Khu kinh tế ở Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khu kinh tế ở Việt Nam là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt, với môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi và bình đẳng bao gồm: các khu chức năng, các công trình hạ tầng kỹ thuật - xã hội, các công trình dịch vụ và tiện ích công cộng với các chính sách ưu đãi, khuyến khích, ổn định lâu dài và cơ chế quản lý thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Hiện cả Việt Nam có chín khu kinh tế sau (xếp theo thời điểm thành lập):
Khu kinh tế | Địa điểm | Thời điểm thành lập | Diện tích (ha) |
---|---|---|---|
Chu Lai | Quảng Nam | 5/6/2003 | 27.040 |
Dung Quất | Quảng Ngãi | 21/3/2005 | 10.300 |
Nhơn Hội | Bình Định | 14/6/2005 | 12.000 |
Chân Mây-Lăng Cô | Thừa Thiên - Huế | 05/01/2006 | 27.108 |
Phú Quốc - Nam An Thới | Kiên Giang | 14/2/2006 | 56.100 |
Vũng Áng | Hà Tĩnh | 3/4/2006 | 22.781 |
Vân Phong | Khánh Hoà | 25/4/2006 | 150.000 |
Nghi Sơn | Thanh Hóa | 15/5/2006 | 18.611,8 |
Vân Đồn | Quảng Ninh | 31/5/2006 | 55.133 |
Ghi chú: Thời điểm thành lập tính theo ngày mà Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt thành lập.
Ngoài ra, một số khu kinh tế khác đang trong quá trình xây dựng đề án, đó là Hòn La, Nam Phú Yên, Bắc Nghệ An, v.v...
Trong số các khu kinh tế đã thành lập, chỉ có Vân Đồn ở Bắc Bộ và Phú Quốc-Nam An Thới ở Nam Bộ, còn lại đều ở Trung Bộ, nhất là Trung Trung Bộ. Có ý kiến cho rằng việc thành lập quá nhiều khu kinh tế ở Trung Bộ làm phân tán nguồn lực để phát triển miền Trung.[1]