Kawabata Yasunari
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Đây là một tên người Nhật; họ tên được viết theo thứ tự Á Đông (họ trước tên sau): họ là Kawabata. Tuy nhiên, tên người Nhật hiện đại trong ký tự Latin thường được viết theo thứ tự Tây phương (tên trước họ sau).
Kawabata Yasunari | |
---|---|
Kanji: | 川端 康成 |
Kana: | かわばた やすなり |
Hán-Việt: | Xuyên Đoan Khang Thành |
Rōmaji: | Kawabata Yasunari |
Kawabata Yasunari (tiếng Nhật: 川端 康成; 14 tháng 6, 1899 – 16 tháng 4, 1972) là tiểu thuyết gia, người Nhật đầu tiên và là người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel văn chương, năm 1968. Tác phẩm của ông có sức lôi cuốn rộng rãi và được đọc nhiều trên thế giới, đặc biệt đã phản ảnh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật.
|
[sửa] Tiểu sử
Kawabata sinh ở Osaka, mồ côi từ năm lên 2, từ đó cậu bé và chị sống cùng ông bà ngoại. Khi cậu lên 7 thì thì bà ngoại qua đời, lên 9 thì mất chị, được 14 tuổi thì mất cả ông ngoại, cậu phải về Tokyo sống với gia đình người dì.
Đứa trẻ ốm yếu lại côi cút Kawabata chỉ còn biết tựa mình vào năng lực sáng tạo, phong kín vết thương tâm hồn của mình bằng cuộc tìm kiếm mê mải cái đẹp trong cuộc đời.
Ở tuổi đôi mươi, Kawabata lại đánh mất một người mà ông hết lòng yêu thương, một thiếu nữ ông gọi là Chiyo. Ông đã cùng nàng hứa hôn nhưng khi mọi việc chuẩn bị xong, nàng bất ngờ từ hôn, không một lời giải thích.
- Không bao giờ tôi trút được ám ảnh rằng mình là một người lang thang ưu sầu. Luôn luôn mơ mộng tuy rằng chẳng bao giờ chìm đắm hoàn toàn trong mơ, mà vẫn luôn tỉnh thức giữa khi mơ...
Cảm thức cô đơn trong văn phẩm Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu và tuổi trẻ của ông. Cái cô đơn ấy bắt đầu với tập Nhật ký tuổi mười sáu. Khi nó được xuất bản vào năm 1925, tác phẩm đầu tay này có lẽ đã được viết lại dù trong đó, ấn tượng của một thiếu niên trước cái chết của người thân (ông ngoại) vẫn còn rõ nét. Những ngày cuối cùng khốn khổ của một người già yếu mù loà, cuộc sống cô độc của một thiếu niên nhỏ bé đối diện với sinh ly tử biệt được thể hiện chân thực.
Hồi nhỏ, Kawabata vẫn mơ ước vẽ tranh. Nhưng đến tuổi mười lăm, ông cảm thấy mình có tài viết hơn là vẽ, nên quyết định chọn con đường văn chương. Do đó mà trong văn xuôi Kawabata, những phong cảnh thiên nhiên và thế giới tâm hồn không ngớt mở ra trước mắt ta những màu sắc tinh tế.
Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo mà đáng chú ý nhất là tờ Mainichi Shimbun ở Osaka và Tokyo. Mặc dù đã từ chối tham gia vào sự hăng hái quân phiệt trong Đệ nhị thế chiến, ông cũng thờ ơ với những cải cách chính trị của Nhật Bản sau chiến tranh, nhưng rõ ràng chiến tranh là một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất đối với ông (cùng với cái chết của cả gia đình khi ông còn trẻ); một thời gian ngắn sau đó ông nói rằng kể từ đó ông chỉ còn khả năng viết những tác phẩm bi ca mà thôi.
Năm 1972 Kawabata tự tử bằng khí đốt trong một căn phòng ở Hayama, Kamakura. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra, nào là sức khoẻ kém, nào là một cuộc tình bị cấm đoán, nào là cú sốc do vụ tự tử của bạn ông, nhà văn Mishima Yukio năm 1970. Tuy nhiên, khác với Mishima, Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh, và vì trong các tác phẩm của ông không có gợi ý gì, đến nay không ai biết được nguyên nhân thật sự.
[sửa] Văn nghiệp
Thơ ca và truyện ngắn của Kawabata được ấn hành ngay từ lúc ông còn là học sinh trung học. Tình yêu thơ ca thấm đượm trong từng trang văn của ông, đặc biệt với loại truyện rất ngắn mà ông gọi là truyện ngắn trong lòng bàn tay, loại truyện mà ông luôn thích viết trong suốt cuộc đời mình, như ông giải thích: Tuổi trẻ trong đời nhiều nhà văn thường dành cho thơ ca; còn tôi, thay vì thơ ca, tôi viết những tác phẩm nhỏ gọi là truyện ngắn trong lòng bàn tay... Hồn thơ những ngày trẻ tuổi của tôi sống sót trong những câu chuyện ấy...
Vào Đại học Tokyo, Kawabata nghiên cứu cả văn học Anh lẫn văn học Nhật. ông say mê thơ văn cổ điển dân tộc như Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu , Sách gối đầu của Sein Shonagon lẫn các tác giả hiện đại Tây phương như Marcel Proust, James Joyce...
Khi còn là sinh viên ông đã cùng với Yokomitsu Riichi lập ra tờ Văn nghệ thời đại (Bungei jidai) làm cơ quan ngôn luận cho trường phái văn học tân cảm giác (shinkankaku-ha) nhằm thực hiện một cuộc cách mạng văn học đối đầu với làn sóng văn học cách mạng đương thời. Chọn con đường riêng cho mình, Kawabata tự bạch: Tôi đã tiếp nhận nồng nhiệt văn chương Tây phương hiện đại và tôi cũng đã thử bắt chước nó, nhưng chủ yếu tôi là một người Đông phương và suốt mười lăm năm qua tôi chưa từng đánh mất phong cách ấy của mình.
Một thời gian ngắn sau khi tốt nghiệp, ông bắt đầu được công nhận nhờ một số truyện ngắn, và được khen ngợi với truyện Vũ nữ xứ Izu (Izu no Odoriko) năm 1926, nói về những quyến rũ mới chớm của tình yêu tuổi trẻ. Các tác phẩm sau này của ông sẽ đi vào những chủ đề tình yêu tương tự. Các nhân vật của ông thường là các cô gái rất đẹp và trẻ, ông luôn hướng đến một vẻ đẹp vẹn toàn, ông cũng là người tôn sùng vẻ đẹp mỏng manh và luôn sử dụng ngôn ngữ đầy hình ảnh u ẩn về cuộc sống thiên nhiên và số phận con người.
Xứ tuyết (Yukiguni), tiểu thuyết đầu tiên của Kawabata, được bắt đầu năm 1934, đăng nhiều kỳ từ 1935 đến 1937, và chỉ hoàn tất năm 1947. Chuyện tình giữa một tay chơi từ Tokyo và một nàng ca kỹ (geisha) tỉnh lẻ diễn ra tại một thị trấn xa xôi đâu đó phía tây rặng Alps Nhật Bản (dãy núi chia đôi đảo Honshu). Vẻ đẹp của tuyết, của các mùa, của người nữ hòa quyện trên từng trang sách, đẹp như thơ, đưa tác phẩm ngay lập tức trở thành cổ điển, và như lời Edward G. Seidensticker, "có lẽ là kiệt tác của Kawabata", đã đưa Kawabata vào số những nhà văn hàng đầu nước Nhật.
Sau Đệ nhị thế chiến, ông tiếp tục thành công với những tiểu thuyết như Ngàn cánh hạc (một chuyện tình bất hạnh trong khung cảnh trà đạo), Tiếng rền của núi, Người đẹp say ngủ và Cái đẹp và nỗi buồn (tiểu thuyết cuối cùng của ông, lại một câu chuyện đam mê với kết cuộc buồn).
Bản thân Kawabata cho rằng tác phẩm hay nhất của mình là Danh thủ cờ vây (Meijin, 1951), truyện ngắn này tương phản rõ rệt với những tác phẩm khác. Truyện kể lại (có hư cấu thêm) một ván cờ vây năm 1938, mà ông đã tường thuật cho báo Mainichi. Đó là ván cờ cuối cùng của danh thủ Shūsai, ông này đã thua người thách đấu trẻ hơn mình, rồi qua đời một năm sau. Mặc dù truyện có vẻ hời hợt, chỉ là thuật lại một cuộc đấu tranh lên đến đỉnh điểm, một số độc giả cho rằng đó là ẩn dụ thất bại của Nhật Bản trong Đệ nhị thế chiến, số khác lại coi là cuộc đấu tranh giữa truyền thống và hiện đại.
Năm 1968, Kawabata được trao tặng giải Nobel văn chương với lời ca ngợi của Viện Hàn lâm Thụy Điển: "Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người" (diễn văn của tiến sĩ Anders Usterling trong lễ trao giải).
Là chủ tịch Hội Văn Bút Nhật Bản trong nhiều năm sau chiến tranh, Kawabata đã thúc đẩy việc dịch văn học Nhật sang tiếng Anh và các thứ tiếng phương tây khác.
[sửa] Tác phẩm chính
- Lễ chiêu hồn, truyện ngắn (Shokonsai ikkei, 1921)
- Vũ nữ Izu (伊豆の踊り子 Izu no Odoriko 1926)
- Những truyện ngắn trong lòng bàn tay (掌の小説 Tenohira no shosetsu, 1926)
- Hồng đoàn Asakusa (Asakusa Kurerai dan, 1930)
- Thuỷ tinh huyền tưởng (Suisho genso, 1931)
- Cầm thú (Kinju, 1933)
- Xứ tuyết, tiểu thuyết đầu tiên (雪国 Yukiguni, 1935-37, 1947)
- Ngàn cánh hạc (千羽鶴 Sembazuru, 1949-52)
- Danh thủ cờ vây (名人 Meijin, 1951-54)
- Tiếng rền của núi (山の音 Yama no Oto, 1949-54)
- Hồ (Mizuumi, 1955)
- Người đẹp say ngủ (Nemueru bijo, 1961)
- Cố đô (古都 Koto, 1962)
- Cái đẹp và nỗi buồn (美しさと哀しみと Utsukushisa to Kanashimi to, 1964)
- Cánh tay, truyện ngắn (1965)
- Đất Phù Tang, cái đẹp và tôi, diễn từ nhận giải Nobel (Utsukushii Nihon no watakushi, 1968)
- Tóc dài (Kani wa Nagaku, 1970)
[sửa] Các tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt
- Vũ nữ Izu, Thái Hà dịch, Nxb Đà Nẵng, 1986
- Xứ tuyết, Chu Việt dịch, Trình Bầy xuất bản, Sài Gòn, 1969
- Vùng băng tuyết, Giang Hà Vỵ dịch, Nxb Mũi Cà Mau, 1988
- Xứ tuyết, Ngô Văn Phú và Vũ Đình Bình dịch, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995
- Ngàn cánh hạc, Trùng Dương dịch, Trình Bầy xuất bản, Sài Gòn, 1969
- Rập rờn cánh hạc, Nguyễn Tường Minh dịch, Sông Thao, Sài Gòn, 1974
- Tiếng rền của núi, Ngô Quý Giang dịch, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1989
- Người đẹp say ngủ, Vũ Đình Phòng dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999
- Cố đô, Thái Văn Hiếu dịch, Nxb Hải Phòng, 1988
- Đẹp và buồn, Mai Kim Ngọc dịch, đăng ở talawas [1]
- Đất Phù Tang, cái đẹp và tôi, Cao Ngọc Phượng dịch, Lá Bối xuất bản, Sài Gòn, 1969
- Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản, Đoàn Tử Huyến dịch, đăng ở talawas [2]
- Truyện ngắn trong lòng bàn tay, Hoàng Long dịch
[sửa] Đọc thêm
- Tạp chí Văn số đặc biệt về Kawabata, Sài Gòn, 1969
- N.T.Fedorenko, "Kawabata - Con mắt nhìn thấu cái đẹp" (1974), Thái Hà dịch, tạp chí Văn học nước ngoài, số 4/1999
- Lưu Đức Trung, Yasunari Kawabata cuộc đời và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997
- Nhật Chiêu, "Thế giới Kawabata Yasunari (hay là cái đẹp: hình và bóng)", tạp chí Nghiên cứu Văn học, Viện Văn học, số 3/2000.
- Tuyển tập Văn chương 6 - Đọc Kawabata, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2000
- Khương Việt Hà, "Mỹ học Kawabata Yasunari", tạp chí Nghiên cứu Văn học, Viện Văn học, số 6/2006.
- Hoàng Long, "Những đặc điểm thi pháp của truyện ngắn trong lòng bàn tay", Yasunari Kawabata, Tuyển tập tác phẩm, Nxb Lao Động và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2006.
[sửa] Liên kết ngoài
Tiếng Việt:
- Kỷ niệm 105 năm ngày sinh Kawabata
- Diễn văn của tiến sĩ Anders Usterling trong lễ trao giải Nobel
- Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản: Diễn từ Nobel văn chương 1968 (có thể không truy cập được từ Việt Nam)
- Tiểu sử Kawabata
Tiếng Anh:
- Trang web giải Nobel năm 1968
- Yasunari Kawabata, trang web của người hâm mộ
1951: Lagerkvist | 1952: Mauriac | 1953: Churchill | 1954: Hemingway | 1955: Laxness | 1956: Jiménez | 1957: Camus | 1958: Pasternak | 1959: Quasimodo | 1960: Perse | 1961: Andrić | 1962: Steinbeck | 1963: Seferis | 1964: Sartre | 1965: Sholokhov | 1966: Agnon, Sachs | 1967: Asturias | 1968: Kawabata | 1969: Beckett | 1970: Solzhenitsyn | 1971: Neruda | 1972: Böll | 1973: White | 1974: Johnson, Martinson | 1975: Montale |
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
Tên | Kawabata Yasunari |
Tên khác | 川端 康成 (tiếng Nhật) |
Tóm tắt | Tiểu thuyết gia và người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel văn chương |
Lúc sinh | 14 tháng 6, 1899 |
Nơi sinh | Osaka, Nhật Bản |
Lúc mất | 16 tháng 4, 1972 |
Nơi mất | Zushi, Kanagawa, Nhật Bản |