Trường Chinh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Trường Chinh (định hướng).
Trường Chinh (1907-1988)
Trường Chinh (1907-1988)

Trường Chinh (9 tháng 2, 1907 – 30 tháng 9, 1988), tên thật là Đặng Xuân Khu, là nhà cách mạng và chính trị gia của Việt Nam. Ông đã giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam như Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Chủ tịch Quốc hội. Ông còn là một nhà thơ với bút danh Sóng Hồng.

Mục lục

[sửa] Tiểu sử

Theo tiểu sử chính thức do Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành, Trường Chinh sinh ngày 9 tháng 2 năm 1907, quê ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy (nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường), tỉnh Nam Định.

Năm 1925–1926, khi còn là học sinh, ông đã tham gia phong trào đấu tranh đòi ân xá cho Phan Bội Châu, lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh và bị đuổi học.

Năm 1927, ông chuyển lên Hà Nội, tiếp tục học ở trường Cao đẳng Thương mại và tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1929, tham gia cuộc vận động thành lập Đông Dương Cộng sản ĐảngBắc Kỳ.

Năm 1930, ông được chỉ định vào Ban tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm này, ông bị Pháp bắt và kết án 12 năm tù và đày đi Sơn La, đến năm 1936 được trả tự do.

Giai đoạn 1936–1939, ông là Xứ Ủy viên Bắc Kỳ, đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, làm chủ bút báo Giải phóng, cơ quan của Xứ ủy Bắc Kỳ. Tại Hội nghị Trung ương 7 họp tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 11 năm 1940, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được cử làm Quyền Tổng Bí thư Đảng thay Nguyễn Văn Cừ.

Tháng 5 năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 họp tại Cao Bằng, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1943, ông bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt.

Trong giai đoạn chuẩn bị Cách mạng tháng Tám 1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng, ông được cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Cũng vào cuối năm này, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương do ông làm hội trưởng.

Năm 1951, khi Đảng Cộng sản được thành lập lại với tên Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương và giữ chức Tổng Bí thư cho đến tháng 10 năm 1956.

Năm 1953, ông là Trưởng ban cải cách ruộng đất Trung ương. Tháng 9 năm 1956, trong Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất, ông phải từ chức Tổng Bí thư.

Năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước. Đến năm 1960, ông lại được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị. Cũng trong năm này, ông được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đến năm 1976, giữ chức vụ này trong Quốc hội Việt Nam thống nhất cho đến năm 1981.

Năm 1981, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 14 tháng 7 năm 1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương, ông được bầu làm Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam thay cho Lê Duẩn vừa mất.

Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, ông rút khỏi các chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước và được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Ông được Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Sao vàng và nhiều Huân chương khác. Ông mất ngày 30 tháng 9 năm 1988, thọ 81 tuổi.

[sửa] Đánh giá

Bên cạnh công lao tổ chức lực lượng chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám, lâu nay dư luận vẫn xem Trường Chinh là một nhân vật nặng phần bảo thủ, không có sáng tạo gì thật mạnh dạn và mới mẻ. Chính ông đã phê phán quyết liệt việc khoán hộ sản phẩm của Kim Ngọc. Nhưng sau đó, cũng chính ông trong vai trò Tổng bí thư đã chủ động từ chức, nhường chỗ cho Nguyễn Văn Linh ở Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI và tán thành đường lối đổi mới, nhằm đưa đất nước thoát khỏi sự khủng hoảng toàn diện trong vòng 10 năm sau ngày thống nhất.

[sửa] Một số tác phẩm

  • Vấn đề dân cày (viết chung với Võ Nguyên Giáp) (1938)
  • Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (tháng 3 năm 1945)
  • Cách mạng Tháng Tám (1946)
  • Kháng chiến nhất định thắng lợi (1947)
  • Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam (1948)
  • Bàn về cách mạng Việt Nam (1951)
  • Thơ Sóng Hồng, tập I (1960), tập II (1974)
Tiền nhiệm:
Nguyễn Hữu Thọ (Quyền Chủ tịch nước)
Chủ tịch nước Việt Nam (Hội đồng Nhà nước)
1981 – 1987
Kế nhiệm:
Võ Chí Công
Tiền nhiệm:
Nguyễn Văn Cừ
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
1941 – 1956
Kế nhiệm:
Lê Duẩn
Tiền nhiệm:
Lê Duẩn
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
1986
Kế nhiệm:
Nguyễn Văn Linh
Tiền nhiệm:
Tôn Đức Thắng
(Trưởng ban Thường trực)
Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
1960 – 1981
Kế nhiệm:
Nguyễn Hữu Thọ

[sửa] Liên kết ngoài

[1]

Ngôn ngữ khác