Sự kiêng kỵ trong truyền thống người Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Người Việt Nam ta cho dù làm việc gì, bất kể tầm quan trọng đến đâu, đều có ý thức kiêng kỵ: kiêng trong ngày đầu năm, đầu tháng, ma chay, cưới xin, cúng giỗ, học hành, chữa bệnh, xuất hành, buôn bán, chăn nuôi, trồng trọt, ăn uống, làm nhà dựng cửa... Có thể nói hiếm có dân tộc nào lại kiêng kỵ nhiều như Việt Nam.

Tín ngưỡng là thứ vô hình, thiêng liêng và ảnh hưởng rất lớn...

Theo tư duy nông nghiệp, và ảnh hưởng của chế độ Nho giáo trong cộng đồng làng xã, Tín được hiểu là tin theo, Ngưỡng là ngửa trông lên trời. Như vậy, tín ngưỡng là thứ vô hình, nhưng thiêng liêng và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa xã hội của người nông dân. Hạt nhân của tín ngưỡng là tính thiêng, trong đó bao gồm rất nhiều kiêng kỵ và tập tục.

Chính người nông dân với quan niệm “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành” đã góp phần tồn lưu những kiêng kỵ, tập tục trong đời sống của họ. Họ bị những điều kiêng kỵ quy định và điều chỉnh trong mọi hoạt động thường ngày và cũng chính họ là lực lượng duy trì và phổ biến những điều kiêng kỵ đó cho thế hệ nối tiếp. Hành trình này lâu dần trở thành tập quán.

Kiêng là sự dè chừng, cảnh giác của mọi người trong cộng đồng đối với những sự vật hiện tượng diễn ra trong cuộc sống. Kiêng giúp người ta sống an toàn hơn nhờ những lời cảnh báo, khuyên nhủ của thế hệ đi trước. Kỵ cũng là sự tránh né, dè chừng nhưng được diễn ra có ý thức cao hơn kiêng. Như vậy, trong sự kỵ đã bao hàm cả cả những yếu tố kiêng. Kỵ còn được hiểu là cấm kỵ - nghiêm cấm, không được vi phạm. Nếu cố làm trái đi, người đó sẽ phải gánh chịu hậu quả xấu. Thông thường, những điều cần kiêng trong cuộc sống diễn ra nhiều và phổ biến hơn những điều cần kỵ.

Con cháu kiêng không nói tên ông bà, cha mẹ. Nếu trong cuộc sống thường ngày có những tiếng trùng với tên của các bậc này, con cháu sẽ gọi tránh đi, hoặc tìm một tiếng đồng nghĩa để thay vào. Chẳng hạn Hà Đông làm Hà Đương, thịt đông gọi là thịt đặc, hồng gọi là hường, hoa gọi là huê, xuân gọi là xoan… Đối với tổ tiên là các vị đã khuất, sự kiêng tên càng được giữ gìn hơn. Khi con cháu làm một điều gì không phải, bị người khác gọi tên ông bà cha mẹ đã khuất ra mà réo chửi thì bị coi là một điều tủi hổ, sỉ nhục cho gia đình và dòng họ, có thể gây nên thù oán sâu đậm. Vì vậy, để tránh cho người khác khỏi xúc phạm đến tổ tiên mình, mọi người đều giữ gìn trong điều ăn nếp ở, cố làm sao không gây bất cứ sự đụng chạm nào.

Một buổi lễ tế Sao

Trong lúc cúng giỗ phải khấn đến tên tổ tiên, người gia trưởng cũng lâm râm khấn rất khẽ, e khấn to có người nghe tiếng là phạm tội bất kính. Các con cháu nhỏ không được biết tên tổ tiên, e chúng nhắc bậy bạ phạm tội đến các cụ, gây điều bất hiếu cho cha mẹ. Trước khi đặt tên cho các con, bố mẹ phải kiêng, không được đặt trùng tên tổ tiên.

Đối với thành hoàng làng, người ta cũng kiêng gọi thẳng tên ra, hoặc tránh đặt tên trùng với tên Thành hoàng.

Sự kiêng kỵ về cách đặt tên, gọi tên còn đúng cả trong trường hợp tên vua hay hoàng tộc. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, việc phạm húy tên của vua và hoàng tộc còn bị coi là tội, phải chịu quở trách hoặc nặng hơn thì phạt theo luật.

Kiêng kỵ là hiện tượng phổ biến trong đời sống nông thôn Bắc Bộ. Đặc biệt, trước Cách mạng tháng Tám, việc kiêng kỵ được người dân tuân thủ khá nghiêm với tinh thần tự giác. Cộng đồng mỗi làng xã khép kín sau lũy tre xanh dường như đều có những bí mật kiêng kỵ rất riêng tư. Có khi, việc kiêng kỵ tại cộng đồng này lại không có ý nghĩa hay giá trị gì với cộng đồng khác, dù cho hai cộng đồng này liền kề nhau về lãnh địa.

Người dân làm nông nghiệp, xưa nay không thể thoát khỏi tư tưởng trông chờ sự may rủi của số phận, của thiên nhiên. Do vậy, tư duy kinh nghiệm và những niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng, những kiêng kỵ, hèm tục là sản phẩm tất yếu. Có thể nói, kiêng kỵ đã chứa đựng trong nó rất nhiều tri thức dân gian về mọi lĩnh vực trong cuộc sống và lao động nhằm mục đích bảo vệ, khuyến cáo con người khỏi những bất trắc và tạo ra nét văn hóa trong cộng đồng. Chình vì vậy, tín ngưỡng và kiêng kỵ đã trở thành một nét văn hoá không thể thiếu của cộng đồng người Việt.