Robinson Crusoe

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Robinson Crusoe là tiểu thuyết của nhà văn Anh Daniel Defoe (1660-1731), có tên đầy đủ là Cuộc đời và những chuyện phiêu lưu kỳ thú của Robinson Crusoe, người thủy thủ xứ York (The life and strange surprizing adventures of Robinson Crusoe of York, Mariner), được phát hành lần đầu tiên năm 1719. Đây là tác phẩm chói sáng nhất trong hơn hai trăm năm mươi tác phẩm truyện dài và truyện ngắn xuất sắc của tác giả, xuất bản khi tác giả đã gần sáu mươi tuổi. Robinson Crusoe được đánh giá là tiểu thuyết vĩ đại đầu tiên của nước Anh, và ở một vài khía cạnh, chưa hề có tác phẩm nào trội hơn. Sự thành công của nó thúc đẩy Defoe viết thêm nhiều “hậu truyện” cho cuốn này và rất nhiều truyện phiêu lưu kỳ thú khác của các tên cướp biển, các lãng tử và các cô gái giang hồ.

Mục lục

[sửa] Tóm tắt tác phẩm

Cảnh báo: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.

Tiểu thuyết viết dưới hình thức tự truyện của nhân vật chính xưng “tôi” trong tác phẩm.

Robinson là người ưa hoạt động và ham thích phiêu lưu, say sưa đi đến những miền đất lạ, bất chấp sóng to gió lớn và những nỗi hiểm nguy. Ngày 8-9-1651 - khi chàng 19 tuổi – chàng xuống tàu tại hải cảng Hull của Anh để cùng một người bạn sửa soạn đi London. Cuộc hành trình không trót lọt, sóng to gió lớn khiến tàu bị đắm ở Yacmao. Tai họa ấy không làm chàng nhụt chí. Cha mẹ khóc lóc, bạn bè can ngăn không lay chuyển được quyết tâm của chàng. Chàng vẫn tiếp tục thực hiện nhiều cuộc phiêu lưu khác. Khi đi buôn tại bờ biển Guinea châu Phi, chàng bị một tên cướp biển Thổ Nhĩ Kỳ bắt bán làm nô lệ. Trải qua nhiều gian nan, chàng trốn thoát và chạy qua Brazil thuộc Nam Mỹ làm nghề trồng mía. Mộng hải hồ không dứt, bốn năm sau chàng lại nghe bạn bè rủ rê xuống tàu đi châu Phi trong một chuyến buôn bán đổi chác lớn. Thật không may chuyến đi được chuẩn bị kỹ càng này kết thúc trong bi thảm, tàu bị đắm. Xác tàu dạt vào gần bờ một đảo hoang và chỉ mình chàng còn sống sót. Tại đây, sau khi đã hì hục vớt vát được tại xác tàu đắm cũ một số gạo, lúa mạch, thịt dê, đường, súng, búa rìu v.v. chàng bắt đầu cuộc sống cô độc của mình bằng việc dựng một căn lều, săn bắn kiếm ăn, rồi dần dần trồng lúa mạch và ngô, nuôi được dê lấy thịt, làm những nồi đất để đựng nước, hạ được cây cổ thụ để đục thành một chiếc thuyền độc mộc.

Robinson Crusoe và Man Friday do Carl Offterdinger vẽ
Robinson Crusoe và Man Friday do Carl Offterdinger vẽ

Mười hai năm trời trôi qua trong cô đơn và cực khổ trên đảo hoang, chỉ làm bạn với chim muôn cây cỏ, thình lình chàng phát hiện ra có dấu chân người và thực sự hoảng sợ. Mãi về sau, khi đã sang năm thứ hai mươi lăm trên hoang đảo một mình, chàng mới khám phá ra một bọn thổ dân ăn thịt người có tục lệ mang những người sống mà chúng bắt được đến một nơi hẻo lánh trên đảo để làm thịt. Một buổi sáng kia, chàng thấy 30 tên thổ dân đang nhảy múa quanh đống lửa và đã nấu chín một người, còn hai người cũng sắp bị chúng lôi ra làm thịt, chàng đã dùng súng và gươm xông vào tả xung hữu đột giữa bọn chúng để cứu họ. Cuối cùng chàng cứu được một người và đặt tên anh ta là Friday (Thứ Sáu) để kỷ niệm ngày anh ta được cứu thoát.

Friday là một thổ dân châu Phi khá thông minh, Robinson đã dạy anh ta chút ít tiếng Anh và từ đó chàng không còn sống cô độc nữa. Qua thời gian ở với nhau, hai người đã trao đổi với nhau nhiều chuyện, đặc biệt là những điều mà Friday biết về đất liền. Họ chuẩn bị kế hoạch rời đảo. Đúng lúc chiếc thuyền sắp đóng xong, Robinson và Friday lại chứng kiến cảnh hai chục tên thổ dân mang ba người lên đảo để làm tiệc. Họ đã xông vào tàn sát bọn thổ dân và cứu ba người kia. Trong ba người đó có một người da trắng là người Tây Ban Nha sống sót sau một vụ đắm tàu, Còn một người khác chính là cha của Friday. Người Tây Ban Nha ấy được Robinson giao chiếc tàu chàng đã đóng để anh ta đi tìm những người bạn mất tích khác. Trong khi chờ đợi anh ta trở về, một chiếc tàu của Anh ghé vào đảo. Bọn thủy thủ trên tàu đang nổi loạn, Robinson bèn giúp thuyền trưởng đoạt lại tàu rồi họ ra khơi, bỏ lại trên đảo hai thổ dân và bọn thủy thủ phiến loạn. Về sau mấy người Tây Ban Nha quay trở lại đảo. Họ cùng với những người Anh sống chung hòa bình, phát triển đảo trở nên trù phú.

Thế là sau hai mươi tám năm hai tháng mười chín ngày sống trên đảo hoang, Robinson đã trở về với thế giới loài người. Để rồi sau rất nhiều thời gian học cách thân thiện trở lại với thế giới ấy, chàng lấy vợ và có ba đứa con. Chấm dứt những chuyến phiêu lưu kỳ thú và gian truân, chàng an phận ở nhà để sửa soạn cho hành trình dài nhất trong đời, đó là hành trình tìm về cuộc sống bình thản chẳng chút âu lo cuối đời của chàng.

[sửa] Ý nghĩa

Robinson Crusoe trên đảo hoang là hình ảnh một con người có nghị lực lớn lao, có tinh thần dũng cảm, có sức mạnh và khả năng lao động chiến thắng thiên nhiên. Để viết tiểu thuyết, Defoe đã dựa vào nguyên mẫu là câu chuyện có thật về một thủy thủ tên là Alexander Selkirk (1676-1721), do đắm tàu đã lạc trên hòn đảo hoang ngoài khơi Chilê, đến năm 1709 may mắn được thuyền trưởng Roger cứu khi người thủy thủ bất hạnh đó gần như đã trở thành dã nhân. Nhưng nếu chàng Selkirk bị thiên nhiên khuất phục, thì hình tượng nhân vật Robinson đã phản ánh mẫu người lý tưởng có ý nghĩa bao quát hơn: sức lực và trí tuệ con người có khả năng bắt tự nhiên phục vụ cuộc sống của mình, không để bị thiên nhiên đồng hóa. Chàng cũng mang trong mình một trái tim nhân ái thấu cảm với những con người bất hạnh đồng thời căm ghét cái xấu cái ác còn tồn tại trong xã hội loài người. Chính sức mạnh của lòng dũng cảm và lòng nhân ái đã giúp chàng vượt qua mọi thử thách, mang lại cho chàng ý thức về giá trị cuộc sống, chiến thắng mọi hiểm nguy để có một quãng đời an nhàn thư thái lúc mãn chiều xế bóng.

Với cốt truyện giản dị, văn phong trong sáng phù hợp với giới trẻ, Robinson Crusoe thực sự có giá trị giáo dục tốt đối với lứa tuổi thiếu niên mọi thời đại. Câu chuyện cũng trở thành cảm hứng cho nhiều bài ca hay các tác phẩm điện ảnh sau này.

[sửa] Tham khảo

  • Mục từ Robinson Crusoe của Khương Việt Hà trên 101 vẻ đẹp văn chương Việt Nam và thế giới, NXB Văn hóa thông tin, H. 2006.

[sửa] Liên kết ngoài

Tiếng Anh