Quỳnh Côi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Huyện Quỳnh Côi là một trong 8 huyện, thành phố của tỉnh Thái Bình. Nó nằm ở phía Tây Bắc tỉnh,giáp với Hải Phòng (huyện Vĩnh Bảo, Tiên Lãng), tỉnh Hải Dương (huyện Ninh Giang, Thanh Miện), tỉnh Hưng Yên (huyện Phù Cừ) bởi con sông Luộc,sông Hóa và giáp với huyện Đông Hưng, Hưng Hà, Thái Thụy của tỉnh Thái Bình. Theo một số tài liệu, huyện Quỳnh Côi trước đây còn gọi là A Côi. Tên Quỳnh Côi hiện nay chỉ gọi thị trấn huyện lỵ huyện Quỳnh Phụ, bởi hai huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực được sát nhập vào thập niên 1960. Trước đây, Quỳnh Côi là địa danh một xã (xã Quỳnh Côi, nay là xã Quỳnh Hải), một tổng (tổng Quỳnh Côi gồm các xã Quỳnh Hải, Quỳnh Hội, Quỳnh Xá, và một phần Quỳnh Trang hiện nay). Quỳnh Côi cách trung tâm Hà Nội chừng 80 km (theo đường 5 tới Quán Gỏi, rẽ phải về Thanh Miện, Ninh Giang qua phà Hiệp vượt sông Luộc là tới), cách thành phố Hải Dương 50 kms, cách trung tâm thành phố Hải Phòng chừng 60 kms, cách thành Nam chừng 50 kms. Hiện nay, huyện Quỳnh Phụ và khu vực Quỳnh Côi vẫn là vùng nghèo nhất Thái Bình, vì không có ngành nghề truyền thống, không có công nghiệp, du dịch dịch vụ là con số O. Hơn nữa, đường giao thông lại khó khăn. Quỳnh Côi là huyện ngõ cụt, vì cầu bến Hiệp bắc qua sông Luộc nối liền Quỳnh Côi - Hải Dương vẫn là mơ ước. Nếu cây cầu này hiện diện sẽ góp phần thông thương,rút ngắn khoảng cách Quỳnh Côi - Hà Nội xuống còn 80 kms và việc đi lại giữa Quỳnh Côi và thành phố Hải Dương thuận tiện. Đến với Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, quý khách sẽ được tham quan đền La Vân - một kiến trúc khá đồ sộ thờ đức thánh Nguyễn Minh Không, đền Đồng Bằng - thờ đức Vua cha Bát Hải động đình, một trong những trung tâm thờ phụng của đạo Tam tòa, tứ phủ, đình đá An Hiệp, làng múa giáo cờ giáo quạt Lộng Khê (An Khê), làng kéo chữ Phụng Cộng (Quỳnh Hội, đắm mình trong hương hoa dâu da ngan ngát trong màu trắng tinh khiết như mây trời xuống phố của thị trấn Quỳnh Côi mỗi dịp tháng Ba và thưởng thức đặc sản: canh cá Quỳnh Côi. 1 – Danh hiệu Huyện Quỳnh Côi từ cổ đến nay vẫn gọi là huyện Quỳnh Côi, khi trước huyện lỵ đóng ở xã Quỳnh Côi (nay thuộc thôn An Phú, xã Quỳnh Hải) thuộc phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam (Nam Định). Năm 1890, đặt ra tỉnh Thái Bình, thì huyện lỵ này thuộc về tỉnh Thái Bình; đến năm 1894, huyện lỵ đóng tại xã Lương Cụ. 2 – Hình thể 2.1. Vị trí: Huyện Quỳnh Côi ở về phía Bắc tỉnh Thái Bình, bắc giáp sông Luộc đối ngạn với phủ Ninh Giang, huyện Thanh Miện (Hải Dương), nam giáp phủ Tiên Hưng và huyện Đông Quan, đông giáp huyện Phụ Dực và Đông Quan, tây giáp huyện Duyên Hà và huyện Phù Cừ (Hưng Yên). 2.2. Diện tích 25.991 mẫu ta 2.3. Sông ngòi Về phía bắc có sông Luộc chảy qua xã Tân Mỹ, Đông Quynh, Nghi Phú, Đễ Đỗ, Nguyên Xá, Đồng Trực, An Trực, Cần Phán, Chung Linh, Sơn Đồng, Ngọc Quế, Bồ Trang và Đại Nẫm dài18.800 m. Lại có mấy con sông đào: a) Sông Nam Hà hay là sông Đan Hội, phát nguyên từ cửa Trại Ổi (nay lấp) chảy qua xã Tân Mĩ, Quyành Lang, Đông Châu, Hy Hà, Tương Nhượng, Kỹ Trang, Nghễ Khê, Lượng Cụ, Mỹ Ngọc, Tang Giá, Phấn Tảo, Tài Giá, Tế Mỹ, Phúc Bồi, Ngọc Chi, Xuân La, đến ngã ba Vông (địa phận xã Lượng Mỹ và Cổ Tiết hạt Đông Quan giáp nhau) chảy qua đò Vật (Đào Động, hạt Động Quan), dài 15.571m. b) Sông Bắc Hà hay là Bạc Hà, phát nguyên từ cửa Bạc Hà xã Đại Nẫm (nay lấp), chảy qua xã Đại Nẫm, An Ký đến xã Cam Mỹ chi làm hai chi: một chi chảy qua Lai Ổn, Mai Trang, Phúc Thượng xuống đò Vũ Hạ hạt Phụ Dực; một chi chảy qua Lai Ổn, ra ngã ba Mỹ (thôn Mỹ Xã Lai Ổn) xuống đò Vật Hạt, Đông Quan, sông này dài 11.950m c) Sông Hoá Khê phát nguyên từ cống Ngọc Quế, chảy qua Ngọc Quế, Bồ Trang, La Vân, Tiên Bá, Gioá Thiện, An Ký, Quỳnh Côi, An Vệ, qua thôn Hoá Khê, Đông Xá rồi chảy qua ngã ba Vông, nối với sông Nam Hà chảy qua đò Vật hạt Đông Quan, dài 23.352m. d) Sông Vực Dầu (nay lấp) phát nguyên từ Bến Hiệp, chảy qua Chu Linh, Ngẫu Khê rồi chảy qua cống Vực Dầu vào sông Nam Hà, dài 2.300m. 2.4 Khí hậu. Khí hậu hạt Quỳnh Côi cũng bình thường, mùa hè có gió bể thổi vào nên cũng được mát mẻ 3- Chính trị 3.1- Dân số. Trừ ở phố Bến Hiệp có 30 người Hoa Kiều buôn bán, còn toàn người Việt Nam cả, tổng cộng 57.200 người. Tỏng số ấy có 14.750 suất đinh. 3.2- Tổng, xã. Huyện Quỳnh Côi có 6 tổng, và 52 xã: 3.2.1 - Tổng Đồng Trực có 14 xã: An Trực, Cần Phán, Đễ Đỗ, Đông Châu, Đông Quynh, Đồng Trực, Hạ Phán, Hy Hà, Nghi Phú, Nguyên Xá, Quỳnh Lang, Tân Mỹ, Thượng Phán và Văn Quán; 3.2.2- Tổng Quỳnh Côi có 6 xã: A Mễ, An Vệ, Đông Xá, Lương Mĩ, Qùynh Côi và Xuân La. 3.2.3- Tổng Quỳnh Ngọc có 6 xã: Bồ Trang, La Vân, Lượng Cụ, Mỹ Ngọc, Ngọc Quế và Quỳnh Ngọc; 3.2.4 - Tổng Sơn Đồng có 6 xã: Chung Linh, Kỹ Trang, Ngẫu Khê, Sơn Đồng, Tương Nhượng và Vĩnh Niên; 3.2.5 - Tổng Tang Giá có 12 xã: Hài An, Khang Ninh, Mỹ Giá, Nam Đài, Ngọc Chi, Phấn Tảo, Phúc Bồi, Phương Quả, Tài Giá, Tang Giá, Tế Mỹ và Tiên Cầu; 3.2.6 - Tổng Tiên Bá có 8 xã: An Kỳ, Cam Mỹ, Đại Nẫm, Giáo Thiện, Lai Ổn, Mai Trang, Thượng Phúc và Tiên Bá; 3.3 - Thuế Đinh: 42.432$11 Điền: 46.556$71. 3.4 – Canh phòng. Toàn hạt các xã đều thiết điếm canh phòng, có Phó Lý, Quản Xã, Xã Đoàn đốc xuất tuần tráng canh phòng, tất cả cộng có 97 sở điếm canh và ở Bến Hiệp có một đồn khố xanh, có một quan Đồn và 20 người lính đóng ở đấy. 3.5 - Việc hoc. Có một trường Kiêm Bị ở huyện lỵ, và có 6 trường tổng, số học sinh tổng cộng có 240 người. Trường Các lớp và các trường tổng Số học trò Lớp nhất 6 A. Trương Kiêm Bị ở huyện lị. Lớp nhì (2e année) (1) 6 Lớp nhì (1re année) (2) 10 Lớp ba (sơ đẳng) 13 Lớp tư (dựbị) 7 Lớp năm (đồng ấu) 18 B. Trường Tổng An Vệ (tổng Quỳnh Côi) 40 Bồ Trang (tổng Quỳnh Ngọc) 20 Hy Hà(tổng đồng trực) 20 Lâi Ổn (tổng Tiên Hà) 30 Sơn Đồng (tổng Sơn Đồng) 40 Tang Giá (tổng Tang Giá) 30 3.6 - Việc Y tế. Ở Bến Hiệp có một nhà phát thuốc (infirmerie) từ tháng 8 năm 1931, có một người khám trông nom. 3.7 – Việc hộ sinh. Hiện có 5 khu mụ đỡ có giấy chứng chỉ đã học việc hộ sinh ở nhà thương tỉnh là: Khang Ninh, An Vệ, Lai Ổn, Lương Cụ và Vĩnh Niên. 3.8 – Bưu chính. Ở Bến Hiệp có một sở bưu chính có một người chủ sự trông nom; ở huyện có một nhà trạm có cai trạm trông nom và 6 tổng 6 phu trạm chạy công văn và thư tín. 4 - Kinh tế 4.1 – Canh nông. Việ làm ruộng hạt Quỳnh Côi rất là phát đạt, vì trong có nhiều sông ngòi, và nay lấp hai cửa sông Đan Hội và Bắc Hà thì về vụ đông việc nông có phần lai thịnh lợi hơn, nhưng về vụ chiêm thời không đủ nước và nước mặn lại tràn lên; nếu hai cửa sông ấy mà không xây cống thời phải làm cống ở Nghi Phú, Bến Hiệp và khơi một ngòi (nay đã lấp) từ Nghi Phú đến Tương Nhượng thời mới đủ được nước cấy chiêm. Tổng cộng số ruộng cấy hai mùa đựoc 21,742 mẫu ta, ruộng cấy một mùa 16.800 mẫu ta, ruộng giồng màu 300 mẫu ta. 4.2 - Thổ sản. Chỉ có thổ sản về canh nông như thóc lúa, ngô, khoai, bông, thuốc lào, vân vân… đều là sản vật thường. Duy ở xã La Vân có thứ bèo hoa dâu sản xuất dùng để bón ruộng tốt lắm (1) và ở xã Tài Giá có một khoảnh ruộng có thứ cá rô dung đẻ làm mắm, ngươi ta vần gọi là “mắn cá rô Đông Giá”. 4.3 - Kỹ nghệ. Trong hạt không có nghề gì thành đạt, duy ở xã An Vệ có nghề ấp trứng vịt, một năm hai mùa trước khi gặt, xem ra nghề này cũng được phát đạt (cách ấp vịt đã nêu rõ ở mục Kỹ nghệ thuộc xã An Vệ). 4.4 – Thương mại. Ở phố Huyện, phố Bến Hiệp và phố Quỳnh Lang có các hiệu nam – thương buôn bán, và ở Bến Hiệp lại có các hiệu hoa – thương buôn thóc, gạo và tạp hoá, còn các chợ vùng nhà quê buôn bán cũng tầm thường. Trong hạt có tất cả 14 chợ ở các xã kê ra sau đây. Tên chợ Tên xã Ngày phiên chợ Huyện Lượng Cụ 2, 6, 12, 16, 22, 26 Gũ Nt Ngày nào cũng họp (trừ ngày 2,6). Đó Quỳnh Côi 5, 10, 15, 20, 25, 30. Và An Vệ 3, 8, 13, 18, 23, 28. Gạo Phương Quả 5, 7, 10, 15, 17, 20, 25, 27, 30. Vĩnh Khang Ninh 4, 9, 14, 19, 24, 29. Mễ A Mễ 5, 10,15, 20, 25, 30. Nan Vĩnh Niên 4, 5, 14, 15, 24, 25. Cầu Quỳnh Lang 3, 8, 13, 18, 23, 28. Nấm Đại Nẫm 7, 10, 17, 20, 27, 30. Náp (Láp) Lai Ổn 1, 7, 11, 17, 12, 27. Hiệp Sơn Đồng Ngày nào cũng họp (trừ ngày 2, 6) Bái Bồ Trang 1, 3, 8, 11, 13, 18, 21, 23, 28. Hới Hải An 3, 8, 13, 18, 23, 28. 4.5 – Đê. Có một đoạn đê sông Luộc, bắt đầu từ xã Quỳnh Lang, qua Đông Quynh, Hy Hà, Nghi Phú, Thượng Phán, Nguyên Xá, Đông Trực, An Trực, Cần Phán, Chung Linh, Sơn Đồng, Ngọc Quế, Bồ Trang, đến xã Đại Nẫm (cửa sông Bắc Hà), cộng dài 14 km. 4.6 - Đường giao thông. Có hai con đường công lộ làm từ năm 1903: 4.6.1 - Đường số 216, từ xã Phương Quả (ở Tiên Hưng sang), qua xã Hải An, Nam Đài, Mỹ Ngọc, Tang Giá, Lương Cụ, Quỳnh Ngọc, huyện lị Quỳnh Côi, An Vệ, Cam Mỹ, Lai Ổn đến bến đò Lai Ổn (Kiến Quan) rồi sang hạt Phù Dực, dài 11 km. 4.6.2 - Đường số 217, từ Bến Hiệp (xã Sơn Đồng) qua thôn Hào Long (Vĩnh Niên), Lương Cụ. Quỳnh Ngọc, huyện lỵ, xã Tang Giá, Tài Giá, Mỹ Giã, Phúc Bồi, Tiên Cầu, Xuân La, A Mễ đến cầu xã A Mễ sang hật Đông Quan, dài 11 kim. Còn các làng đều có đường thông cù mới sửa chữa lại từ năm 930 và 1931, đều được rộng tãi dễ đi. 4.7. Cầu. Có 6 cây cầu gỗ, đều làm từ năm 1930. 1. Cầu Đợi, ở xã Xuân La (đường số 217). 2. Cầu Sa, ở xã A mễ (đường số 217). 3. Cầu Tây, ở xã Lương Cụ, nay là đường chữa lại làm cầu xi măng cổt sắt (đường 216). 4. Cầu Đoàng, ở thôn Đoàn Xá, xã Quỳnh Côi (đường 216). 5. Cầu Đó, ở thôn An Phú, xã Quỳnh Côi (đường 216). 6. Cầu Lại, ở xã Cam Mỹ (đường 216). 4.8. Cống Có 6 cái cống thuộc đê Sông Luộc và đê Nam Hà, rất tiện lợi cho việc nông. 1. Cống Ngọc Quế ở địa phận xã Ngọc Quế, là nguyên đầu sông Hoá Khê. 2. Cống Sơn Đồng, ở địa phận xã Sơn Đồng. 3. Cống Cần Phán, ở địa phận xã Cần Phán. 4. Cống Tứ Xã, thuộc 4 xã Đông Châu, Đông Quynh, Quỳnh Lang, Tân Mỹ. 5. Cống Bồ Trang, ở địa phận xã Bồ Trang. 6. Cống Vực Dầu, ở địa phận xã Ngẫu Khê, chảy ra sông Hà Nam.


[sửa] Tham khảo

Địa dư huyện Quỳnh Côi của nhà nghiên cứu Ngô Vi Liễn (In tại nhà in Lê Văn Tân Hà Nội – 1933 - lần in thứ nhất)