Hồ Học Lãm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hồ Học Lãm (chữ Hán: 胡學覽; 1883?-1942), tự Hinh Sơn, là một chí sĩ Việt Nam thời cận đại.

[sửa] Tiểu sử và hoạt động

Ông là con của liệt sĩ Hồ Bá Trị và bà Trần Thị Trâm, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông có họ hàng gần với nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu.

Thân phụ mất sớm vì bị thực dân Pháp giết hại năm 1885, ông và người anh Hồ Xuân Kiên do một tay thân mẫu nuôi nấng và giáo dục. Bà vốn là con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực, Tri phủ Vĩnh Tường; là một nhà hoạt động nổi tiếng từ thời Cần Vương, một cánh tay đắc lực của Phan Đình Phùng trong cuộc khởi nghĩa Vụ Quang, từng cùng với chí sĩ Thân Sơn Ngô Quảng sang Xiêm La mua súng cho nghĩa quân kháng Pháp. Do bà thường sắm vai buôn lụa để hoạt động nên có tên là "bà Lụa". Bà cũng là mẹ đỡ đầu của cô Chiêu Thanh (tức Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Nguyễn Tất Thành).

Do ảnh hưởng từ sự giáo dục của thân mẫu, ông sớm ý thức về lòng yêu nước, năm 1908, hưởng ứng phong trào Đông du, phong trào Duy tân, ông du học sang Nhật. Khi các du học sinh Việt Nam ở Nhật bị trục xuất, ông sang Trung Quốc vào học Trường Võ bị Bắc Kinh.

Tốt nghiệp, trở thành một sĩ quan trong quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng, nhưng trong lòng ông vẫn hướng về tổ quốc. Ông giữ chức Ủy viên Huấn luyện cho Việt Nam Quang phục hội. Nhà ông là cơ sở đón tiếp các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đến bàn việc cứu nước, giải phóng dân tộc. Một số nhà cách mạng từng lưu trú tại nhà ông như Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng... Ông mất năm 1942.

[sửa] Gia đình

Ông có vợ là bà Ngô Khôn Duy và hai con gái là Hồ Diệc Lan và Hồ Mộ La.

Bà Hồ Diệc Lan, kết hôn với Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, vị tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhưng mất sớm (năm 1947, ở tuổi 27) và chưa có con. Khi bà Hồ Diệc Lan mất, báo Cứu quốc Liên khu IV có đăng lời chia buồn và ông Phạm Văn Đồng cũng gửi lời chia buồn đến bà Hồ Học Lãm.

Bà Hồ Mộ La sau này là giảng viên trường nhạc Hà Nội.

[sửa] Công lao đóng góp

Ông là người sáng lập ra Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội tại Nam Kinh vào năm 1936, làm tổ chức cơ sở cách mạng cho người Việt ở hải ngoại. Về sau một tổ chức khác với tên gọi này lại được Nguyễn Ái Quốc thành lập và tổ chức trong nước vào năm 1941, và được nhiều người biết đến với tên gọi Việt Minh.