Hoàng Thị Loan

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hoàng Thị Loan
Bà Hoàng Thị Loan
Tên: Hoàng Thị Loan
Hán-Nôm: 黃氏鸞
Ngày sinh: -- tháng -- năm 1868
Ngày mất: 10 tháng 2 năm 1901 Canh Tý

Hoàng Thị Loan (chữ Hán: 黃氏鸞; 1868–1901) là mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bà sinh năm 1868 trong một gia đình Nho học có truyền thống của làng Hoàng Trù, Nam Đàn, Nghệ An. Ông nội bà là Hoàng Xuân Cẩn đậu 3 khoa tú tài, ông ngoại bà là Nguyễn Văn Giáp đậu 4 khoa tú tài. Thân sinh bà là Hoàng Đường (hay Hoàng Xuân Đường), một nhà Nho tiếng tăm trong vùng đã mở lớp dạy học tại nhà và được nhân dân kính trọng. Thân mẫu bà là Nguyễn Thị Kép, một người thông minh, hiền lành. Bà cũng có một em gái là Hoàng Thị An sinh năm 1877.

Cuối năm 1883 bà thành hôn cùng Nguyễn Sinh Sắc, một chàng trai nghèo, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc 4 tuổi, được gia đình cụ Hoàng Đường cưa mang, đưa về nuôi ăn học. Năm 1884 bà sinh con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh (1888), sau đó là con trai cả Nguyễn Sinh Khiêm và năm 1890 Nguyễn Sinh Cung chào đời, là lãnh tụ của Việt Nam sau này.

Năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân ở trường Nghệ. Theo lời kể, khi được tin ông Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân sắp vinh quy, bà vẫn đang ở ngoài đồng cấy tiếp thửa ruộng vị mười. Có người chạy ra tận ruộng báo tin mừng và mời bà về nhà chuẩn bị trầu nước đón chồng và mời bà con làng xóm đến mừng. Sau giây phút xúc động, bà từ tốn nói: "Đậu thì mừng, ông Nghè, ông Cống cũng sống về ăn" rồi bà ở lại cấy cho đến quá trưa, xong thửa ruộng mới trở về.

Cuối năm 1895 mặc dù hoàn cảnh gia đình bà hết sức gieo neo, em gái đã đi lấy chồng, cụ Kép đã ngoài 60 tuổi, dù hết lòng thưong mẹ, quyến luyến quê hương nhưng tha thiết muốn chồng được học hành, đậu đạt cao hơn, bà đã gửi con gái đầu mới 11 tuổi ở lại với mẹ già, rồi đưa hai con gồng gánh theo chồng vào Huế để lao động nuôi chồng con, tạo điều kiện cho chồng yên tâm theo học trường Quốc Tử Giám.

Ở Huế, gia đình bà tìm thuê được một gian nhà nhỏ ở gần cổng thành Đông Ba, nay là số nhà 112 đường Mai Thúc Loan.

Năm 1900, bà sinh hạ thêm một người con trai út, đặt tên là Nguyễn Sinh Nhuận (còn gọi là Xin). Từ đó cuộc sống vật chất trở nên quá thiếu thốn, vì vất vả, kham khổ bà bị đau ốm luôn. Ngày 10 tháng 2 năm 1901, tức ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý bà qua đời khi tuổi mới 33. Không lâu sau thì người con út cũng qua đời.

Thi hài bà được mai táng tại chân núi Ba Tầng thuộc dãy Ngự Bình. Năm 1922 cô Thanh đã tìm cách đưa được hài cốt của bà về quê yên nghỉ trong khu vườn nhà mình ở làng Kim Liên.

Năm 1942 sau khi thoát khỏi nhà tù thực dân cậu Cả Khiêm trở về quê hương, đã đi thực địa khắp vùng Nam Đàn tìm nơi cát táng cho người mẹ. Vị trí được chọn là ngọn Động Tranh trong dãy núi Đại Huệ ở độ cao gần 100 mét, một vị thế đẹp đẽ và hùng vĩ, thuộc địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An ngày nay.

[sửa] Xem thêm

[sửa] Liên kết ngoài