Tần (nước)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử Trung Quốc | ||||||
Tam Hoàng Ngũ Đế | ||||||
Nhà Hạ | ||||||
Nhà Thương | ||||||
Nhà Chu | ||||||
Xuân Thu | Nhà Đông Chu | |||||
Chiến Quốc | ||||||
Nhà Tần | ||||||
Nhà Tây Hán | Nhà Hán | |||||
Nhà Tân | ||||||
THDQ (Đài Loan) |
- Xem các nghĩa khác tại Tần.
Tần (tiếng Trung Quốc: 秦; Wade-Giles: Qin hoặc Ch'in) (778 TCN-207 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn bộ các nước và lần đầu tiên thống nhất Trung Quốc, từ thời điểm này nó được gọi là Nhà Tần. Họ của gia đình hoàng gia nước Tần là Doanh (嬴).
Tần là nước chư hầu mạnh nhất ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ trước khi nó tiêu diệt toàn bộ sáu nước chư hầu còn lại (Tề, Sở, Hàn, Yên, Triệu, Nguỵ) và thống nhất đất nước dưới quyền cai trị của Hoàng đế đầu tiên (Tần Thuỷ Hoàng, có nghĩa là Hoàng đế thứ nhất - trước khi lên ngôi, ông được gọi theo tên là Tần Doanh Chính). Quyền lực của nước Tần bắt đầu tăng lên từ thời điểm vua nhà Chu (người theo danh nghĩa là vua trên toàn bộ Trung Quốc) phong tước Công cho vua Tần sau khi quân đội Tần tham gia bảo vệ cho vua Chu khi ông phải bỏ chạy và di chuyển kinh đô trước các cuộc tấn công của bộ tộc Khuyển Nhung phía Bắc vào năm 771 TCN.
Tần tiếp tục phát triển trở nên hùng mạnh hơn trong những thế kỷ tiếp sau, nhờ tính cần cù và siêng năng đặc biệt của người dân trong nước. Các vị vua Tần thực hiện nhiều dự án nhằm thúc đẩy sự cường thịnh của quốc gia như đào các kênh tưới tiêu và xây dựng các thành quách phòng thủ kiên cố. Do lãnh địa cai trị của các vua Tần chủ yếu thuộc địa bàn các bộ tộc được cho là con cháu của dân tộc Jong ở thảo nguyên và mới chỉ tiếp xúc với văn hóa nhà Chu. Những yếu tố đó khiến nó khá phân biệt so với các nước chư hầu khác ở Trung Quốc thời điểm ấy và ngay từ khi mới thành lập, Tần đã luôn đối mặt với nguy cơ đối nghịch từ mọi phía.
Sự kiện đáng chú ý nhất trong lịch sử Tần trước thế kỷ thứ 3 TCN là sự xuất hiện của Thương Ưởng. Thương Ưởng là một người tin tưởng nhiệt thành vào các triết lý hệ phái Pháp gia, mà sau này Hàn Phi Tử, một quý tộc của nước Hàn đã hệ thống thành hệ tư tưởng Pháp gia. Pháp gia cho rằng tất cả mọi người đều bình đẳng và rằng luật pháp chặt chẽ và sự trừng phạt hà khắc là cần thiết để giữ gìn trật tự xã hội. Thương Ưởng trở thành tể tướng Tần thời Tần Hiếu Công và dần biến nước này trở thành một bộ máy hùng mạnh, được quản lý chặt chẽ, mục tiêu duy nhất của quá trình này là hạn chế mọi đối thủ. Thương Ưởng loại bỏ quý tộc và đưa ra một hình mẫu chính quyền do người tài cầm đầu - chỉ những người có chiến công, thành tích mới được giữ các chức vụ cao và đặc quyền gia tộc chỉ còn được giữ duy nhất cho hoàng gia. Khi thực hiện kế hoạch này, Thương Ưởng đã khiến nhiều kẻ bất bình, và ngay sau cái chết của Tần Hiếu Công, ông phải bỏ chạy khỏi triều đình và bị giết. Tuy nhiên, những cải cách theo đường lối Pháp gia của Thương Ưởng rõ ràng đã mang lại nhiều lợi ích và những nhà vua về sau này không dại dột mà thay đổi các chính sách đó.
Một trong những kết quả dễ nhận thấy nhất của chương trình cải cách là quân sự. Trước đó, quân đội do quý tộc kiểm soát và là đội quân phong kiến. Từ thời Thương Ưởng, các vị tướng có thể xuất thân từ bất kỳ tầng lớp nào trong xã hội, chỉ cần họ có đủ tài năng. Hơn nữa, quân lính được huấn luyện tốt và có kỷ luật. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là quân đội Tần luôn luôn có ưu thế số lượng vượt trội và được nhà nước hậu thuẫn nhiều. Kết quả của nhiều dự án công cộng với mục tiêu thúc đẩy nông nghiệp khiến Tần có khả năng cung cấp và duy trì cho một lực lượng quân đội lên tới hơn một triệu người - một con số mà không một nước chư hầu nào khác (có lẽ trừ Sở, một nước hùng mạnh khác, về danh nghĩa vẫn là chư hầu của nhà Chu, dù đã tự xưng Vương và xem mình ngang hàng với vua Chu) có thể đạt tới. Tất cả chúng đã tạo ra những sự thay đổi to lớn; những sự biến đổi mang tính cách mạng trong phương thức tiến hành chiến tranh của Tần chỉ diễn ra ở Châu Âu vào thời Cách mạng Pháp, hai ngàn năm sau.
Có được lực lượng quân sự hùng mạnh đó, Tần dần tiêu diệt các nước chư hầu nhỏ bên cạnh và từ thời Tần Huệ Vương về sau, vua Tần bỏ tước Công mà xưng Vương.
Năm 260 TCN, tất cả các nước chư khầu khác nhận thấy toàn bộ tầm vóc mà các cuộc cải cách ở Tần mang lại trong phương pháp tiến hành chiến tranh. Tất cả những kiểu cách lịch sự quý tộc đã bị loại bỏ nhường chỗ cho ưu tiên về tính hiệu quả. Sau trận Trường Bình, các tướng Tần đã ra lệnh hành quyết 400,000 tù binh chiến tranh nước Triệu.
Tới giữa thế kỷ thứ 3 Tần đã bắt đầu thực hiện nhiều dự án to lớn khác khiến vị trí ưu việt của họ ngày càng được củng cố vững chắc. Nước Hàn sợ Tần mở rộng về phía Đông sẽ gây hại đến mình vì thế vua Hàn tìm cách phá hoại Tần không phải bằng quân đội, vì lực lượng quá chênh lệch, mà bằng các kỹ sư thuỷ lợi. Tần có khuynh hướng xây dựng những kênh đào to lớn, một ví dụ là hệ thống tưới sông Mân. Hàn bèn gửi kỹ sư Trịnh Quốc tới triều đình Tần nhằm thuyết phục vua Tần đổ các nguồn tài lực của họ vào các kênh đào còn lớn hơn nữa. Tần đồng ý xây dựng kênh, nhưng không may thay cho Hàn, kế hoạch của họ mang lại hiệu quả trái ngược. Dù nó thực sự đã làm chậm bước tiến của Tần, cùng lúc ấy nó lại không thể tiêu diệt bớt nguồn tài lực của họ và cái gọi là kênh Trịnh Quốc hoàn thành năm 246 TCN, tất cả chi phí bỏ ra đã được thu về đầy đủ với một khoản lời kếch sù khác. Nhờ thế, Tần trở thành nước trù phú nhất Trung Quốc và lại có khả năng cung cấp thêm lương thực cho hàng trăm ngàn binh sĩ nữa.
(Chữ trên con dấu, 220 TCN)
Tới thời điểm ấy, từ con số hàng ngàn, các nước chư hầu đã giảm xuống chỉ còn bảy nước lớn. Hai nước mạnh nhất là Tần và Sở. Tuy nhiên, Sở không có nhiều ưu thế, bởi vì nó không mở rộng thêm lãnh thổ được vì các nước đệm xung quanh toàn là nước mạnh. Trái lại Tần dễ dàng sáp nhập các nước chư hầu yếu xung quanh và dù cuối cùng Sở đã thắng nước Yên vào cuối thế kỷ thứ 4 sau một cuộc chiến dai dẳng, thì nó cũng phải chịu nhiều tổn thất quân sự. Dù có những điều đó, Sở vẫn là một đối thủ tiềm tàng đối với việc phát triển quyền lực của Tần.
Hai đối thủ trực tiếp của Tần là Triệu và Hàn - cả hai đều mạnh, nhưng họ lại không bao giờ trở thành những mối đe doạ thực sự với Tần, cùng với đội quân đông đảo của họ. Hơn nữa, vẫn còn cái bóng của các vua nhà Chu, trên lý thuyết vẫn còn đang cai trị Trung Hoa. Năm 256 TCN, cuối cùng vấn đề này cũng kết thúc khi Tần tiêu diệt nhà Chu. Hành động này gửi một tín hiệu rõ ràng tới sáu nước chư hầu kia: Tần đang có ý định thống trị Trung Quốc.
Năm 247 TCN đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ Chiến Quốc, bởi vì trong năm đó cậu bé Doanh Chính 13 tuổi đã lên ngôi vua Tần. Mười bảy năm sau, Doanh Chính đã bắt đầu một cuộc chiến tranh cuối cùng, nhằm giành lấy uy quyền tối cao với tất cả các chư hầu khác, bắt đầu từ nước Hàn.
Quân đội Tần dễ dàng đánh bại Hàn rồi quay sang Triệu, một đất nước trống rỗng từ khi quân đội của họ bị tiêu diệt 30 năm trước đó trong trận Trường Bình. Triệu rơi vào tay Tần năm 228 TCN, và ngay sau đó, Nguỵ cũng bại trận. Tới lúc ấy, thắng lợi tuyệt đối của Tần đã gần kề. Tuy nhiên, không có gì là chắc chắn. Tuy nhiên, vẫn còn một đối thủ mạnh sau cùng là nước Sở vẫn còn đó.
Khi ấy, hai đội quân đông đảo nhất trong lịch sử thế giới cho tới tận thời điểm Cách mạng Pháp đã lao vào trận chiến giành ngôi vị thống lĩnh Trung Quốc. Năm 223 TCN, Sở bị tiêu diệt, và việc Tần lên ngôi bá chủ độc tôn không còn tránh được nữa.
Những gì tiếp sau không đáng gọi là một chiến dịch quân sự thực sự - chỉ vài tháng sau họ tiêu diệt và sáp nhập nước Yên. Khi ấy, chỉ còn lại duy nhất nước Tề, và nhận thấy tình huống của mình không còn cứu vãn được nữa, Tề đầu hàng mà không chống cự. Năm 221 TCN, một trong những năm quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc, vua Doanh Chính nước Tần không chỉ tuyên bố mình là vua cai trị Trung Hoa mà còn lấy danh hiệu chưa từng có cho đến thời điểm bấy giờ (bắt nguồn từ các truyền thuyết về Hoàng Đế và các nhân vật thần thoại khác) Hoàng đế Trung Quốc. Quả vậy, ông đã đổi tên hiệu thành Thủy Hoàng Đế, có nghĩa Hoàng đế đầu tiên, và ra lệnh mọi vị vua tiếp sau của triều đại ông đều phải theo truyền thống đó, lấy danh hiệu theo thế hệ cai trị của mình, Nhị Thế, Tam Thế, cho đến muôn đời.
[sửa] Biểu thời gian
- khoảng 557 TCN Tấn đánh Tần, thắng.
- 361 TCN Tần Hiếu Công lên ngôi. Thương Ưởng từ Nguỵ đến Tần.
- 356 TCN Thương Ưởng ban hành những luật thay đổi đầu tiên trong nước.
- 350 TCN Thương Ưởng ban hành những luật thay đổi thứ hai trong nước.
- 338 TCN Tần Hiếu Công Chết, Huy Văn lên ngôi và Thương Ưởng bị hành quyết.
- 316 TCN Tần chinh phục Sở và Ba.
- 293 TCN Tần đánh bại liên minh Nguỵ và Hàn tại trận Y Khuyết.
- 260 TCN Tần đánh tan quân Triệu trong trận Trường Bình.
- 256 TCN Tần chinh phục các vua nhà Chu.
- 247 TCN Doanh Chính, sau này là Tần Thuỷ Hoàng, lên ngôi.
- 230 TCN Tần chinh phục Hàn.
- 228 TCN Tần chinh phục Triệu.
- 225 TCN Tần chinh phục Nguỵ.
- 223 TCN Tần chinh phục Sở.
- 222 TCN Tần chinh phục Yên.
- 221 TCN Tần chinh phục Tề, hoàn thành việc thống nhất Trung Quốc, khởi đầu nhà Tần. Vua Tần trở thành Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên, và được biết đến với danh hiệu Tần Thuỷ Hoàng.
(chữ trên chuông đồng, khoảng 800 TCN)
[sửa] Các vị vua
- Tần Trọng (秦仲), cai trị 854-822: chắt của Phi Tử
- Trang Công (莊公), cai trị 822 TCN - 778 TCN: Doanh Dã (也), con trai Tần Trọng
- Tương Công (襄公), cai trị 778 TCN - 766 TCN: con trai Trang Công
- Văn Công (文公)
- Ninh Công (寧公)
- Vũ Công (武公)
- Đức Công (德公)
- Tuyên Công (宣公)
- Thành Công (成公)
- Mục Công (穆公)
- Khang Công (康公) : Doanh Oanh (罃)
- Cung Công (共公): Doanh Đạo (稻)
- Hoàn Công (桓公): Doanh Vinh (榮)
- Cảnh Công (景公): Doanh Hậu (後)
- Ai Công (哀公)
- Huệ Công (惠公)
- Điệu Công (悼公)
- Lệ Công (厲公): Doanh Thích (刺)
- Táo Công (躁公)
- Hoài Công (懷公)
- Linh Công (靈公): Doanh Túc (肅)
- Giản Công (簡公): Doanh Điệu Tử (悼子)
- Huệ Công II (惠公)
- Xuất Công (出公)
- Hiến Công (獻公): Doanh Sư Thấp (師隰)
- Tần Hiếu Công (孝公)
- Huệ Văn Vương (惠文王), cai trị 338 TCN - 311 TCN, cũng được gọi là Huệ Vương (惠王): Doanh Tứ (嬴駟)
- Tần Vũ Vương (武王), cai trị 311 TCN - 307 TCN: Doanh Đảng (蕩)
- Tần Chiêu Vương (昭襄王), cai trị 307 TCN - 250 TCN, cũng được gọi là Doanh Tắc (則 hay 稷)
- Tần Hiếu Văn (孝文王), cai trị 250 TCN: Doanh Trụ (柱)
- Tần Tương Vương (荘襄王), cai trị 250 TCN - 246 TCN: Doanh Tử Sở (子楚)
- Tần Thuỷ Hoàng (秦始皇), cai trị từ 246 TCN - 210 TCN (với tư cách vua nước Tần (秦王) tới 221 TCN, với tư cách Thuỷ Hoàng Đế (始皇帝) từ 221 TCN về sau): Doanh Chính (政)
- Tần Nhị Thế, cai trị từ 210 TCN - 207 TCN: Doanh Hồ Hợi (胡亥)
- Tử Anh (子嬰), cai trị từ giữa tháng 8 năm 207 TCN tới đầu tháng 10 năm 206 TCN