Hải quân Nhân dân Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hải quân Nhân dân Việt Nam là một trong ba Quân chủng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng. Cơ quan chỉ huy là Bộ Tư lệnh Hải quân.

Hải quân Nhân dân Việt Nam có các binh chủng Hải quân đánh bộ, Tên lửa-Pháo bờ biển, Không quân Hải quân nhưng không tổ chức Bộ Tư lệnh riêng.

Hải quân Nhân dân Việt Nam có các cấp đơn vị: hải đoàn, hải đội tàu, binh đoàn Hải quân đánh bộ, các binh đoàn bộ đội chuyên môn, các đơn vị bảo đảm phục vụ (ra đa, thông tin, kỹ thuật, hậu cần...).

Đơn vị Hải quân đánh bộ đầu tiên được thành lập năm 1975.

Mục lục

[sửa] Các Cơ quan và Đơn vị trực thuộc

  • Cục Chính trị
    • Bảo tàng Hải quân. Địa chỉ Qua khỏi Cầu Rào thành phố Hải Phòng. Thành lập ngày 4 tháng 1 năm 1975.
  • Bộ Tham mưu
  • Cục Hậu cần
  • Cục Kỹ thuật
  • Cục Cảnh sát biển (tổ chức và hoạt động của Cảnh sát biển được tuân theo Nghị định 53/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 1998)
  • Viện Kỹ thuật Hải Quân
Trụ sở chính: Hải phòng
Trụ sở chính: Nha Trang.
Giám đốc: Chuẩn đô đốc, Tiến sĩ Phạm Hồng Thuận
  • Trường Trung học Kỹ thuật Hải quân.
  • Các trường THCN, nhà máy, xí nghiệp khác

[sửa] Các vùng Hải quân

Vùng Hải quân là tổ chức liên binh đoàn chiến dịch-chiến thuật của Hải quân, phân chia theo lãnh thổ, gồm các binh đoàn, binh đội tàu mặt nước, không quân của Hải quân, Hải quân đánh bộ, bộ đội phòng thủ đảo, pháo binh bờ biển và các đơn vị bảo đảm tác chiến (ra đa, thông tin, kỹ thuật, hậu cần...).

  1. Vùng 1 (hoặc vùng A): Vịnh Bắc Bộ
  2. Vùng 2 (hoặc vùng B): Quần đảo Hoàng Sa
  3. Vùng 3 (hoặc vùng C): Biển đoạn giữa miền Trung, gồm đảo Cồn Cỏ, Lý Sơn... Trụ sở Bộ Chỉ huy: Đà Nẵng
  4. Vùng 4 (hoặc vùng D): Quần đảo Trường Sa và biển phía nam miền Trung
  5. Vùng 5 (hoặc vùng E): Nam biển Đôngvịnh Thái Lan

[sửa] Các cấp hàm

Trước năm 1981, quân hàm cấp tướng của Quân chủng Hải quân chưa có tên gọi riêng, vẫn mô phỏng theo cách gọi của Trung Quốc. Từ năm 1981, quân hàm các cấp tướng trong Hải quân mới có tên gọi riêng, theo cách gọi của Liên Xô: Đô đốc (tương đương Thượng tướng), Phó Đô đốc (tương đương Trung tướng), Chuẩn Đô đốc (tương đương Thiếu tướng), được quy định lần đầu tiên trong Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1981. Về phù hiệu và cấp hiệu quân hàm xem bài Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Cho đến nay mới có một sĩ quan Hải quân lên tới cấp Đô đốc: cố Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương (1921-1990). Ông được phong làm Đô đốc năm 1988. Theo Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam (1999) thì Phó Đô đốc là bậc quân hàm cao nhất của quân nhân giữ chức vụ Tư lệnh Quân chủng Hải quân.

[sửa] Lịch sử

Hải quân Nhân dân Việt Nam lấy ngày 7 tháng 5 năm 1955, ngày thành lập Cục Phòng thủ bờ biển thuộc Bộ Quốc phòng làm ngày thành lập Hải quân. Còn ngày truyền thống là ngày 5 tháng 8 năm 1964, ngày đánh đuổi tàu Mađốc (Maddox) và cuộc tập kích bằng không quân của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam.

Tuy nhiên quá trình phôi thai hình thành Hải quân Nhân dân Việt Nam đã có từ năm 1946. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Bộ Tư lệnh Chiến khu miền Duyên hải tại Hải Phòng đã tổ chức Ủy ban Hải quân Việt Nam. Lực lượng Hải quân lúc này có gần 200 người, một tàu nhỏ mang tên Bạch Đằng và 3 ca nô làm nhiệm vụ tuần tiễu, bảo vệ cảng Hải Phòng và vùng ven biển lân cận. Tại Đà Nẵng, Việt Minh cũng tổ chức Thủy quân miền Nam Trung Bộ gồm gần 400 người.

Ngày 19 tháng 7 năm 1946, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng đã ký Quyết định thành lập Hải quân Việt Nam. Tiếp đó, ngày 10 tháng 9 năm đó, Chủ tịch Quân sự Ủy viên Hội Võ Nguyên Giáp ký Nghị định đặt cơ quan chỉ huy Hải quân là Hải đoàn do một Hải đoàn trưởng phụ trách. Tuy nhiên đến đầu năm 1947, xét thấy không thể duy trì lực lượng Hải quân, Việt Minh đã tháo gỡ máy móc, vũ khí, thiết bị và đánh đắm tàu để không lọt vào tay quân Pháp.

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, thành lập Ban nghiên cứu thủy quân thuộc Bộ tổng Tham mưu. Ban này vừa làm nhiệm vụ nghiên cứu vừa làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu. Khoảng 100 người tổ chức thành đội 71 được cử sang đảo Hải Nam (TRung Quốc) huấn luyện về thủy quân trong thời gian 6 tháng. Tuy nhiên ban bị giải thể năm 1951.

Ngày 24 tháng 8 năm 1954, thành lập hai thủy đội Sông Lô và Bạch Đằng.

Tháng 4 năm 1955, Bộ Quốc phòng thành lập Trường huấn luyện bờ biển và ngay tháng sau thành lập Cục Phòng thủ bờ biển, đánh dấu sự ra đời của Hải quân Nhân dân Việt Nam.

Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Cục Phòng thủ bờ biển chuyển đổi thành Cục Hải quân và đến ngày 3 tháng 1 năm 1964, Bộ Tư lệnh Hải quân được thành lập.

Ngày 18 tháng 5 năm 1959, thành lập Đoàn 135 (sau này đổi thành 140), đơn vị tàu tuần tiễu.

Ngày 13 tháng 9 năm 1975, tổ chức các đơn vị phòng thủ đảo.

Ngày 31 tháng 8 năm 1998, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam làm lễ ra mắt.

[sửa] Chỉ huy và Lãnh đạo qua các thời kỳ

  • Cục trưởng kiêm Chính ủy Cục Phòng thủ bờ biển: Tạ Xuân Thu, Cục phó: Nguyễn Bá Phát, Tham mưu trưởng: Đoàn Bá Khánh
  • Cục trưởng Cục Hải quân: Nguyễn Bá Phát

[sửa] Tư lệnh

[sửa] Chính ủy

  • Tạ Xuân Thu (1965-1971), Thiếu tướng (1961).
  • Hoàng Trà (1971-1974 và 1975-1979), Thiếu tướng Hải quân (1974).
  • Nguyễn Văn Tình (hiện nay), Phó Đô đốc Hải quân.

[sửa] Liên kết ngoài

Ngôn ngữ khác