Lê Thiết Hùng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (1908 – 1986) được xem là vị tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Mục lục

[sửa] Ra nước ngoài

Ông tên thật là Lê Văn Nghiệm, tên khác là Lê Trị Hoàn, sinh năm 1908 tại Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, cha là Lê Văn Nghiêm và mẹ là Trần Thị Sáu. Năm 1924, với bí danh Lê Như Vọng, ông tham gia đoàn học sinh sang Thái Lan với Lê Hồng Phong (vốn là anh em con chú bác ruột với ông). Tới Thái Lan, năm sau ông cùng một người nữa được chọn sang Quảng Châu hoạt động. Nguyễn Ái Quốc, lúc đó mang tên Lý Thụy, đã đặt cho ông tên Lê Quốc Vọng.

Ông vào học ở trường Hoàng Phố, sau đó theo yêu cầu của tổ chức, năm 1928 gia nhập quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, làm đến quân hàm đại tá. Trong thời gian này, ông đã thu thập tin tức tình báo (cùng với ông Hồ Học Lãm) chuyển cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, vận chuyển những va li tài liệu mật, vũ khí trang bị, thậm chí còn tiến hành cả kế hoạch đánh tráo và giải thoát cho tù chính trị thành công.

Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1931.

Ông đã hai lần sang Nhật gặp Kỳ ngoại hầu Cường Để vào tháng 11 năm 1931 và từ tháng 11 năm 1932 đến tháng 2 năm 1933.

Năm 1940, ông được lệnh về Việt Nam, nhưng đến Tĩnh Tây, Quảng Tây (Trung Quốc) lại được phân công ở lại đây làm đại diện cho Việt Nam Giải phóng Đồng minh (sau đổi thành Việt Nam độc lập Đồng minh).

[sửa] Về Việt Nam

Cuối năm 1941, tại Pác Bó (Cao Bằng) Lê Quốc Vọng được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cùng với Lê Quảng Ba lập đội vũ trang đầu tiên gồm 12 người. Lê Quốc Vọng làm chính trị viên.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, ông chỉ huy lực lượng vũ trang của Việt Minh giành chính quyền tại Thất Khê, Đồng Đăng, Na Sầm.

Tham gia Việt Minh, ông là một trong những cán bộ quân sự chủ chốt đầu tiên của chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong sắc lệnh số 185 ngày 24 tháng 9 năm 1946 do Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng ký, ông được phong Thiếu tướng cho tương xứng với sĩ quan Pháp khi làm việc (khi đó trong Quân đội Quốc gia Việt Nam chưa có ai được phong hàm sĩ quan), được cử giữ chức vụ Tổng chỉ huy Tiếp phòng quân, một bộ phận của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Đây chính là lý do ông được xem là vị tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 11/1946, ông được cử giữ chức Chủ tịch của Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Khi quân Pháp tái chiếm Đông Dương, ông giữ chức Khu trưởng Chiến khu IV.

Tháng 7/1947, ông về tham gia xây dựng Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Tháng 1/1948, ông giữ chức Tổng thanh tra quân đội. Ông có tên trong danh sách 9 thiếu tướng được phong lần đầu tiên năm 1948. Ông từng là chỉ huy trưởng mặt trận Bắc Cạn và Tuyên Quang. Sau đó làm Cục trưởng Cục Quân huấn kiêm Hiệu trưởng Trường Lục quân Việt Nam (1950-1954); Tư lệnh Bộ Chỉ huy Pháo binh (1954-1956), Tư lệnh đầu tiên của Binh chủng Pháo binh (1956-1963) kiêm Chỉ huy trưởng Sở Chỉ huy phòng không.

Năm 1963 ông chuyển sang làm công tác đối ngoại: đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Triều Tiên, rồi tháng 5/1970 làm phó Trưởng ban Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

Ông được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.

[sửa] Gia đình

Trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc, ông lập gia đình với bà Hồ Diệc Lan (sinh năm 1920), con gái nhà cách mạng Việt Nam Hồ Học Lãm. Bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc khi còn rất trẻ và sống ở căn cứ địa cách mạng Trung Quốc vô cùng thiếu thốn, nên nhiễm bệnh phổi. Tháng 6 năm 1946, Hồ Diệc Lan cùng mẹ và em gái là Hồ Mộ La được đại diện Chính phủ ta đón về nước (ông Hồ Học Lãm đã mất tại Trùng Khánh, Trung Quốc năm 1943). Tháng 10 năm sau, do bệnh tình quá nặng, Hồ Diệc Lan đã qua đời tại quê nội (Nam Đàn, Nghệ An) ở tuổi 27. Hai ông bà chưa có con.

Năm 1948, Thiếu tướng Lê Thiết Hùng kết hôn với nữ bác sĩ quân y Nguyễn Tuyết Mai, sinh năm 1924. Bà Tuyết Mai là cựu nữ sinh Trường Đồng Khánh (Hà Nội), giỏi tiếng Pháp, đã tốt nghiệp khoa Sản Trường Đại học Y-Dược Hà Nội. Trước khi nghỉ hưu, bà là Trưởng ban Quân y của Tổng cục Kỹ thuật (Bộ Quốc phòng). Người con gái duy nhất của hai ông bà là Lê Mai Hương (sinh năm 1958), cán bộ của PA27 Công an Hà Nội.

Ông mất năm 1986 tại Hà Nội.

[sửa] Xem thêm