Quốc hội Hoa Kỳ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
![]() Loạt bài Chính trị Hoa Kỳ |
Hiến pháp |
Chính quyền Liên bang |
Quốc hội |
Tối cao Pháp viện |
Tổng thống |
Đảng Dân chủ |
Đảng Cộng hòa |
sửa |
Quốc hội Hoa Kỳ là cơ quan lập pháp của chính quyền liên bang Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ. Là một định chế quyền lực theo mô hình lưỡng viện, gồm Viện Dân biểu (House of Representatives) hay Hạ Nghị viện, và Thượng Nghị viện (Senate). Viện Dân biểu có 435 thành viên, mỗi dân biểu đại diện cho một hạt bầu cử, phục vụ trong nhiệm kỳ hai năm. Số dân biểu đại diện cho mỗi tiểu bang được ấn định theo tỷ lệ dân số. Ngược lại, tại Thượng viện, số thượng nghị sĩ đại diện cho mỗi tiểu bang là hai người, không tính theo tỷ lệ dân số. Như vậy có tổng cộng 100 thượng nghị sĩ, phục vụ theo nhiệm kỳ sáu năm. Thành viên của cả hai viện đều được người dân bầu trực tiếp. Tại một số bang, thống đốc có quyền bổ nhiệm thượng nghị sĩ tạm quyền khi có chỗ khuyết giữa nhiệm kỳ.
Hiến pháp dành cho Quốc hội quyền lập pháp liên bang; các quyền này được liệt kê rõ ràng trong hiến pháp; những quyền hạn khác được dành cho tiểu bang hay nhân dân, trừ khi có ấn định nào khác trong hiến pháp. Quyền lực to lớn của quốc hội bao gồm thẩm quyền ban hành các văn bản pháp quy trong lãnh vực thương mại giữa các tiểu bang và với nước ngoài, đánh thuế, thiết lập các toà án trực thuộc Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, duy trì quân lực và tuyên chiến. Trong qui trình thông qua các dự luật, cả hai viện có quyền ngang bằng nhau. Thượng viện Hoa kỳ không chỉ đơn giản là "một thiết chế kiểm tra" như một số định chế tương tự trong hệ thống lập pháp lưỡng viện tại nhiều quốc gia khác.
Cả hai viện đều đặt trụ sở tại điện Capitol, Washington, D.C.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
Các Điều khoản về Liên bang, theo đó Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ mới dành độc lập được điều hành, qui định Quốc hội là một thiết chế một viện, mỗi tiểu bang có số đại biểu bằng nhau. Sự thiếu hiệu quả của chính quyền liên bang theo thể chế này dẫn đến việc triệu tập Quốc hội lập hiến năm 1787; tất cả các bang, ngoại trừ Rhode Island, cử đại biểu đến tham dự. Một trong những vấn đề gây chia rẽ tại đây là cơ cấu của quốc hội. Kế hoạch Virginia của James Madison chủ trương một quốc hội lưỡng viện; hạ viện được người dân bầu trực tiếp, thượng viện được bầu bởi hạ viện và số đại biểu được ấn định theo tỷ lệ dân số. Kế hoạch này nhận được sự ủng hộ từ các bang lớn như Virginia, Massachusetts và Pennsylvania. Trong khi đó, các bang nhỏ hơn ủng hộ Kế hoạch Jersey, chủ trương quốc hội một viện với số đại biểu bằng nhau cho mỗi tiểu bang. Dần dần, một đề án mang tính thoả hiệp mang tên Connecticut hay Đại Thoả hiệp, được hình thành; một viện (viện dân biểu) có số đại biểu theo tỷ lệ dân số, trong khi viện còn lại (thượng viện) có số đại biểu bằng nhau, và để duy trì quyền lực của tiểu bang, viện lập pháp tiểu bang, chứ không phải người dân, bầu chọn các thượng nghị sĩ. Hiến chương được thông qua bởi chín trong số mười ba tiểu bang và có hiệu lực từ ngày 4 tháng 3 năm 1789.
Thế kỷ 19 chứng kiến những tranh chấp thường xuyên xảy ra giữa hai viện. Trong hầu hết nửa đầu thế kỷ 19, Thượng viện giữ được sự cân bằng giữa miền Bắc chủ trương tự do và miền Nam chủ trương sở hữu nô lệ, trong khi số lượng các tiểu bang còn ngang nhau. Ngược lại, tại Hạ viện, vì miền Bắc đông dân hơn nên nắm quyền kiểm soát. Một điển hình cho tình trạng này là dự luật Wilmot Proviso, cấm sở hữu nô lệ trong khu vực chiếm được trong chiến tranh Mỹ - Mễ, được ủng hộ tại Hạ viện nhưng bị chặn lại tại Thượng viện. Những tranh chấp về vấn đề nô lệ và về các vấn đề khác ngày càng trở nên trầm trọng cho đến khi bùng nổ cuộc Nội chiến (1861–1865), sau khi các tiểu bang miền Nam quyết định tách rời khỏi liên bang. Miền Nam bị thất trận và chế độ nô lệ bị bãi bỏ.
Trong Thời kỳ Tái thiết, cả hai viện đều ở dưới quyền kiểm soát của đảng Cộng hoà, được nhiều người Mỹ nối kết với chiến thắng trong cuộc nội chiến. Thời kỳ Tái thiết chấm dứt vào năm 1877 để bắt đầu một giai đoạn mới, Thời kỳ Vàng son (Gilded Age) của phát triển và hưng thịnh; vào lúc này, bắt đầu một sự chia rẽ sâu sắc trong lòng các cử tri, khi họ phải chọn lựa giữa đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà. Cũng phát sinh nhiều bất bình về việc dành quyền bầu thượng nghị sĩ cho các viện lập pháp tiểu bang. Các cuộc bầu cử Thượng viện thường bị vấy bẩn bởi những vụ mua chuộc và tham nhũng; trong một số trường hợp, sự liên kết giữa hai viện của các viện lập pháp tiểu bang ngăn chặn các cuộc bầu cử thượng viện (Delaware không có đại diện tại thượng viện trong bốn năm vì Viện lập pháp Delaware bị ngăn cản khi tiến hành bầu thượng nghị sĩ). Cuối cùng, Tu chính án thứ 17, được thông qua năm 1913, cho phép bầu trực tiếp các thượng nghị sĩ.
Thời gian đầu thế kỷ chứng kiến sự toả sáng của các nhà lãnh đạo tại cả hai viện của Quốc hội. Tại Hạ viện, vị thế của Chủ tịch (Speaker) ngày càng nâng cao, lên đến đỉnh điểm với nhiệm kỳ của Joseph Gurney Cannon. Dù các nhà lãnh đạo tại Thượng viện không dành được nhiều quyền lực như chủ tịch hạ viện, các thượng nghị sĩ tự gây dựng cho mình thanh thế lớn lao. Đặc biệt là chủ tịch các uỷ ban tại cả hai viện thường có nhiều ảnh hưởng đáng kể cho đến khi có những cải cách được tiến hành vào những năm 1970.
Trong ba nhiệm kỳ lâu dài của tổng thống Franklin D. Roosevelt (1933–1945), đảng Dân chủ kiểm soát cả hai viện Quốc hội, có lúc chiếm hai phần ba số ghế trong cả hai viện. Trong thập niên kế tiếp, có sự phân phối đồng đều hơn cho đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ. Dù vậy, sau chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1954, đảng Dân chủ bắt đầu kiểm soát quốc hội trong một thời gian dài đến nỗi trong suốt 40 năm, đảng Cộng hoà không hề có được đa số tại Hạ viện, và chỉ chiếm được đa số ghế tại Thượng viện trong 6 năm (1981–1987). Nhưng các đảng viên Cộng hoà đã ào ạt chiếm lại quyền lực dưới sự lãnh đạo của Newt Gingrich trong cuộc bầu cử năm 1994. Từ đó đến nay, hầu như liên tục giữ được quyền kiểm soát cả hai viện Quốc hội.
[sửa] Thành phần
Hạ viện, hay Viện dân biểu, có 435 thành viên đại diện cho 50 tiểu bang. Những đại biểu này được bầu chọn từ các bang dựa trên số dân, nhưng mỗi bang có quyền có ít nhất là một đại diện tại Hạ viện.
Các dân biểu được bầu từ một khu vực cử tri riêng lẻ gọi là hạt bầu cử (congressional district). Mỗi tiểu bang có thể sắp xếp các hạt bầu cử để đáp ứng những đòi hỏi của pháp luật như mỗi hạt bầu cử phải có số dân xấp xỉ ngang nhau. Nhiệm kỳ cho các dân biểu là hai năm.
Hiến pháp không dành quyền đại diện cho Hạt Columbia (District of Columbia) và các vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, Quốc hội cho phép họ bầu các đại biểu hoặc Resident Commissioner với quyền tham dự và tranh luận tại các phiên họp của Quốc hội, nhưng không có quyền biểu quyết. Các dân biểu phục vụ với nhiệm kỳ hai năm trong khi nhiệm kỳ dành cho Resident Commissioner là bốn năm. Hạt Columbia, Samoa, Guam, quần đảo Virgin thuộc Mỹ, mỗi nơi có một đại biểu. Riêng Puerto Rico bầu cho mình một Resident Commissioner.
Thượng viện có 100 thành viên, mỗi tiểu bang có quyền gởi đến Thượng viện hai thượng nghị sĩ đại diện cho mình. Thượng nghị sĩ được bầu bởi cử tri, không phải từ một hạt bầu cử, mà là của toàn bang. Nhiệm kỳ dành cho thượng nghị sĩ là sáu năm, được sắp xếp sao cho cứ mỗi hai năm có một phần ba số ghế tại Thượng viện được bầu lại, và làm thế nào để hai ghế đại diện cho một tiểu bang không phải bị bầu lại trong cùng một kỳ tuyển cử. Hạt Columbia và các lãnh thổ khác không có đại diện tại Thượng viện.
Đại thể, các đảng Cộng hoà và Dân chủ chọn ứng cử viên cho các cuộc bầu cử chính. Các cuộc tổng tuyển cử được tổ chức vào ngày thứ Ba đầu tiên của tháng 11 vào những năm chẵn. Các cuộc bầu cử đặc biệt được tổ chức bất cứ lúc nào có chỗ khuyết; riêng đối với các ghế khuyết tại Thượng viện, thống đốc tiểu bang thường dành quyền bổ nhiệm một thượng nghị sĩ tạm quyền cho đến khi có bầu cử.
[sửa] Thủ tục
Hiến pháp dành cho Hạ viện quyền bầu chức Chủ tịch Hạ viện. Với quyền hạn rộng lớn, người chủ tịch này có thể kiểm soát chiều hướng của các cuộc tranh luận và gán các lề thói cho Hạ viện. Thông thường, Chủ tịch Hạ viện không chủ toạ các cuộc tranh luận, thay vào đó, nhiệm vụ này được giao cho các thành viên khác. Chủ tịch Hạ viện cũng là người đứng đầu phe đa số tại Hạ viện.
Phó tổng thống Hoa Kỳ đương nhiên là Chủ tịch Thượng viện; người này không bầu phiếu trừ khi số phiếu bầu tại Thượng viện ngang nhau. Thượng viện cũng bầu ra một chủ tịch tạm quyền trong trường hợp Phó tổng thống vắng mặt. Cả Phó tổng thống lẫn chủ tịch tạm quyền đều không chủ toạ các phiên họp, nhiệm vụ này được đảm trách bởi các thượng nghị sĩ khác. Quyền hạn của chủ tịch tạm quyền ít hơn nhiều nếu so với quyền hạn của Chủ tịch hạ viện. Chủ tịch tạm quyền không phải là người đứng đầu phe đa số. Tại đây, Lãnh tụ phe đa số (Majority Leader) là người có ảnh hưởng lớn nhất.
Thành viên của cả hai viện thường biểu quyết bằng miệng; họ sẽ hô to "aye" hay "no", và chủ toạ phiên họp sẽ công bố kết quả. Dù vậy, Hiến pháp cũng qui định phải tổ chức biểu quyết bằng phiếu, nếu có yêu cầu của một phần năm số thành viên đang có mặt. Thông thường, biểu quyết bằng phiếu sẽ được tiến hành nếu kết quả của cuộc biểu quyết bằng miệng không rõ ràng hoặc vấn đề được biểu quyết là chủ đề đang gây tranh cãi. Thượng viện biểu quyết bằng miệng theo cách tuần tự; một thư ký xướng tên các thượng nghị sĩ từng người một, người được xướng tên sẽ hô to "aye" hoặc "no". Bình thường, các dân biểu tại Hạ viện sử dụng các thiết bị điện tử để biểu quyết.
[sửa] Nhiệm kỳ
Trước đây, nhiệm kỳ của Quốc hội bắt đầu vào ngày 4 tháng 3 của năm lẻ. Vì vậy, có một thời gian "tê liệt" tính từ cuộc tuyển cử vào tháng 11 cho đến lúc các tân nghị sĩ tuyên thệ nhậm chức. Tu chính án thứ 20, được thông qua vào năm 1933, rút ngắn thời gian tê liệt này bằng cách ấn định thời điểm khởi đầu nhiệm kỳ của Quốc hội là giữa trưa ngày 3 tháng 1 của năm lẻ.
Để bắt đầu nhiệm kỳ mới, toàn thể hạ nghị sĩ và một phần ba thượng nghị sĩ (vừa đắc cử trong cuộc tuyển cử tháng 11 năm trước) tiến hành tuyên thệ. Họ sẽ đọc lời tuyên thệ: "Tôi long trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ ủng hộ và bảo vệ Hiến pháp Hoa kỳ chống lại mọi kẻ thù, trong và ngoài nước; tôi tin tưởng và trung thành với Hiến pháp; tôi nhận lãnh trách nhiệm này cách tự nguyện, không hề dè dặt, cũng không né tránh; tôi sẽ tận tụy hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của trọng trách mà tôi sắp đảm nhận; Cầu xin Chúa phù hộ tôi". Hạ viện sẽ tiến hành bầu Chủ tịch mới trong khi chủ tịch tạm quyền của Thượng viện chỉ tiếp tục công việc của mình từ trước.
Quốc hội tổ chức hai "kỳ họp" cho mỗi nhiệm kỳ, mỗi kỳ họp kéo dài một năm, bắt đầu vào ngày 3 tháng 1 (hoặc một ngày nào khác theo sự chọn lựa của Quốc hội). Vào một thời điểm được chọn trong hai tháng đầu của mỗi kỳ họp, tổng thống sẽ đọc Diễn văn Liên bang, thẩm định tình hình quốc gia và phác thảo những dự luật sẽ trình quốc hội. Bài diễn văn này là một ứng dụng theo hình mẫu của Bài diễn văn của Vương quyền, được tuyên đọc bởi quốc vương nước Anh. Thomas Jefferson đã đình chỉ thông lệ này, và những tổng thống kế nhiệm tiếp bước ông, bằng cách hằng năm gởi một thông điệp viết sẵn đến quốc hội. Năm 1913, tổng thống Woodrow Wilson phục hồi thông lệ cũ khi ông đích thân đến đọc diễn văn trước hai viện Quốc hội; từ đó đến nay, ít có tổng thống nào muốn trách né công việc này.
[sửa] Chức năng
Nghị sĩ Quốc hội thường đệ trình các dự luật theo yêu cầu của những nhóm vận động hành lang (lobbyist). Các nhóm này vận động để thông qua hoặc bác bỏ các dự luật ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Trong một số trường hợp, các nhóm này soạn thảo dự luật và nhờ một nghị sĩ đệ trình. Các nhóm vận động hành lang quốc hội phải đăng ký vào cơ sở dữ liệu trung ương, và được sử dụng bởi các tổ chức chính trị, các công ty, chính quyền tiểu bang, chính quyền nước ngoài và nhiều nhóm khác. Năm 2005, có đến 35,000 nhóm vận động đã đăng ký, gấp đôi số lượng năm 2000. Nhiều nhà vận động hành lang nổi trội là cựu thành viên quốc hội.
Thành viên của cả hai viện đều có thể đệ trình dự luật, nhưng hiến pháp qui định "Tất cả dự luật nhằm nâng cao lợi tức phải xuất phát từ Hạ viện". Vì vậy, Thượng viện không có quyền đề xuất luật đánh thuế. Hơn nữa, Hạ viện cho rằng Thượng viện cũng không có quyền đệ trình luật ngân sách liên bang. Dù Thượng viện tỏ vẻ nghi ngờ về cách giải thích này của Hạ viện, mỗi lần Thượng viện trình luật ngân sách đều bị Hạ viện từ chối xem xét. Mặc dù không được đệ trình các dự luật này, Thượng viện lại có quyền sửa đổi hay bác bỏ chúng.
Mỗi dự luật đều phải trải qua một số giai đoạn tại mỗi viện; trước tiên, nó phải được xem xét bởi một uỷ ban. Các trình tự lập pháp phải được xem xét bởi các uỷ ban thường trực, mỗi uỷ ban có thẩm quyền trong một lãnh vực riêng biệt như nông nghiệp hay ngân sách. Hạ viện có 20 uỷ ban thường trực trong khi con số này tại Thượng viện là 16. Trong một số trường hợp, các dự luật có thể được đệ trình các uỷ ban đặc biệt (xem xét các lãnh vực chuyên môn hẹp hơn các uỷ ban thường trực). Các uỷ ban được phép tổ chức các cuộc điều trần và thu thập chứng cớ khi xem xét các dự luật. Các uỷ ban cũng có thể sửa đổi dự luật, nhưng chỉ có cả thượng viện hoặc cả hạ viện mới có quyền chấp nhận hay bác bỏ các dự luật. Sau khi xem xét và thảo luận, uỷ ban sẽ bỏ phiếu quyết định xem có nên trình dự luật trước toàn viện hay không. Khi được đệ trình bởi uỷ ban, dự luật sẽ được xem xét bởi toàn viện. Tại đây, dự luật có thể bị sửa đổi (qui trình này có thể khác biệt đôi chút giữa hai viện). Cuối cùng là biểu quyết.
Đảng phái thường không thể kiểm soát cách bỏ phiếu của các nghị sĩ của hai viện Quốc hội. Thanh danh cá nhân, tiến trình gây quỹ bầu cử và chiến dịch vận động tranh cử đóng vai trò quan trọng trong các cuộc tuyển cử; chỉ có sự ủng hộ từ đảng phái chính trị là không đủ. Vì các nghị sĩ không muốn dựa vào sự ủng hộ của các tổ chức đảng, họ thường tỏ ra độc lập với giới lãnh đạo đảng. Vì vậy giới lãnh đạo đảng tại quốc hội thường áp dụng chiến thuật "bắt và thả", để có thể thông qua những dự luật quan trọng cần đến sự ủng hộ của các nghị sĩ thiếu hợp tác. Họ sẽ "bắt" một nghị sĩ, áp lực người này ủng hộ thông qua dự luật, ngay cả khi nó không được cử tri của nghị sĩ này ưa thích. Rồi thì, sau khi đủ phiếu để thông qua, họ sẽ "thả", để người này tự do lựa chọn lập trường cho mình khi biểu quyết. Bằng cách này, các nghị sĩ có thể tránh gây ác cảm với các nhóm quyền lợi đặc biệt thường có nhiều ảnh hưởng, trong khi vẫn tỏ ra trung thành với đảng của mình.
Một khi một dự luật được thông qua tại một viện, nó sẽ được gởi đến viện kia; tại đó, nó có thể được thông qua hoặc bị bác bỏ hoặc bị sửa đổi. Để một dự luật có thể trở thành luật, cả hai viện phải đồng thuận về văn bản của dự luật. Nếu dự luật đã bị sửa đổi, thì một uỷ ban thương thảo sẽ vào cuộc (thành phần bao gồm thành viên của cả hai viện), và cố soạn ra một văn bản chung để trình hai viện; nếu được thông qua, nó sẽ thành luật; còn ngược lại, xem như thất bại. Tổng thống Ronald Reagan đã có lần nhận xét cách châm biếm "Nếu đem một quả cam và một quả táo giao cho uỷ ban thương thảo, nó sẽ trở thành một quả lê".
Sau khi được thông qua tại hai viện, dự luật sẽ được đưa qua tổng thống. Tổng thống có thể chọn ký ban hành, nó sẽ trở thành luật; hoặc tổng thống có thể chọn phủ quyết, gởi trả về Quốc hội với lời phản kháng. Trong trường hợp này, dự luật chỉ có thể trở thành luật nếu cả hai viện biểu quyết với hai phần ba số phiếu để vô hiệu hoá sự phủ quyết của tổng thống. Sau cùng, còn có một chọn lựa cho tổng thống là không làm gì hết, không ký ban hành, cũng không phủ quyết. Trong trường hợp này, Hiến pháp có qui định dự luật sẽ tự động trở thành luật sau mười ngày (không tính ngày chủ nhật). Tuy nhiên, nếu quốc hội chấm dứt kỳ họp trong mười ngày này, dự luật sẽ không thể trở thành luật. Vì vậy, tổng thống có thể phủ quyết một dự luật được thông qua vào cuối kỳ họp của quốc hội bằng cách lơ nó đi; thủ thuật này được gọi là pocket veto.
[sửa] Quyền hạn
Khoản 8 của điều 1 Hiến pháp Hoa Kỳ xác lập các quyền hạn của quốc hội. Những quyền quan trọng nhất gồm quyền đánh thuế và thu thuế, vay mượn, quy định về thương mại giữa các tiểu bang và với nước ngoài, đúc và in tiền, thiết lập các toà án trực thuộc Tối cao Pháp viện, phát triển và duy trì quân lực và tuyên chiến. Quốc hội cũng có một số quyền hạn khác thêm vào các quyền kể trên. Hơn nữa, điều khoản "mềm dẻo" trong hiến pháp cho phép quốc hội làm "tất cả luật cần thiết và đúng đắn để hành xử" các quyền khác của mình. Tối cao Pháp viện đã giải thích điều khoản cần thiết và đúng đắn này cách cởi mở, cho phép quốc hội gia tăng quyền hạn của mình. Hơn nữa, các phần khác của hiến pháp cung cấp thêm cho quốc hội một số quyền phụ trội như quốc hội có quyền thêm vào liên bang các tiểu bang mới (Điều 4). Những quyền khác cũng được đề cập tại các tu chính án.
Khoản 9 của điều 1 qui định một số giới hạn cho thẩm quyền của quốc hội như không được đình hoãn quyền công dân khiếu nại khi bị bắt giữ (trừ trường hợp tham gia phiến loạn hoặc đất nước đang bị xâm lăng), không được thông qua luật cho phép bắt giữ mà không xét xử, không được thông qua các luật có tính hồi tố, cũng không có quyền ban tặng các tước hiệu quí tộc. Một số giới hạn khác được qui định bởi các tu chính án, đặc biệt là Dự luật về các quyền.
Hiến pháp không công khai cho phép toà án hành xử quyền tài phán chung thẩm (quyền bác bỏ luật dựa trên sự thẩm định luật ấy là vi hiến). Tuy nhiên, khái niệm này được chấp nhận bởi một vài đại biểu như Alexander Hamilton khi ông đề cập và trình bày nó trong Federalist No. 78. Năm 1803, Tối cao Pháp viện, dưới sự lãnh đạo của Chánh Án John Marshall, thiết lập thẩm quyền hợp pháp cho quyền tài phán chung thẩm khi phán quyết vụ Marbury chống Madison. Sau vụ này, trong hơn 50 năm toà tối cao không vô hiệu hoá đạo luật nào của quốc hội cho đến năm 1857, khi xảy ra vụ án Dred Scott chống Sandford. Từ đó đến nay, có nhiều đạo luật được thông qua bởi quốc hội bị tuyên bố là vi hiến.
[sửa] Thế cân bằng
Ảnh hưởng của quốc hội đối với tổng thống thăng trầm theo dòng lịch sử. Cả ngành hành pháp lẫn ngành lập pháp đều không muốn kiểm soát chính quyền cho đến nửa cuối thế kỷ 19, khi cán cân quyền lực nghiêng về phía quốc hội. Vụ luận tội Andrew Jonhnson, cùng với việc thiếu hiệu quả của hầu hết tổng thống trong thời kỳ Vàng son khiến chức vụ này ngày càng suy yếu so với quyền lực của quốc hội. Cuối thế kỷ 19, tổng thống Grover Cleveland cố gắng phục hồi quyền lực của ngành hành pháp, phủ quyết hơn 400 dự luật chỉ trong nhiệm kỳ đầu của ông. Thế kỷ 20 chứng kiến sự trổi dậy của quyền lực tổng thống trong các nhiệm kỳ của Theodore Roosevelt, Franklin Delano Roosevelt, Richard Nixon, Ronald Reagan và những tổng thống khác. Gần đây, dù quốc hội đã cố gắng hạn chế các quyền của tổng thống bằng những đạo luật như Congressional Budget and Impoundment Control Act năm 1974 và War Powers Resolution, tổng thống vẫn có thể duy trì cho mình quyền lực lớn hơn thời kỳ thuộc thế kỷ 19.
Một trong những chức trách không lập pháp quan trọng nhất của quốc hội là quyền đìều tra và giám sát ngành hành pháp. Quyền này được uỷ nhiệm cho các uỷ ban - thường trực, đặc biệt, tuyển chọn hoặc liên viện (thành viên đến từ hai viện).
Các cuộc điều tra được tiến hành để thu thập thông tin phục vụ công tác lập pháp, kiểm tra tính hiệu quả của các đạo luật đã được thông qua, và để tra vấn về phẩm chất và thành tích của các thành viên và các viên chức của hai ngành còn lại trong hệ thống tam quyền phân lập của chính quyền Hoa kỳ. Các uỷ ban có quyền tổ chức những buổi điều trần, và nếu cần, có quyền bắt buộc các cá nhân ra làm chứng bằng cách ra trát yêu cầu hầu tòa. Nhân chứng nào từ chối ra làm chứng có thể bị buộc tội khinh mạn, còn ai làm chứng dối sẽ bị buộc tội khai man. Hầu hết các cuộc điều trần đều tiến hành công khai; những cuộc điều trần quan trọng thường thu hút sự chú ý của các phương tiện truyền thông đại chúng.
Hiến pháp dành cho Viện Dân biểu quyền luận tội các viên chức liên bang (cả hành pháp và tư pháp) về "tội phản quốc, hối lộ, các tội hình sự và hạnh kiểm xấu". Thượng viện có quyền xét xử các vụ luận tội. Một đa số tương đối (quá bán) tại Hạ viện là đủ để luận tội một viên chức, nhưng phải cần có đa số tuyệt đối (hai phần ba) tại Thượng viện mới có thể buộc tội. Một viên chức bị buộc tội đương nhiên bị bãi nhiệm; hơn nữa, Thượng viện có thể ngăn cấm người này giữ các chức vụ công quyền trong tương lai. Không có biện pháp chế tài nào được cho phép trong khi tiến hành luận tội. Trong lịch sử Hoa kỳ, Viện Dân biểu đã luận tội 16 viên chức, trong đó có 7 người bị buộc tội (một người từ nhiệm trước khi vụ xét xử tại Thượng viện hoàn tất). Chỉ có hai tổng thống Hoa kỳ bị đem ra luận tội, Andrew Johnson vào năm 1868 và Bill Clinton năm 1999. Cả hai vụ xét xử đều kết thúc với quyết định tha bổng; trong trường hợp của Johnson, chỉ thiếu một phiếu để có đủ đa số hai phần ba hầu Thượng viện có thể buộc tội tổng thống.
Theo tu chính án 12, quốc hội có quyền phá vỡ thế bế tắc của cử tri đoàn. Nếu không có ứng viên nào dành đủ đa số phiếu của cử tri đoàn, Hạ viện sẽ bầu chọn tổng thống từ ba ứng viên có số phiếu cao nhất của cử tri đoàn. Tương tự, nếu không có ứng viên phó tổng thống nào có đủ đa số phiếu của cử tri đoàn, Thượng viện sẽ chọn một trong hai người có số phiếu cao nhất.
Có một số quyền Hiến pháp chỉ dành riêng cho Thượng viện. Tổng thống không thể bổ nhiệm các viên chức chính phủ, thẩm phán và những viên chức cao cấp khác mà không có "sự cố vấn và đồng ý" của Thượng viện. Thượng viện thường phê chuẩn các ứng viên do tổng thống đề cử, nhưng việc bác bỏ không phải là không thường xảy ra. Thêm vào đó, tổng thống chỉ có thể phê chuẩn các hiệp ước khi có sự đồng thuận của đa số hai phần ba tại Thượng viện.
[sửa] Đặc quyền
Hiến pháp ban cho nghị sĩ của hai viện quyền không bị bắt giữ trong mọi tình huống ngoại trừ khi phạm tội phản quốc, các trọng tội và tội gây rối. Đặc quyền miễn trừ này được áp dụng cho các nghị sĩ "trong khi đang tham dự các phiên họp của quốc hội, khi đang trên đường đến dự họp và khi trở về". Hạ viện ban hành các qui định nghiêm nhặt nhằm bảo vệ quyền này; một hạ nghị sĩ không có quyền khước từ đặc quyền này trừ khi có sự cho phép của toàn thể hạ viện. Qui định của thượng viện ít nghiêm nhặt hơn, cho phép các thượng nghị sĩ khước từ đặc quyền này khi họ thấy thích hợp.
Hiến pháp cũng bảo đảm quyền tự do tranh luận tại hai viện, "các nghị sĩ không bị xét hỏi về những điều họ phát biểu hay tranh luận tại quốc hội". Do đó, một nghị sĩ sẽ không bị truy tố vì tội vu khống hoặc phỉ báng vì những nhận xét người này đưa ra tại quốc hội. Tuy nhiên, mỗi viện đều lập ra các qui định nhằm hạn chế các phát biểu với mục đích xúc phạm người khác, và có biện pháp chế tài các nghị sĩ vi phạm.
Ngăn cản công tác của quốc hội là một tội hình sự chiếu theo luật liên bang, được biết đến như là tội khinh mạn quốc hội. Quốc hội có quyền truy tố các cá nhân về tội khinh mạn; nhưng không thể áp đặt bất cứ hình phạt nào. Hệ thống tư pháp sẽ xét xử theo trình tự thông thường dành cho một vụ án hình sự. Nếu bị buộc tội, bị cáo có thể nhận mức án bị giam giữ lên đến một năm.
[sửa] Xem thêm
[sửa] Liên kết ngoài