Phan Trọng Tuệ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chân dung Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ (1917–1991)
Chân dung Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ (1917–1991)

Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ (1917–1991) là một tướng lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam và là Tư lệnh đầu tiên của lực lượng Biên phòng. Ông nguyên là Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1974–1975).

[sửa] Tóm tắt quá trình hoạt động

Ông sinh năm 1917, quê ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây; tham gia cách mạng từ những năm ba mươi. Năm 1934, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ năm 1939 đến năm 1940, ông làm Bí thư tỉnh ủy Sơn Tây và Hà Đông; phụ trách Liên tỉnh Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây.

Năm 1943, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 27 năm tù và đày đi Côn Đảo. Mãi đến Cách mạng tháng 8 năm 1945, ông được giải thoát và công tác trong Ban trật tự Côn Đảo rồi trở về đất liền, làm Thanh tra kháng chiến Hậu Giang, Ủy viên liên tỉnh ủy (gồm 10 tỉnh miền Tây Nam Bộ); Chính ủy Khu 9.

Từ tháng 12 năm 1948 đến năm 1950, ông làm Chính ủy Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn; Chính ủy Khu 7; Thanh tra Bộ Tư lệnh Nam Bộ. Từ năm 1952 đến năm 1954, ông làm Tư lệnh, sau đó Phó Tư lệnh kiêm Chính ủy Phân liên khu miền Tây Nam Bộ.

Từ tháng 8 năm 1954, ông làm Phó Trưởng đoàn Liên hiệp đình chiến Nam Bộ rồi Phó Trưởng đoàn Liên hiệp đình chiến Trung ương, hàm Đại tá. Năm 1955, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng theo Sắc lệnh 243-SL ngày 3 tháng 11 năm 1955.

Tháng 3 năm 1957, ông làm Phó Tổng thanh tra Quân đội.

Năm 1958, ông làm Thứ trưởng Bộ Công an,phụ trách lực lượng Cảnh vệ. Khi lực lượng Công an vũ trang (tiền thân của lực lượng Biên phòng) được thành lập, ông được cử làm Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Lực lượng Công an nhân dân vũ trang.

Năm 1961, ông làm Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải.

Năm 1965, ông được cử vào tuyến chiến lược Trường Sơn, làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Đoàn 559.

Năm 1968, ông làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh đảm bảo giao thông vận tải Quân khu 4.

Từ cuối năm 1974 đến 1975, ông làm Phó Thủ tướng, kiêm Thường trực Hội đồng Chi viện giải phóng miền Nam.

Năm 1976, ông làm Bộ trưởng kiêm Bí thư đảng ủy Bộ Giao thông - Vận tải.

Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa III và VI; đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VI.

Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác.