Entropy

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Với entropy trong lý thuyết thông tin, xem entropy thông tin. Kết hợp của cả hai, xem Entropy trong nhiệt động học và lý thuyết thông tin. Với các cách dùng khác, xem Entropy (không rõ ràng), và các bài viết khác trong Thể loại:Entropy.
Tan đá – thí dụ căn bản của sự tăng lên entropy
Tan đá – thí dụ căn bản của sự tăng lên entropy

Trong nhiệt động lực học, entropy nhiệt động lực (hay gọi đơn giản là entropy) dS là một đơn vị đo lường khối lượng năng lượng dQ phát tán/hấp thụ khi một hệ vật lý chuyển trạng thái tại một nhiệt độ tuyệt đối xác định T (dS = dQ / T). Trong cơ học thống kê, entropy được định nghĩa như là một đơn vị đo lường khả năng mà một hệ có thể rơi vào trạng thái độ trong một tình trạng, nó thường được gọi là "sự lộn xộn" hay "tính bừa" thể hiện trong một hệ.[1]

Mục lục

[sửa] Lịch sử

Xem chi tiết: Lịch sử của entropy

Lịch sử ngắn ngủi của entropy bắt đầu với công trình của nhà toán học Lazare Carnot người đã đưa ra nguyên lý rằng trong mọi cơ cấu tăng tốc và va chạm của những phần đang chuyển động tất cả đều có hiện diện của những thiệt hại về "moment chuyển động trong cuốn sách Các nguyên lý căn bản của cân bằng và chuyển động năm 1803 của ông. Nói cách khác, trong bất kỳ một quá trình tự nhiên nào đều tồn tại một xu hướng cố hữu về sự tiêu phí năng lượng hữu ích. Dựa trên công trình này, năm 1824 con trai của Lazare Sadi Carnot đã xuất bản cuốn Những suy ngẫm về năng lượng chuyển động của lửa trong đó ông đặt ra quan điểm răng trong mọi cơ chế nhiệt lượng “caloric”, hay cái hiện nay gọi là sức nóng, di chuyển từ phía nóng sang phía lạnh và rằng "luôn có một số calori mất đi". Những calori mất đi này báo trớc hình thức mất entropy như chúng ta biết. Mặc dù được định dạng ở hình thức calori, chứ không phải là entropy, đây là một sự nhìn vào bên trong sớm về định luật thứ hai về nhiệt lượng. Trong những năm 1850, Rudolf Clausius đã mang lại cho sự "mất calori" này một sự giải thích toán học và gọi nó là entropy. Sau đó, những người như Ludwig Boltzmann, Willard Gibbs, và James Clerk Maxwell coi entropy là căn bản thống kê.

[sửa] Định luật thứ hai

Có nhiều cách để phát biểu định luật thứ hai của nhiệt động học như:'Nhiệt chỉ co thể tự truyền từ vật nóng hơn sang vật lạnh hơn'. hoặc' Trong bất kì một quá trình tự diễn biến nào, êntropi tổng của hệ và môi trường xung quanh phải tăng'.

[sửa] Định nghĩa nhiệt động lực học

Vào những năm đầu thập kỉ 1850, Rudolf Clausius đã đưa ra khái niệm về năng lượng phân hủy.Đặc biệt hơn, ông đã đưa ra tiếp khái niệm về hệ nhiệt động học và đã tạo nên một cuộc tranh luận gắt gao về vấn đề rằng trong bất ki một quá trình phản ứng một chiều nào thì một phần nhỏ năng lượng dQ cũng sẽ thoát ra ngoài hệ. Năm 1876, kĩ sư hóa học Willard Gibbs, dựa trên những nghiên cứu của Clausius và Hermann von Helmholtz, đã đưa ra cách nhìn mới về năng lượng tự do Gibbs,trong nhiệt động học sử dụng giá trị T.&DeltaS để chỉ phần năng lượng mất đi của hệ ΔH.Những khái niệm về nhiệt động học tiếp tục được phát triển bởi James Clerk Maxwell [1871] và Max Planck [1903].

[sửa] Xem thêm

[sửa] Tham khảo

  • ^  Answers.com
  • Goldstein, Martin, and Inge F., 1993. The Refrigerator and the Universe. Harvard Univ. Press. A gentle introduction.