Hải mã

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

?
Cá ngựa
Cá ngựa (Hippocampus sp.)

Cá ngựa (Hippocampus sp.)
Phân loại khoa học
Giới (regnum): Animalia
Ngành (phylum): Chordata
Lớp (class): Actinopterygii
Bộ (ordo): Syngnathiformes
Họ (familia): Syngnathidae
Chi (genus): Hippocampus
Cuvier (1816)[1]
Các loài
Xem văn bản.

Hải mã hay cá ngựa là tên một loài động vật sống ở đại dương ở các vùng biển nhiệt đới. Cá ngựa có chiều dài 1,6 cm, có loài dài đến 3,5 cm. Cá ngựa được xem là một loài thuốc quý ở khu vực Đông Á, đặc biệt là ở Trung QuốcViệt Nam.

Cá ngựa là cá biển thuộc chi Hippocampus và họ Syngnathidae, bao gồm cả cá chìa vôi. Chúng được tìm thấy ở những vùng nước nhiệt đới và ôn đới ở khắp nơi trên thế giới.

Cá ngựa và cá chìa vôi là 2 loài đặc biệt mà con đực mang thai và sinh con.

Cá ngựa thật sự là một loài cá. Nó có vây ngực ở phía trên gần mang và vây lưng nằm phía dưới cơ thể. Một số loài cá ngựa có một phần thân thể trong suốt nên rất khó nhìn thấy trong các bức ảnh.

Số lượng cá ngựa đã bị giảm sút đến mức nghiêm trọng do đánh bắt cá gia tăng. Cá ngựa được dùng trong những vị thuốc truyền thống của Trung Quốc, hàng năm có khoảng 20 triệu con cá ngựa bị đánh bắt để phục vụ cho mục đích trên.

Việc nhập và xuất khẩu hải mã được tổ chức SITES kiểm soát từ ngày 15/05/2004.

Hải mã ăn cá hương và những loài giáp xác như tôm nhỏ, chúng ăn bằng cách dùng miệng để mút con mồi.

[sửa] Sự sinh sản

Hải mã sinh con theo một cách kỳ lạ: con đực mang thai. Theo báo cáo của Công trình nghiên cứu về hải mã, hải mã cái đưa trứng vào túi ấp của hải mã đực làm cho con đực có vẻ như đang mang thai. Những nghiên cứu mới đây cho thấy rằng hải mã đực truyền tinh dịch của chúng ra xung quanh chứ không đưa trực tiếp vào túi ấp. Thời gian mang thai từ 2-3 tuần.

Trứng hải mã nở khi nào phụ thuộc vào bố mẹ của chúng. Một số trải qua thời gian phát triển chung với những phiêu sinh vật biển. Đôi khi những con hải mã đực có thể ăn một số con của nó trước khi chúng được tự do. Những loài hải mã khác ngay lập tức bắt đầu cuộc sống dưới đáy biển.

Thông thường hải mã sống thành cặp, nhưng có một số loại sống thành bầy đàn. Khi sống thành cặp, hải mã thường giao phối vào sáng sớm hoặc đôi khi vào chập tối để củng cố thêm mối quan hệ của chúng. Phần thời gian còn lại chúng giành cho việc tìm thức ăn.

[sửa] Làm vật nuôi

Nhiều người nuôi hải mã như thú cưng. Hải mã chỉ ăn thức ăn tươi như tôm biển và thường nằm úp người xuống bể, hành động này sẽ làm cho hệ thống miễn dịch của chúng hoạt động yếu hơn, từ đó mà dễ mắc các bệnh.

Trong thời gian gần đây, những con hải mã được nuôi sinh sản nhiều hơn trước. Trong tình trạng bị giam cầm, chúng sống tốt hơn và ít mắc bệnh. Những con hải mã này sẽ được cho ăn tôm cám, chúng cũng sẽ không bị sốc hay lo lắng căng thẳng khi đột ngột bị bắt ngoài biển và thả vào bể cá. Dù những con hải mã được nuôi từ nhỏ có giá đắt hơn nhưng chúng thích nghi và sống sót tốt hơn những con hải mã ngoài tự nhiên.

Hải mã nên được nuôi trong bể cá thích hợp. Hải mã ăn khá chậm, nhưng khi được nuôi trong bể, chúng trở nên hung hăng, cạnh tranh để giành thức ăn cho riêng mình. Vì vậy, người nuôi chúng cũng cần chú ý đảm bảo lượng thức ăn cho mỗi con.

Hải mã có thể chung sống với một số loại tôm hay động vật đáy, đôi khi với cá bống. Một số loài khác có thể gây nguy hiểm cho hải mã như lươn, bạch tuộc hay mực ống...

Những loại hải mã nước ngọt được bán có thể là một loại gần giống như cá chìa vôi ở sông. Hải mã nước ngọt thật sự không được xem là một loài hải mã. Loại hải mã mới tìm được gần đây sống trong nước lợ.

[sửa] Thích nghi

200px
200px

Hải mã có đôi mắt cao di động có khả năng quan sát kẻ thù và mồi mà không cần di chuyển. Giống như loài rồng biển, hải mã cũng có một cái vòi dài để mút con mồi. Vây hải mã nhỏ thích hợp luồn lách qua những đám tảo dày. Ngoài ra, hải mã còn có một cái đuôi dài và có khả năng quấn quanh tảo biển để giữ mình không bị dòng nước cuốn đi.