Hồng Lâu Mộng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hồng Lâu Mộng (Chữ Hán phồn thể: 紅樓夢; Giản thể: 红楼梦; phiên âm: Hónglóu mèng nghĩa là "giấc mộng lầu hồng", "giấc mộng lầu son") hay Thạch Đầu Ký là một trong bốn kiệt tác (tứ đại kỳ thư) của văn học cổ điển Trung Quốc (3 kiệt tác kia là Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân và Thủy Hử của Thi Nại Am). Tác phẩm được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỷ 18 triều đại nhà Thanh của Trung Quốc.
Tiểu thuyết đã được dịch ra 20 thứ tiếng phổ biến trên thế giới như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Hy Lạp, tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên, tiếng Việt v.v.
Ở Trung Quốc, độc giả say mê Hồng Lâu Mộng đến nỗi khi ngồi vào bàn luận văn chương là phải đề cập đến nó đầu tiên và đã có những nhà nghiên cứu chuyên biệt về nó hình thành một bộ môn riêng Hồng học (Hồng Lâu Mộng học). Một ví dụ nhỏ, riêng các món ăn được chế biến rất cầu kỳ, như cách luộc trứng với nấm sao sao cho sau khi luộc xong bề ngoài quả trứng trông giống như ngọc đến nỗi một người họ xa từ quê lên thăm gia đình họ Giả lần đầu tiên được mời thưởng thức món ăn ăn này đã tưởng nhầm bằng ngọc, cũng đã làm nhiều người muốn học tập cách chế biến và thưởng thức.
Hồng Lâu Mộng cũng được dựng thành phim nhiều tập được công chiếu rộng rãi. Để làm phim Hồng Lâu Mộng, các đạo diễn đã phải tốn rất nhiều công sức tái tạo lại quang cảnh cung điện, lầu son, gác tía, hồ ngọc. Hiện nay phim trường này vẫn được nhiều người tham quan.
Mục lục |
[sửa] Tác giả
Xem thêm bài Tào Tuyết Cần
Tác giả của Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần (1715-1763) tên là Triêm, tên tự là Mộng Nguyễn, Cần Phố, hiệu là Tuyết Cần, Cần Khê, người Thẩm Dương, vốn dòng dõi người Hán, sau nhập tịch Mãn Châu. Ông sống trong triều đại phong kiến nhà Thanh của Trung Quốc. Họ Tào thuộc loại “hào môn vọng tộc” đời Thanh tại Giang Ninh thành. Ông nội và cha ông đã từng làm chức quan lớn phụ trách việc thu thuế, vì vậy gia đình từng trở thành cự phú. Ông nội Tào Dần còn là một nhà văn xuất sắc vùng Giang Ninh, đã từng in bộ Toàn đường thi nổi tiếng. Đến đời của Tào Tuyết Cần, tất cả sự giầu sang quyền quý của gia đình đã trở thành quá khứ. Gia đình ông bị mắc nạn, cha mắc tội, bị cách chức, hạ ngục, bị tịch biên tài sản. Ông đã sống trong những ngày cay đắng nhất của đời mình với cái nghèo, phải đi khắp nơi để mưu sinh. Mười năm cuối đời ông đã dồn toàn bộ trí lực để tạo nên kiệt tác Hồng Lâu Mộng, một trong những tác phẩm về sau được đánh giá là kinh điển của Văn học Trung Quốc. Tác phẩm đã được ông sửa chữa 5 lần trong cảnh cùng khốn, ốm đau không tiền mua thuốc, con chết. Khi ông còn sống tác phẩm đã không hoàn thành và không được công bố. Sau khi ông qua đời, hai mươi tám năm sau, Cao Ngạc đã dựa vào di thảo của ông để hoàn thành nốt bằng việc viết tiếp 40 hồi. Cao Ngạc cũng đổi tên "Thạch Đầu Ký" thành "Hồng Lâu Mộng" để phù hợp với nội dung tác phẩm. 40 chương sau của Hồng Lâu Mộng được Cao Ngạc viết tiếp không hay như 80 chương đầu vì ông không có được cái trải nghiệm đau đớn như Tào Tuyết Cần. Nhưng với 40 chương mang đến cho tác phẩm sự trọn vẹn, cho thấy họ Cao cũng là người đã sống với tác phẩm và đã nghiên cứu rất kỹ về văn phong của tác giả. Có lẽ ngoài Cao Ngạc không còn người nào viết tiếp Hồng Lâu Mộng hay hơn ông.
Đến khoảng 1792-1793 thì Hồng lâu mộng được in và lưu truyền khắp Trung Quốc. Người ta cho rằng cốt truyện dựa trên hiện thực của chính dòng họ, gia đình Tào Tuyết Cần trước đây, là chuỗi tự sự lớn nhất của đời ông, như là một sự nuối tiếc thời kỳ vàng son rực rỡ, đồng thời nó cũng phản ánh bản chất xã hội Phong kiến Trung Quốc giai đoạn ông sống. Như lời ông nói, ông viết nó không phải nhằm mục đích phê phán chế độ xã hội đương thời hay nhằm mục đích gì, ông chỉ viết để mang mục đích bày tỏ tâm sự của bản thân, giải tỏa nỗi niềm “cô phẫn” nên không có ý định xuất bản. Tuy nhiên ông đã tốn rất nhiều sinh lực và tâm huyết trong mười năm cuối cùng của cuộc đời, đến nỗi ông cũng phải thốt lên xem ra các chữ toàn bằng máu, cay đắng mười năm khéo lạ lùng.
[sửa] Cốt truyện
Tác phẩm xoay quanh câu chuyện tình duyên trắc trở giữa hai anh em con cô con cậu: Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, từ đó mô tả cuộc sống nhiều mặt của một đại gia đình quý tộc đời Thanh từ lúc cực thịnh cho đến lúc suy vi trong vòng tám năm.
Gia đình họ Giả vốn có nhiều công lao với triều đình, số lượng kẻ hầu người hạ có lúc lên tới 448 người, sống trong hai dinh cơ lớn chiếm quá nửa thành phố Kim Lăng. Dinh cơ người anh Giả Đại Hóa (đã chết) là Ninh quốc phủ. Chủ gia đình này là Giả Trân (vợ họ Vưu) và con là Giả Dung (vợ họ Tần). Dinh cơ người em Giả Đại Thiện (đã chết) là Vinh quốc phủ. Vợ Thiện là Giả mẫu (họ Sử) trở thành người cầm cân nảy mực của gia đình. Giả mẫu có ba con, con trưởng là Giả Xá (vợ là Hình phu nhân). Xá có con trai là Giả Liễn (vợ là Vương Hy Phượng). Em của Xá là Giả Chính (có vợ là Vương phu nhân). Giả Chính có ba người con, trong đó, một người mất sớm, Nguyên Xuân sau làm cung phi và Giả Bảo Ngọc là cậu ấm hai, niềm hi vọng của gia đình họ Giả. Giả Chính và Giả Xá còn có em gái lấy chồng xa, sinh ra Lâm Đại Ngọc. Bố mất sớm, Lâm Đại Ngọc được Giả mẫu đem về nuôi.
Trong Vinh quốc phủ còn có gia đình của Tiết Bảo Thoa đến ở nhờ do Tiết Bàn là anh trai của Tiết Bảo Thoa phạm tội giết người.
Vì con gái của Giả Chính được vua yêu phong là Nguyên phi nên để mỗi lần về nhà thăm cha mẹ, phủ Vinh quốc cho xây một khu vườn đẹp là Đại quan. Khu vườn Đại quan này chỉ dành cho 12 cô tiểu thư xinh đẹp của hai phủ Vinh và phủ Ninh lui tới vui chơi. Giả Bảo Ngọc là con trai duy nhất được lui tới và tìm được người tâm đầu ý hợp là Lâm Đại Ngọc. Nhưng mọi người trong gia đình không muốn cuộc hôn nhân này diễn ra. Lâm Đại Ngọc là người con gái xinh đẹp, nhạy cảm, hay thơ phú, yếu ớt và luôn có tư tưởng đi khỏi dòng chính thống. Cô cho rằng Bảo Ngọc không cần thi cử, làm quan; lánh xa công danh phú quý. Trong khi đó, Bảo Thoa, người con gái xinh đẹp, nết na, đảm đang lại luôn khuyến khích Bảo Ngọc học hành đỗ đạt để lọt vào tầm ngắm của các bậc huynh trưởng trong dòng họ. Lúc đầu, Bảo Ngọc còn phân vân trước tình yêu của Bảo Thoa; song dần dần, nhận thấy Bảo Thoa chỉ mong ngóng cái danh “lập thân”, nên Bảo Ngọc đã dành trái tim mình cho Lâm Đại Ngọc, mong muốn lấy nàng làm vợ. Gia đình họ Giả coi đó là một tai họa. Trong lúc thế lực của hai phủ họ Giả bị lung lay do mắc tội với triều đình, cả hai phủ đều bị phân li, kẻ chết người đi đày, trong một cố gắng cuối cùng nhằm cứu vãn gia tộc, Phượng Thư (chị dâu của Bảo Ngọc) đã đặt kế tráo hôn. Khi mở khăn che mặt cô dâu thấy không phải Đại Ngọc, Bảo Ngọc bỏ đi, về sau hóa thành đá. Lâm Đại Ngọc nghe tiếng pháo đám cưới của Bảo Ngọc, uất ức phát bệnh, ho ra máu mà chết. Kết thúc pho truyện là một khúc nhạc ai oán cho cuộc sống vương giả như mây tan bèo dạt, như một “giấc mộng trong chiếc lầu hồng” như một sự chiêm nghiệm về lẽ đời của họ Tào. Cũng có một kết thúc khác là Bảo Ngọc chấp nhận sống với Bảo Thoa, sinh được con trai nối dõi, chăm chỉ học hành thi đỗ cử nhân rồi xuất gia nhưng cái kết này không được độc giả yêu thích, cũng có thuyết cho là của người sau thêm vào.
[sửa] Ý nghĩa
Hồng lâu mộng là một bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Trung Quốc trên con đường suy tàn. Cái vẻ ngoài tôn nghiêm nề nếp không che đậy được thực chất mọt ruỗng của giới thượng lưu sống trong Giả phủ. Cuộc sống xa hoa, dâm ô cố hữu của giai cấp bóc lột và những mối quan hệ tàn nhẫn giữa họ với nhau đã đưa Giả phủ vào con đường tàn tạ không cứu vãn được. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc đời Thanh. Cái cảm giác “cây đổ vượn tan”, “chim mỏi về rừng” đã chi phối ngòi bút Tào Tuyết Cần, chứng tỏ ông là nhà văn hiện thực báo hiệu buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến. Với nhãn quan của một người dân chủ, nhà văn còn nhìn thấy những con người mới mang tư tưởng phản truyền thống. Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc chính là những đứa con “bất hiếu” của gia đình mình, họ chống quan niệm trọng nam khinh nữ truyền thống, chán ghét khoa cử công danh, theo đuổi một cuộc sống tự do, chống lại khuôn phép ràng buộc. Họ yêu nhau vì phản nghịch, càng phản nghịch họ càng yêu nhau. Đó là hồi âm của cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa tư tưởng dân chủ sơ khai và tư tưởng phong kiến.
[sửa] Xem thêm
- Tứ đại kỳ thư
- Hồng học