Greenland

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Kalaallit Nunaat (tiếng Greenland)
Grønland (tiếng Đan Mạch)
Quốc kỳ của Greenland Quốc huy của Greenland
(Quốc kỳ) (Quốc huy)
Khẩu hiệu quốc gia: không có
Quốc ca: Nunarput utoqqarsuanngoravit
Nuna asiilasooq
Bản đồ với nước Greenland được tô đậm
Thủ đô Nuuk (Godthåb)

64°10′N 53°41′W

Thành phố lớn nhất Nuuk (Godthåb)
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Greenland, tiếng Đan Mạch
Chính phủ

Nữ hoàng
Thủ tướng
Dân chủ nghị viện
trong khuôn khổ quân chủ lập hiến
Margrethe II
Hans Enoksen
Độc lập (Autonomous province
of the Kingdom of Denmark.
)

Home rule was established.


1979
Diện tích
 • Tổng số
 • Nước (%)
 
2,.166.086 km² (hạng 13)
81,1%
Dân số
 • Ước lượng năm 2005
 • Thống kê dân số
 • Mật độ
 
56.375 (hạng 211)

0,025 người/km² (hạng ~193)
HDI
GDP (2001)
 • Tổng số (PPP)
 • Trên đầu người (PPP)
 
$1,1 tỷ đô la Mỹ (hạng 192)
$20.000 (2001 est.) đô la Mỹ (hạng 52)
Đơn vị tiền tệ Krone Đan Mạch (DKK)
Múi giờ
 • Quy ước giờ mùa hè
UTC0 đến -4
Không áp dụng
Tên miền Internet .gl
Mã số điện thoại +299
Năm 2000: 158,433 dặm vuông (410,449 sq km) không tính băng, 677,676 dặm vuông (1,755,637 sq km) gộp cả vùng băng phủ

Greenland (tiếng Greenland: Kalaallit Nunaat, nghĩa "vùng đất của con người"; tiếng Đan Mạch: Grønland, nghĩa "Vùng đất xanh") là một lãnh thổ tự trị Đan Mạch. Dù về địa lýdân tộc đây là một đảo quốc Bắc cực liên kết với lục địa Bắc Mỹ, nhưng về chính trị và lịch sử Greenland có quan hệ mật thiết với Châu Âu. Đại Tây Dương bao quanh Greenland ở phía đông nam; Biển Greenland ở phía đông; Đại dương Bắc Cực ở phía bắc; và Vịnh Baffin ở phía tây. Nước nằm gần vùng này nhất là Iceland, ở phía đông Greenland trong Đại Tây Dương và Canada ở phía tây bên kia vịnh Baffin. Greenland là hòn đảo lớn nhất thế giới, và lãnh thổ phụ thuộc lớn nhất trên thế giới nếu tính theo diện tích. Đây cũng là nơi có vườn quốc gia lớn nhất thế giới.

Khoảng 81% diện tích bề mặt Greenland bị băng bao phủ, được gọi là mũi băng Greenland, trọng lượng của băng đã nén vùng đất trung tâm lục địa hình thành nên một lòng chảo nằm thấp hơn 300 m [1,000 ft] dưới mực nước biển. Hầu như tất cả người dân Greenland đều sống dọc theo các fjords ở phía tây nam đảo chính, nơi có khí hậu ôn hoà hơn. Đa phần người dân Greenland là hậu duệ của cả người Kalaallit (Inuit) và Scandinavia và sử dụng tiếng Greenland (Kalaallisut) làm ngôn ngữ chính. Tiếng Greenland được hơn 50,000 người sử dụng, lớn hơn toàn bộ các ngôn ngữ Eskimo-Aleut cộng lại. Một cộng đồng thiểu số Đan Mạch di cư tới đây, không có tổ tiên Inuit nói tiếng Đan Mạch. Cả hai đều là ngôn ngữ chính thức, và thổ ngữ Greenland phía tây là hình thức chính thức của tiếng Greenland.

Hiện đang có cuộc tranh cãi ngoại giao về chủ quyền giữa Canada và Greenland (được đại diện trên trường quốc tế bởi Đan Mạch) với hòn đảo nhỏ Hans.

Greenland là một trong những thuộc địa của Hoàng gia Na Uy từ thế kỷ 11 tới tận năm 1814. Ở thời gian ấy, Vương quốc Na Uy và Đan Mạch (Vua Na Uy đã kế vị ngôi báu Đan Mạch từ vài thế kỷ trước; xem Đan Mạch-Na Uy) ở bên thua trận sau Những cuộc chiến tranh Napoleon. Để trả ơn Thuỵ Điển vì sự hỗ trợ đánh bại Napoleon (và để an ủi cho việc để mất Phần Lan vào tay Nga), lục địa Na Uy và một số lãnh thổ Na Uy đã được trao cho Thuỵ Điển — vì thế, liên minh Na Uy và Đan Mạch chấm dứt tồn tại. Tuy nhiên, các thuộc địa Greenland, Iceland và Quần đảo Faeroe, vẫn là một phần của "Vương quốc Đan Mạch" mới được tái lập.

Greenland đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của Vương quốc Đan Mạch năm 1953. Nó được Folketing (nghị viện Đan Mạch) trao quyền tự trị năm 1978. Luật bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5, 1979. Nữ hoàng Đan Mạch, Margrethe II, vẫn là Người đứng đầu nhà nước Greenland. Các cử tri Greenland đã lựa chọn tách khỏi Cộng đồng kinh tế Châu Âu ngay sau khi được trao quyền tự trị.

Mục lục

[sửa] Từ nguyên

Cái tên Greenland do những người Scandinavia định cư đặt. Truyện dân gian Bắc Âu có kể rằng Erik Đỏ bị trục xuất khỏi Iceland vì tội giết người. Ông cùng với đại gia đình và những người nô lệ, lên tàu đi tìm vùng đất được đồn đại là ở hướng tây bắc. Sau khi đã tới nơi, ông đặt tên cho ùng đất này là Grønland ("Greenland"), có lẽ để thu hút thêm những người khác tới định cư ở đây. Greenland cũng được gọi là Gruntland ("Ground-land") trên những bản đồ thời trước. Việc Green có phải là sự phiên âm sai của từ Grunt ("Ground"), chỉ những vịnh cạn, hay ngược lại vẫn là điều chưa sáng tỏ. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng, phần phía nam của Greenland (nơi không bị băng bao phủ) thật sự rất xanh, ít nhất trong mùa hè.

[sửa] Lịch sử

Xem chi tiết: Lịch sử Greenland

Greenland là nơi cư trú của một số nền văn hoá Paleo-Eskimo ở thời tiền sử, nền văn hoá muộn nhất trong số đó — văn hoá Dorset Sớm — đã biến mất vào khoảng năm 200. Từ đó về sau, dường như không hề có người sinh sống trên hòn đảo này trong tám thế kỷ.

Những người định cư Iceland không phát hiện ra một người nào khi họ tới đây vào khoảng năm 982. Họ đã lập ra ba khu định cư gần mũi cực tây nam hòn đảo, và những nơi này đã phát triển nhanh chóng trong vài thế kỷ sau đó, và đã biến mất sau hơn 450 năm có người sinh sống.

Thời ấy, các fjords ở phần phía nam hòn đảo có hệ động thực vật phát triển và khí hậu ấm hơn, có lẽ vì thế nó được gọi là Giai đoạn ấm Trung Cổ. Các cộng đồng xa xôi đó đã phát triển, và sinh sống bằng việc đồng áng, săn bắn cũng như buôn bán với mẫu quốc, và khi những vị vua người Scandinavia cải đạo của thần dân sang Thiên chúa giáo, một giám mục đã được phái tới Greenland. Dường như những người tới định cư sống khá hoà thuận với người Inuit, họ đã ci cư về phía nam từ các đảo Bắc Cực của Bắc Mỹ từ khoảng năm 1200. Năm 1261, Greenland trở thành một phần của Vương quốc Na Uy. Tới lượt mình Na Uy lại tham gia vào Liên minh Kalmar năm 1397 và sau này là Liên minh Đan Mạch-Na Uy.

Sau gần năm trăm năm, những người định cư Scandinavia đã biến mất, có lẽ vì nạn đói trong thế kỷ 15 ở thời Băng hà nhỏ, khi các điều kiện khí hậu trở nên khắc nghiệt hơn, và tiếp xúc với Châu Âu bị gián đoạn. Xương cốt thời kỳ này được tìm thấy ngày nay cho thấy những bằng chứng ủng hộ điều đó. Mộ số người tin rằng những người định cư đã biến mất vì bệnh dịch hạch hay bị người Inuit tiêu diệt. Các nhà sử học đã chỉ ra rằng những tên cướp biển người Basque hay người Anh hay những kẻ buôn bán nô lệ từ Bờ biển Barbary đã góp phần vào sự biến mất của những cộng đồng tại Greenland.

Đan Mạch-Na Uy tái xác nhận tuyên bố chủ quyền của họ với thuộc địa này năm 1721. Các mối quan hệ của hòn đảo với Na Uy trở nên xấu đi sau Hiệp ước Kiel năm 1814, theo đó Thuỵ Điển giành được quyền kiểm soát toàn bộ nước Na Uy trong khi Đan Mạch giữ lại toàn bộ quyền sở hữu những vùng bên ngoài (thời ấy gồm các lãnh thổ nhỏ tại Ấn Độ, Tây Phi và Tây Ấn, cũng như Quần đảo Faroe, Iceland và Greenland.

Na Uy chiếm và tuyên bố chủ quyền nhiều phần (khi ấy không có người ở) ở phía Đông Greenland aka Erik the Red's Land vào tháng 7, 1931, cho rằng đó là Vùng đất không thuộc chủ quyền của một bên nào (Terra nullius). Na Uy và Đan Mạch đã đồng ý giải quyết vấn đề tại Toà án luật pháp quốc tế năm 1933, toà xử Na Uy thua cuộc.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mối quan hệ của Greenland với Đan Mạch trở nên căng thẳng ngày 9 tháng 4, 1940 khi Đan Mạch bị Đức chiếm đóng, và Greenland tự quản lý các công việc của mình. Nhờ có cryolite khai thác ở mỏ Ivigtut, Greenland có khả năng chi trả cho những mặt hàng mua từ Hoa Kỳ và Canada. Trong chiến tranh hệ thống chính phủ đã thay đổi. Eske Brun là thủ hiến và người cai trị hòn đảo thông qua một điều luật năm 1925 liên quan tới việc quản lý hòn đảo khi, dưới những trường hợp đặc biệt, các vị thủ hiến không thể nắm quyền kiểm soát. Vị thủ hiến khác, Aksel Svane, được phái tới Hoa Kỳ với tư cách lãnh đạo uỷ ban cung cấp Greenland. Đơn vị tuần tra Sirius Patrol, canh gác các bờ biển phía đông bắc Greenland sử dụng các xe chó kéo, đã phát hiện và phá huỷ nhiều trạm dự báo thời tiết của Đức, khiến Đan Mạch có được một vị trí tốt hơn trong giai đoạn hỗn loạn thời hậu chiến.

Tới tận năm 1940, Greenland vẫn là một xã hội được bảo vệ và vì vậy cũng là một xã hội biệt lập. Chính phủ Đan Mạch, cai quản các thuộc địa Greenland, tin rằng xã hội này sẽ phải đối mặt với sự khai thác từ thế giới bên ngoài, thậm chí là bị diệt chủng nếu được mở cửa. Dù trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ở Greenland đã phát triển một tinh thần tự cường trong giai đoạn tự quản lý và thông tin độc lập với thế giới bên ngoài.

Tuy nhiên, năm 1946 một uỷ ban (với sự tham gia của hội đồng cấp cao nhất của Greenland) đề xuất sự kiên nhẫn và không đưa ra những sửa đổi quá triệt để với hệ thống này. Hai năm sau, bước đầu tiên nhằm tiến tới một chính phủ ở Greenland được khởi động khi một uỷ ban quan trọng được thành lập. Năm 1950 bản báo cáo (G-50) được đệ trình. Greenland muốn trở thành một xã hội hiện đại và thịnh vượng với Đan Mạch vừa là hình mẫu, vừa là nước đỡ đầu. Năm 1953 Greenland trở thành một vùng bình đẳng bên trong Vương quốc Đan Mạch.

Năm 1979 hòn đảo được trao thể chế tự trị.

[sửa] Chính trị

Xem chi tiết: Chính trị Greenland
Hình:Hans Enoksen PM of Greenland.jpg
Hans Enoksen thủ tướng hiện thời của Greenland.

Lãnh đạo Nhà nước Greenland là Vua Đan Mạch, hiện là Nữ hoàng Margrethe II. Chính phủ của Nữ hoàng tại Đam Mạch chỉ định một Rigsombudsmand (Cao uỷ cao cấp) đại diện cho Chính phủ và nhà vua Đan Mạch.

Greenland có nghị viện gồm 31 thành viên. Lãnh đạo chính phủ là Thủ tướng, người đồng thời là lãnh đạo phe đa số trong Nghị viện. Thủ tướng hiện nay là Hans Enoksen.

Greenland không thuộc Liên minh Châu Âu (đã rời khỏi tổ chức tiền thân của Liên minh Châu Âu là Cộng đồng Châu Âu năm 1985), dù Đan Mạch là một thành viên của tổ chức này.


[sửa] Địa lý

Xem chi tiết: Địa lý Greenland
Bờ biển đông nam Greenland
Bờ biển đông nam Greenland
Bản đồ Greenland
Bản đồ Greenland

Tổng diện tích Greenland là 2,166,086 km² (836,109 dặm vuông), trong đó Phiến băng Greenland bao phủ 1,755,637 km² (677,676 dặm vuông) (81%). Đường bờ biển Greenland dài 39,330 km (24,430 dặm), khoảng bằng chiều dài chu vi Xích đạo Trái đất.

Trọng lượng to lớn của mũ băng Greenland đã nén vùng đất trung tâm, hình thành nên một lòng chảo nằm thấp hơn 300 m [1,000 feet] dưới mực nước biển[1].

Toàn bộ thị trấn và khu định cư ở Greenland nằm dọc theo bờ biển không bị băng bao phủ, dân số tập trung ở bờ biển phía tây. Vùng phía đông bắc Greenland, gồm các khu vực Bắc Greenland và Đông Greenland, không phải là một phần của bất cứ khu vực tự trị nào, đây là nơi có vườn quốc gia lớn nhất thế giới, Vườn quốc gia đông bắc Greenland. Xem Các vùng của Greenland.

Ít nhất có bốn trạm và trại thám hiểm khoa học ở phần trung tâm bị băng bao phủ của Greenland (được thể hiện bằng màu xanh nhạt trên bản đồ bên phải) là: Eismitte, Băng Bắc, Trại Bắc GRIP, Raven Skiway. Hiện nay, có một trạm thường trú cả năm là Summit Camp, được thành lập năm 1989. Đài phát thanh Jørgen Brøndlund Fjord cho tới tận năm 1950, là trạm xa nhất về phía cực bắc trên thế giới.

Một cảnh điển hình phía Nam Greenland, gần Nanortalik, nơi có nhiều fjord và núi non. Chú ý núi băng trôi nhỏ cận cảnh.
Một cảnh điển hình phía Nam Greenland, gần Nanortalik, nơi có nhiều fjord và núi non. Chú ý núi băng trôi nhỏ cận cảnh.

Vùng xa nhất phía bắc Greenland là Peary Land, nơi đây không bị băng bao phủ bởi vì không khí quá khô để tuyết, yếu tố chủ chốt để hình thành và duy trì các phiến băng, xuất hiện. Nếu phiến băng Greenland tan chảy hoàn toàn, mực nước biển sẽ tăng thêm hơn 7 m (23 feet) [2] và Greenland có lẽ sẽ trở thành một quần đảo.

Trong khoảng 19891993, các nhà nghiên cứu khí hậu Hoa Kỳ và Châu Âu đã khoan vào đỉnh phiến băng Greenland, thu được hai lõi băng dài hai dặm (3.2 km). Phân tích các lớp và thành phần lõi băng cho thấy đã có một sự thay đổi khí hậu lớn ở Bắc Bán Cầu từ khoảng 100,000 năm trước chứng minh rằng thời tiết và khí hậu trái đất đã thay đổi nhanh chóng từ trạng thái có vẻ rất ổn định tới một trạng thái khác hẳn, gây ra những hậu quả trên khắp thế giới.[cần chú thích] Các băng hà Greenland cũng góp phần làm tăng mực nước biển nhanh chóng hơn so với điều chúng ta từng tin tưởng trước đây.[3]

Tháng 2 năm 2006 các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng các băng hà ở Greenland đang tan ra với tốc độ nhanh gấp hai lần so với năm năm trước đây. Năm 2005, lượng băng tan hàng năm được ước tính khoảng 216 km³/năm (52 dặm khối trên năm), theo các tính toán hấp dẫn vệ tinh. Trong khoảng 1991 và 2006, việc kiểm tra thời tiết tại một địa điểm (Trại Thuỵ Sĩ) đã thấy rằng nhiệt độ trung bình mùa đông đã tăng gần 10 độ fahrenheit.[cần chú thích]

[sửa] Kinh tế

Xem chi tiết: Kinh tế Greenland

Đầu thập kỷ 1990 kinh tế Greenland rơi vào cảnh nợ nần nhưng từ năm 1993 nền kinh tế đã có bước cải thiện. Chính phủ tự trị Greenland (GHRG) đã theo đuổi chính sách thuế chặt chẽ từ cuối thập kỷ 1980 giúp tạo ra thặng dư trong ngân sách công cộng và tỷ lệ lạm phát thấp. Từ năm 1990, Greenland đã bị thâm hụt thương mại nước ngoài sau khi đóng cửa những mỏ chìkẽm còn hoạt động năm 1990. Greenland hiện nay phụ thuộc nhiều vào đánh bắt hải sản và xuất khẩu ; công nghiệp đánh bắt tôm là ngành mang lại nguồn thu lớn nhất. Dù đã tái khởi động các hoạt động khai thác hydrocarbon và khoáng chất nhưng cần có nhiều năm nữa hiệu quả của nó mới thật sự đạt được. Du lịch là lĩnh vực duy nhất đã phát triển gần mức tới hạn của tiềm năng và thậm chí còn bị hạn chế vì mùa ngắn và chi phí cao. Lĩnh vực công cộng, gồm cả những doanh nghiệp sở hữu nhà nước và các khu tự trị, đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế Greenland. Khoảng một nửa số thu chính phủ do Chính phủ Đan Mạch cung cấp, đây là khoản bổ xung quan trọng cho tổng sản phẩm quốc nội. GDP trên đầu người tương đương với các nền kinh tế yếu kém ở Châu Âu.

[sửa] Nhân khẩu

Xem chi tiết: Nhân khẩu Greenland

Dân cư Greenland có 56,000 người, trong số đó 87% là Greenlandic, một dân tộc pha trộn giữa người Inuit và người Châu Âu. Đa số dân theo Luti Phúc Âm. Tiếng Anh, tiếng Đan Mạch và tiếng Greenland đều là các ngôn ngữ được người dân ở đây sử dụng.

[sửa] Văn hoá

Xem chi tiết: Văn hoá Greenland

Bảo tàng Quốc gia Greenland và các văn thư lưu trữ [1] nằm tại Nuuk.

[sửa] Thể thao

Bóng đá là môn thể thao quốc gia ở Greenland, nhưng Greenland không phải là một thành viên của FIFA. Các quy định của FIFA bắt buộc rằng các nước thành viên tối thiểu phải có các sân bãi tiêu chuẩn cho các trận đấu quốc tế, sử dụng cỏ tự nhiên. Khí hậu của Greenland không thích hợp để có được mặt cỏ tự nhiên đạt yêu cầu của FIFA. Gần đây FIFA đã thông báo rằng họ sẽ cho phép các đội bóng chơi trên sân FieldTurf, đây có thể là một giải pháp giải quyết vấn đề sân đấu cho Greenland.

Xem thêm: Đội tuyển bóng đá quốc gia Greenland

[sửa] Xem thêm

  • Ngôn ngữ Kalaallisut
  • Thông tin ở Greenland
  • Quá trình thuộc địa hoá của Đan Mạch ở Châu Mỹ
  • Quan hệ nước ngoài của Greenland
  • Lịch sử Đan Mạch
  • Danh sách các thị trấn và khu định cư ở Greenland
  • Danh sách các ngọn núi ở Greenland
  • Quân đội Greenland
  • Vận tải ở Greenland
  • Trường đại học Greenland

[sửa] Tham khảo

  • CIA World Factbook 2000
  1. DK Atlas, 2001.
  2. http://news.nationalgeographic.com/news/2004/04/0408_040408_greenlandicemelt.html
  3. Roach, John (February 16, 2006). Greenland Glaciers Losing Ice Much Faster, Study Says. National Geographic. Được truy cập ngày 2006-09-13.

[sửa] Xem thêm

[sửa] Liên kết ngoài

Tìm thêm thông tin về Greenland bằng cách tìm kiếm tại một trong những đồng dự án khác của Wikipedia:

 Wiktionary (từ điển mở)
 Wikibooks (sách giáo khoa mở)
 Wikiquote (trích dẫn)
 Wikisource (thư viện mở)
 Commons (hình ảnh)

Tiêu bản:Các vùng Greenland

Tiêu bản:Đế chế hải ngoại Đan Mạch Tiêu bản:Hội đồng Na Uy Tiêu bản:Hội đồng Tây Na Uy

Các nướcBắc Mỹ
Antigua và Barbuda | Bahamas | Barbados | Belize | Canada | Costa Rica | Cuba | Dominica | Cộng hoà Dominican | El Salvador | Grenada | Guatemala | Haiti | Hoa Kỳ | Honduras | Jamaica | Mexico | Nicaragua | Panama | Saint Kitts và Nevis | Saint Lucia | Saint Vincent và quần đảo Grenadines | Trinidad và Tobago
Các lãnh thổ phụ thuộc: Anguilla | Antilles Hà Lan | Aruba | Bermuda | Quần đảo Cayman | Greenland | Guadeloupe | Martinique | Montserrat | Đảo Navassa | Puerto Rico | Saint-Pierre và Miquelon | Quần đảo Turks và Caicos | Quần đảo Virgin Anh | Quần đảo Virgin Mỹ

Tiêu bản:Các lãnh thổ và Thực thể khác tại Châu Âu