Làn sóng dân chủ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Làn sóng dân chủ là một khái niệm về sự ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào dân chủ hoá được lan truyền từ một vùng này đến những vùng khác giống như một làn sóng dâng cao thành một cao trào phổ biến. Làn sóng dân chủ đầu tiên nổi lên ở phía Nam của Châu Âu và sau đó lan nhanh đến những quốc gia lân cận. Hiện nay thì nó đã và đang được lan truyền nhanh chóng và mạnh mẻ đến khắp các vùng khác trên khắp thế giới và trở thành một hiện tượng "làn sóng dân chủ hoá" toàn cầu.

Mục lục

[sửa] Làn sóng dân chủ hoá

Có thể coi như phong trào này bắt đầu từ bán đảo Iberia, Âu châu, từ 30 năm trước đây. Nước Bồ Ðào Nha, sau nhiều năm sống dưới chế độ độc tài của António de Oliveira Salazar (1932-1968) và các tướng lãnh, đã thiết lập một bản hiến pháp mới theo chế độ dân chủ đại nghị vào năm 1976, và hai năm sau Tây Ban Nha cũng theo gót, nhờ nhà độc tài Francisco Franco đã chết từ năm 1975. Từ khi dân chủ hóa, đời sống kinh tế của hai quốc gia này đã tiến triển để theo kịp các nước khác ở Tây Âu.

Chế độ dân chủ ra đời đã từ lâu ở Hy Lạp cổ đại và đang lần đầu tiên lan truyền ra khắp thế giới trong suốt ba thập kỉ qua. Ở mọi vùng trên thế giới, chế độ dân chủ nổi lên như là một hệ thống chính trị được quần chúng nhân dân lao động hằng ưa chuộng.

Tổ chức Freedom House (Nhà Tự Do) công bố bản tường trình về tình trạng dân chủ tự do trên thế giới hàng năm, và công bố bảng danh sách phân biệt ba loại chế độ: Tự do, Hơi Tự do và Không Tự do.

Theo Tổ chức Freedom House, năm 2005, số quốc gia có bầu cử tự do đã tăng lên thành 122 nước, so với năm 2004 chỉ có 119 nước. Ba nước mới được lên bảng đều ở Phi châu, là Burundi, LiberiaCộng hoà Trung Phi. Tuy Cộng hòa Trung Phi đã trở lại với một hiến pháp dân chủ từ năm 1979 nhưng đến năm 2005 mới được vô bảng vì họ chứng tỏ có bầu cử tự do thật và chấp nhận các hoạt động chính trị đối lập.

[sửa] Danh sách của Freedom House

Có 89 quốc gia được coi là tự do thật, người dân trong các nước đó có đủ các quyền tự do dân sự, tự do chính trị.

Có 58 nước được xếp hạng "hơi tự do", trong đó điển hình như Trung Quốc đều thuộc loại thứ ba, thiếu tự do. Đứng cuối sổ là Cuba, Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên (hay Bắc Hàn) và Mayanma.

Freedom House nâng điểm hai nước, IndonesiaUkraina, từ "hơi tự do" lên "tự do" nhờ các cuộc bầu cử tự do và hoạt động của báo chí, đảng đối lập mạnh hơn trước. Một nước ở Á châu đã bị xuống điểm là Philippines, từ "tự do" xuống "hơi tự do".

[sửa] Cơn sóng tự do trên mặt Trái Đất

Nói chung, thế giới vẫn tiến bước trên con đường dân chủ hóa. Từ những năm cuối thế kỷ 20 đến nay, có rất nhiều quốc gia đã chuyển từ chế độ độc tài sang lối sống dân chủ, giống như một cơn sóng tự do lan tràn trên mặt Trái Đất.

Có thể coi như phong trào này bắt đầu từ bán đảo Iberia, Âu châu, từ 30 năm trước đây. Nước Bồ Ðào Nha, sau nhiều năm sống dưới chế độ độc tài của Antonio Salazar (1932-1968) và các tướng lãnh, đã thiết lập một bản hiến pháp mới theo chế độ dân chủ đại nghị vào năm 1976, và hai năm sau Tây Ban Nha cũng theo gót. Từ khi dân chủ hóa, đời sống kinh tế hai quốc gia này đã tiến triển để theo kịp các nước khác ở Tây Âu.

Những năm sau đó, loài người đã chứng kiến luồng sóng dân chủ tự do tràn qua các nước cộng sản Ðông Âu, Châu mỹ La tinh, và cơn sóng càng lên mạnh hơn trong số các nước phía Ðông châu Á, nơi người dân đấu tranh cho dân chủ liên tục từ thập niên 1960. Trong ba chục năm qua, làn sóng dân chủ tự do đã lên, hiện nay 43 phần trăm nhân loại đang được sống trong tự do dân chủ đầy đủ, và 30 phần trăm hơi tự do dân chủ.[cần chú thích]

Theo nhiều nhà nghiên cứu, trong lịch sử thế giới có nhiều cơn sóng dân chủ tự do nổi lên rồi bị đẩy lùi, lần này là lần thứ ba đang lên và hy vọng sẽ không lùi lại nữa.[cần chú thích]

[sửa] Làn sóng dân chủ đầu tiên

Cơn sóng dân chủ đầu tiên diễn ra vào cuối thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 ở Âu châu và Mỹ châu. Ðợt sóng này lan ra rất chậm, bắt đầu từ những cuộc cách mạng ở Hoa Kỳ, ở Pháp, dần dần tới những nước Âu châu khác. Cơn sóng dân chủ đó đã gặp phải nhiều tảng đá ngầm cản trở, đôi lúc phải dội lại và thoái trào. Có những quốc gia đã trở thành dân chủ nhưng rồi lại bị thụt lùi trở lại chế độ quân chủ hoặc đế quốc, như ở Pháp, Ý, Ðức, v.v. Ðiều này chứng tỏ việc thiết lập thể chế dân chủ hình thức, bằng cách thông qua một bản hiến pháp dân chủ, không đủ bảo đảm cho người dân được sống tự do thật sự và lâu bền.

[sửa] Làn sóng dân chủ thứ nhì

Ðợt sóng dân chủ tự do thứ nhì lan ra trên thế giới sau cuộc Thế chiến thứ nhất(hay Đệ nhất thế chiến) vào đầu thế kỷ 20, kéo dài cho tới một phần ba thế kỷ. Một khẩu hiệu đầu tiên được nêu lên là đòi hỏi quyền tự quyết dân tộc. Những nước mới giành được độc lập sau các cuộc thế chiến đã quyết định thiết lập thể chế dân chủ, tự do. Ðợt sóng dân chủ tự do thứ nhì cũng gặp những chướng ngại và thoái trào. Những quốc gia như Ðức, Ý, có lúc đã quay trở lại chế độ độc tài đảng trị, và ở Nga thì cuộc cách mạng dân chủ chưa được một năm đã rơi vào nội chiến để tiến tới một thể chế độc tài kéo dài hơn 70 năm, với một đảng duy nhất cai trị, trong thực tế là chỉ có một nhóm hay một người thao túng.

Sau Thế chiến thứ hai(hay Đệ nhị thế chiến), nhiều nước cựu thuộc địa đã giành được cũng thiết lập các chế độ dân chủ. Tuy nhiên, sau đó thế giới bước ngay vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh khiến cho trong cả hai khối tư bản và cộng sản người ta có khuynh hướng duy trì các chế độ độc tài để dễ đối phó với khối bên kia. Những nước đứng giáp đường giới tuyến của hai khối càng khó thay đổi vì bị gây nội chiến hoặc chia rẽ. Bên khối tư bản, các nước như Hàn Quốc, Ðài Loan, Singapore, Thái Lan, Philippines, Indonesia, v.v., khó tiến nhanh trên đường dân chủ hóa vì họ bị họa đe dọa trực tiếp với những phong trào nổi dậy ngay ở trong nước họ. Các chính quyền độc đoán viện lý cơn sóng dân chủ đầu tiên do an ninh mà họ làm kìm hãm sự phát triển của các quyền tự do chính trị và tự do dân sự.

[sửa] Làn sóng dân chủ thứ ba

Giữa thập niên 1970, làn sóng thứ ba của quá trình dân chủ hoá lần đầu tiên diễn ra ở Thổ Nhĩ Kì và Tây Ban Nha, nơi chế độ độc tài cánh phải nắm giữ chính quyền trong vài thập kỉ; năm 1974 biến đổi dân chủ lại diễn ra ở Hy Lạp. Từ năm 1979 đến năm 1985, Argentina, Bolivia, Brasil, Ecuador, PeruUruguay đã trải qua sự thành công trong quá trình biến đổi sang chế độ dân chủ từ quyền lực quân đội. ở Chile, sự biến đổi dân chủ đã tiến hành chậm hơn và nổi lên vào năm 1989 sau nhiều năm đấu tranh của chế độ hoà bình chống lại quyền lực độc đoán. Vào tháng 6 năm 2000, thắng lợi của tổng thống Vincente Fox ở Mexico, đất nước nói tiếng Tây Ban Nha đông dân nhất thế giới, đã đánh dấu sự kết thúc bảy thập kỉ của quyền lực một đảng và đánh dấu một kỉ nguyên mới của chế độ dân chủ trong vùng.

Cơn sóng dân chủ tự do thứ ba trong lịch sử chỉ khởi sự trào lên khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu bớt căng thẳng. Lúc đầu là Liên XôMỹ thương thuyết chính sách hòa dịu, giảm bớt vũ khí hạt nhân. Thế giới chung quanh dần dần cảm thấy bớt bị đe dọa nên nhu cầu thay đổi chính trị dâng lên trong hàng chục năm.

Ở Ðài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, dân chúng, nhất là giới sinh viên, thanh niên đã từng đấu tranh quyết liệt đòi dân chủ từ thập niên 1970, nhưng họ cũng chỉ bắt đầu được hưởng tự do từ giữa thập niên 1970. Nhiều quốc gia khác phải đợi cho tới khi gặp khủng hoảng kinh tế mới thật sự bước vào quá trình dân chủ hóa.

Trung Âu và Ðông Âu trong thập niên 1980, đó là tình hình kinh tế trì trệ trong khối Xô Viết vì quản lý không hiệu quả. Phong trào Công đoàn Ðoàn kết ở Ba Lan, các nhà trí thức đòi phát triển xã hội công dân ở Tiệp Khắc, người dân Ðông Ðức và Hungary cũng đứng dậy, đưa tới sự sụp đổ của bức tường Berlin.

Á Ðông, những cải thiện chính trị đã bắt đầu và cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 thúc đẩy thêm cho tiến trình dân chủ hóa những bước phát triển nhanh chóng và vững vàng.

[sửa] Làn sóng dân chủ thứ ba và hiện tượng kinh tế toàn cầu

Làn sóng dân chủ hóa thứ ba này đi đôi với hiện tượng kinh tế toàn cầu hội nhập với nhau chặt chẽ hơn, đưa tới việc cải thiện mức sống và giảm bớt nạn nghèo đói trên thế giới. Một thước đo của sự cải thiện này là tỷ lệ những người còn sống với lợi tức dưới 2 đô la Mỹ một ngày.

Vào năm 1980 trên thế giới có 56 phần trăm nhân loại còn sống trong cảnh nghèo như vậy, đến năm 2000 tỷ số đó chỉ còn 23 phần trăm[cần chú thích]. Vì dân số trên Trái Đất luôn luôn gia tăng nên sự cải thiện trên là rất đáng kể. Vào năm 1980 thế giới có 1.9 tỷ người sống trong cảnh nghèo.

Vào năm 1990 chỉ còn 1 tỷ 7, đến năm 2000 chỉ còn một tỷ mốt. Một điều đáng chú ý nữa là trước năm 1980, trước khi làn sóng dân chủ lan tràn, số người sống trong cảnh nghèo theo định nghĩa trên chỉ tăng thêm chứ không giảm. Sự cải thiện trong đời sống kinh tế đi đôi với phong trào dân chủ hóa cho thấy khi người dân được tự do hơn, trong đó được hưởng những quyền tự do kinh tế, thì loài người cũng được no ấm và hạnh phúc nhiều hơn.

Từ năm 1980, theo báo cáo của Ủy hội Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, có 81 quốc gia đã tiến bước trên đường dân chủ hóa đáng kể, trong đó có 33 nước đổi từ chế độ quân phiệt sang chế độ dân chủ.[cần chú thích]

[sửa] Trở ngại của làn sóng dân chủ thứ ba

Cơn sóng dân chủ hóa thứ ba cũng gặp những trở ngại, có lúc quay ngược chiều và không lan rộng đồng đều. Có những quốc gia đã thiết lập thể chế dân chủ sau đó lại rơi xuống, trở về sống dưới một chính quyền độc tài, như ở Peru, Pakistan. Ðiều này cho thấy những điều kiện thúc đẩy một quốc gia tiến tới chế độ dân chủ khác với những điều kiện để nuôi dưỡng cho chế độ dân chủ được vững bền. Làn sóng dân chủ cũng bị ngăn lại ở nhiều nơi không vào được.

Ở Á Ðông thì còn bốn nước vẫn chưa có tự do tuyển cử. Lại có những quốc gia thiết lập một chế độ dân chủ hình thức nhưng người dân vẫn chưa được tự do, như ở nhiều nước Trung Á khác. Tuy cơn sóng dân chủ hóa thứ ba cũng gặp một số trở ngại, nhưng đây cũng không phải là một trở ngại lớn vì những trở ngại này cũng chỉ nhất thời trước một thời kỳ quá độ mà thôi.

[sửa] Thuận lợi của làn sóng dân chủ thứ ba

Tuy nhiên bên cạnh những trở ngại nhỏ này, vẫn có nhiều điều kiện thuận lợi khách quan khác từ sự hội nhập kinh tế toàn cầu, nên cơn sóng dân chủ hóa thứ ba sẽ sớm đạt được nhiều thành công tốt đẹp, đây cũng là một xu hướng phát triển tất yếu trong lịch sử phát triển cao độ của nhân loại vốn yêu sự tự do giàu tính nhân bản.

[sửa] Tự do - dân chủ và nền Kinh tế - Chính trị - Văn hóa Phát triển bền vững

Khi một quốc gia nào được chuyển sang từ hơi Tự do thành một nền tự do hoá và dân chủ thực sự thì nơi ấy quyền tự do của con người đã được mọi người tôn trọng lẫn nhau thực sự theo Hiến chương của Liên Hiệp Quốc đã được tuyên bố, và nơi ấy sẽ có cơ hội phát triển bền vững. Một quốc gia được định hướng phát triển bền vững thì nhân dân của quốc gia đó sẽ hưởng được một đời sống kinh tế ấm no, đời sống tinh thần - văn hóa phong phú hơn, nhân dân sẽ hạnh phúc thực sự bền vững hơn. Một quốc gia đã được đạt được một nền dân chủ cũng có ý nghĩa là sẽ giúp họ dễ hoà nhập tốt và hài hoà với một cộng đồng thế giới đương đại vậy.

[sửa] Chú thích

Nguồn gốc số liệu năm 2005. Từ nguồn : Freedom in the World 2005 Edition

Và số liệu chỉ số phần trăm được minh họa lại trên bản đồ Freedom in the World - 2005 Edition tại: http://www.freedomhouse.org/template.cfm?page=15&year=2005

Ngoài ra các bạn có thể tham khảo tiếp năm 2006 trên bản đồ Freedom in the World - 2006 Edition tại: http://www.freedomhouse.org/template.cfm?page=15&year=2006

Chú thích các từ trong bản đồ :

Free : Tự do

Partly Free : Hơi tự do (hay một phần tự do)

No Free : Không tự do

Khi xem bản đồ, đề xem được chi tiết và tên của các nước, xin các bạn click chuột vào những khu vực bản đồ để ảnh của bản đồ được phóng to hơn.

[sửa] Liên kết ngoài