Ngô Quang Bích
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích hay Ngô Quang Bích (1832-1890), Thượng thư bộ Lễ, Hiệp thống Quân vụ đại thần Bắc kỳ, dưới triều vua Hàm Nghi, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Cần Vương chống thực dân Pháp trên địa bàn núi rừng Phú Thọ - Yên Bái ngày nay.
[sửa] Thân thế và sự nghiệp
Nguyễn Quang Bích, tự là Hàm Hy, hiệu Ngư Phong, sinh tháng 4 năm Nhâm thìn (1832), quê làng Trình Phố, huyện Kiến Xương, tỉnh Nam Định cũ (nay là Trình Nhất, xã An Ninh, Huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình).
Ông vốn họ Ngô, dòng dõi vua Ngô Quyền và Khai Quốc công thần nhà Hậu Lê - Ngô Từ - ông ngoại vua Lê Thánh Tông [1], sau được vua Tự Đức ban cho Quốc tính, nên sử sách gọi là Nguyễn Quang Bích.
Ông là học trò của tiến sĩ Doãn Khuê. Năm 1861, ông đỗ Cử nhân và được bổ làm Giáo thụ phủ Trường Khánh - tỉnh Ninh Bình. Năm Kỷ tỵ (1869), ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ đình nguyên (tức Hoàng giáp). Sau đó ông được cử làm Tri phủ tại phủ Lâm Thao (tỉnh Phú Thọ ngày nay), rồi Tri phủ Diên Khánh (tỉnh Khánh Hòa ngày nay) và lần lượt làm Án sát tỉnh Sơn Tây, Tế tử Quốc Tử giám Huế, Án sát tỉnh Bình Định.
Năm Ất Hợi (1875), triều đình mở doanh điền Hưng Hóa (tức tỉnh Phú Thọ ngày nay) vừa khai hoang vừa phòng vệ vùng núi rừng Tây bắc, ông được cử làm Chánh sơn phòng sứ. Năm 1876 ông kiêm thêm chức Tuần phủ (còn gọi là Tuần vũ) tỉnh Hưng Hóa (tương đương Tỉnh trưởng ngày nay).