Quận Công chi thần vị.

Theo nhiều nhà nghiên cứu trước đây nhận định thì ngôi mộ thực của Tả Quân Lê Văn Duyệt nằm ở Tiền Giang: "Theo lời các cố lão, ngôi mộ tại Gia Định Bình Hòa xã là ngôi mộ chôn bằng hình sáp, còn hài cốt thật thì về an táng tại làng Long Hưng, thuộc tỉnh Định Tường. (Tiền Giang ngày nay)". (Huỳnh Minh, Gia Định xưa, NXB Thanh Niên in lại năm 2001, trang 53.) Mới đây (tháng 4 năm 2006), sau một cuộc khảo sát ông Lý Việt Dũng đã đưa ra kết quả ngược lại.

[sửa] Tham khảo

  • Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, NXB Văn hóa Thông tin
  • Gia Định xưa, Huỳnh Minh (1973), NXB Thanh Niên in lại năm 2001
  • Việt sử: xứ Đàng trong, Phan Khoang (1967), NXB Văn học in lại năm 2001
  • Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sến

[sửa] Liên kết ngoài