Tổng sản phẩm nội địa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Trong kinh tế, tổng sản phẩm nội địa hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ trong một khoảng thời gian nhất định , thường là một năm. Khi áp dụng cho phạm vi toàn quốc gia, nó còn được gọi là tổng sản phẩm quốc nội. Gần đây, trong các tài liệu thống kê mang tính nghiêm ngặt, thuật ngữ tiếng Anh National Gross Domestic Product- NGDP hay được dùng để chỉ tổng sản phẩm quốc nội, regional (hoặc provincial) gross domestic product hay dùng để chỉ tổng sản phẩm nội địa của địa phương. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó.

Đối với các đơn vị hành chính khác của Việt nam, thông thường ít khi dịch trực tiếp mà thường sử dụng từ viết tắt GDP hoặc tổng sản phẩm trong tỉnh/huyện v.v

Mục lục

[sửa] Phân biệt GDP với GNP

GDP khác với tổng sản phẩm quốc dân (GNP) ở chỗ loại bỏ việc chuyển đổi thu nhập giữa các quốc gia, nó được quy theo lãnh thổ mà sản phẩm được sản xuất ở đó hơn là thu nhập nhận được ở đó.

Để dễ hiểu hơn, ta có thể lấy ví dụ như sau: Một nhà máy sản xuất đồ ăn nhanh đặt tại Việt Nam do công dân Mỹ đầu tư để tiêu thụ nội địa. Khi đó mọi thu nhập từ nhà máy này sau khi bán hàng được tính vào GDP của Việt Nam, tuy nhiên lợi nhuận ròng thu được (sau khi khấu trừ thuế phải nộp và trích nộp các quỹ phúc lợi) cũng như lương của các công nhân Mỹ đang làm việc trong nhà máy được tính là một bộ phận trong GNP của Mỹ.

[sửa] GDP danh nghĩa và GDP thực tế

GDP danh nghĩa là một cách tính tổng sản phẩm nội địa theo giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo giá hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy giá của thời kỳ đó

GDPin=∑QinPin

Trong đó:

  • i: Biểu thị loại sản phẩm thứ i với i =1,2,3...,n
  • t: Biểu thị thời kỳ tính toán
  • Q: Số lượng sản phẩm từng loại mặt hàng; Qi: số lượng sản phẩm loại i
  • P: Giá của từng mặt hàng; Pi giá của sản phẩm thứ i.

Trong khi GDP danh nghĩa chỉ tổng số tiền chi phí cho GDP, thì GDP thực tế chỉ việc điều chỉnh lại của con số này vì những lý do như sự mất giá của đồng tiền để có thể ước lượng chuẩn hơn số lượng thực sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP. GDP thứ nhất đôi khi được gọi là "GDP tiền tệ" trong khi GDP thứ hai được gọi là GDP "giá cố định" hay GDP "điều chỉnh lạm phát" hoặc "GDP theo giá năm gốc" (Năm gốc được chọn theo luật định). Xem thực tế và danh nghĩa trong kinh tế học.

[sửa] Các thành phần của GDP

GDP có thể tính là tổng của các khoản tiêu dùng, hoặc tổng của các khoản chi tiêu, hoặc tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế. Về lý thuyết, dù theo cách tính nào cũng cho kết quả tính GDP như nhau. Nhưng trong nhiều báo cáo thống kê, lại có sự chênh lệch nhỏ giữa kết quả theo ba cách tính. Đó là vì có sai số trong thống kê.

Theo cách tính GDP là tổng tiêu dùng, các nhà kinh tế học đưa ra một công thức như sau:

GDP = C + I + G + NX

Trong đó:

  • C là tiêu dùng của tất cả các cá nhân (hộ gia đình) trong nền kinh tế.
  • I là đầu tư của các nhà kinh doanh vào cơ sở kinh doanh. Đây được coi là tiêu dùng của các nhà đầu tư. Lưu ý, đừng lẫn lộn điều này với đầu tư mang tính đầu cơ tích trữ vào thị trường chứng khoán và trái phiếu.
  • G là tổng chi tiêu của chính quyền (tiêu dùng của chính quyền). Quan hệ của phần này đối với các phần còn lại của GDP được mô tả trong lý thuyết khả dụng (có thể đem đi tiêu).
  • NX là "xuất khẩu ròng" của nền kinh tế. Nó bằng xuất khẩu (tiêu dùng của nền kinh tế khác đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế trong tính toán sản xuất) - nhập khẩu (tiêu dùng của nền kinh tế trong tính toán đối với các sản phẩm và dịch vụ do nền kinh tế khác sản xuất).

Ba thành phần đầu đôi khi được gọi chung là "nội nhu", còn thành phần cuối cùng là "ngoại nhu".

GDP theo cách tính tổng chi phí (lúc này không gọi là GDP nữa, mà gọi là tổng chi tiêu nội địa hay GDE (viết tắt của Gross Domestic Expenditure) được tính toán tương tự, mặc dù trong công thức tính tổng chi phí không kê khai những khoản đầu tư ngoài kế hoạch (bỏ hàng tồn kho vào cuối chu kỳ báo cáo) và nó phần lớn được sử dụng bởi các nhà kinh tế lý thuyết.

[sửa] Tính toán

[sửa] Mỹ

GDP được tính toán bởi Cục phân tích kinh tế (vt: BEA).

[sửa] Việt Nam

GDP được tính toán bởi Tổng cục thống kê dựa trên cơ sở các báo cáo từ các đơn vị, tổ chức kinh tế cũng như báo cáo của các Cục thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

[sửa] Lãi suất

Chi phí lãi suất ròng là thanh toán chuyển nhượng trong mọi khu vực ngoại trừ khu vực tài chính. Chi phí lãi suất ròng trong khu vực tài chính được coi như sản xuất và giá trị gia tăng, được tăng thêm vào GDP.

[sửa] So sánh xuyên quốc gia

GDP của các quốc gia khác nhau có thể so sánh bằng cách chuyển đổi giá trị của chúng (tính theo nội tệ) sang bằng một trong hai phương thức sau:

  • Tỷ giá hối đoái hiện tại: GDP được tính theo tỷ giá hối đoái thịnh hành trên các thị trường tiền tệ quốc tế.
  • Ngang giá sức mua hối đoái: GDP được tính theo sự ngang giá của sức mua (tiếng Anh: purchasing power parity hay viết tắt: PPP) của mỗi loại tiền tệ tương đối theo một chuẩn chọn lựa (thông thường là đồng đôla Mỹ).

Thứ bậc tương đối của các quốc gia có thể lệch nhau nhiều giữa hai xu hướng tiếp cận kể trên.

Phương pháp tính theo sự ngang giá của sức mua tính toán hiệu quả tương đối của sức mua nội địa đối với những nhà sản xuất hay tiêu thụ trung bình trong nền kinh tế. Nó có thể sử dụng để làm chỉ số của mức sống đối với những nước chậm phát triển là tốt nhất vì nó bù lại những điểm yếu của đồng nội tệ trên thị trường thế giới.

Phương pháp tính theo tỷ giá hối đoái hiện tại chuyển đổi giá trị của hàng hóa và dịch vụ theo các tỷ giá hối đoái quốc tế. Nó là chỉ thị tốt hơn của sức mua quốc tế của đất nước và sức mạnh kinh tế tương đối.

Cụ thể hơn, đề nghị xem Các chỉ số kinh tế.

[sửa] Các vấn đề

Mặc dù GDP được sử dụng rộng rãi trong kinh tế, giá trị của nó như là một chỉ số vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi. Sự phê phán sử dụng GDP bao hàm các điểm sau:

  • Kết quả tính GDP theo các phương thức khác nhau làm người ta bối rối, nhất là khi so sánh xuyên quốc gia.
  • GDP, như một chỉ số về kích cỡ của nền kinh tế, nhưng lại không chuẩn xác trong đánh giá mức sống.
  • GDP không tính đến kinh tế ngầm, kinh tế phi tiền tệ như kinh tế trao đổi, các công việc tình nguyện, chăm sóc trẻ em miễn phí do các ông bố bà mẹ (không làm việc) đảm nhiệm hay sản xuất hàng hóa tại gia đình. Vì vậy, tại các nước mà việc kinh doanh thực thi một cách không chính thức chiếm phần lớn thì số liệu của GDP sẽ kém chính xác.
  • GDP không tính đến tính hài hòa của sự phát triển. Ví dụ một nước có thể có tốc độ tăng trưởng GDP cao do khai thác khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên.
  • GDP tính cả những công việc không đem lại lợi ích ròng và không tính đến những hiệu ứng tiêu cực. Ví dụ, một xí nghiệp làm tăng GDP nhưng gây ô nhiễm một con sông và người ta phải đầu tư để cải tạo lại môi trường. Việc này cũng làm tăng GDP. Xem thêm Truyện ngụ ngôn về cửa sổ gẫy.
  • GDP cũng không cho ta sự phản ánh trung thực của sự phân chia lợi ích trong phạm vi đất nước. Có thể có những nhóm người không thu được lợi ích gì từ lợi ích kinh tế chung. GDP cao có thể là kết quả của một số người giàu có đem lại cho nền kinh tế trong khi phần lớn dân chúng sống dưới mức nghèo khổ.

Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng việc tìm một chỉ số khác thay thế GDP cũng rất khó khăn. Một sự thay thế được biết đến là Chỉ số tiến bộ thực sự (GPI) được cổ động bởi Đảng Xanh của Canada. GPI đánh giá chính xác như thế nào thì chưa chắc chắn; một công thức được đưa ra để tính nó là của Redefining Progress, một nhóm nghiên cứu chính sách ở San Francisco.

[sửa] Danh sách quốc gia theo GDP

[sửa] Xem thêm

  • Chỉ số giảm phát GDP
  • Tổng giá trị gia tăng
  • Các chỉ số kinh tế
  • GDP tự nhiên
  • Sự phát triển phi kinh tế
  • Giá trị gia tăng

[sửa] Tính toán

  • Phân loại sản phẩm theo hoạt động (CPA)
  • Tính toán gián tiếp các dịch vụ tài chính trung gian (FISIM)

[sửa] Các thành phố có GDP cao nhất thế giới

[sửa] Thành phố Tokyo

Với tổng diện tích 2155 km², dân số hơn 12 triệu người, Tokyo là một trong những thành phố có số dân đông nhất trên thế giới. Theo thông báo mới đây của Cơ quan Tài chính Nhật Bản cho biết thì GDP của thành phố Tokyo năm 2004 là 784,8 tỷ USD.

[sửa] Thành phố New York

Đây không chỉ là một trong những trung tâm tài chính của nước Mỹ, mà còn là một trong những trung tâm tài chính của thế giới. New York có diện tích 780 km², dân số vào khoảng 7 triệu người. GDP của thành phố New York năm 2004 ước đạt 407 tỷ USD.

[sửa] Thành phố London

Thành phố này chính là thủ phủ hành chính của nước Anh - một thành phố lớn với kết cấu nội London và ngoại London. Thủ đô London là một trong những trung tâm tài chính lớn của thế giới. Đây còn là một trong những trung tâm bảo hiểm hàng đầu của thế giới. Thành phố London có diện tích 1580 km², dân số hơn 7 triệu người. GDP của thành phố London năm 2004 ước đạt 284,7 tỷ USD.

[sửa] Thành phố Seoul

Thành phố Seoul có tổng diện tích 605 km², chiếm 0,61% tổng diện tích đất nước, với dân số khoảng 10,3 triệu người. Đây là thành phố đặc biệt nằm trong sự quản lý của Trung ương và là trung tâm về văn hóa, kinh tế, chính trị của Hàn Quốc.GDP của thành phố Seoul năm 2004 là 198 tỷ USD.

[sửa] Thành phố Los Angeles

Thành phố Los Angeles có diện tích 1200 km². Nơi đây có bãi biển tuyệt đẹp trải dài gần như khắp thành phố, cộng thêm 80 thị trấn và thị tứ khác với tổng diện tích lên tới 10567 km². Hiện nay, Los Angeles đang là một trong những trung tâm lớn nhất của nước Mỹ về các ngành công nghiệp hóa dầu, khoa học kỹ thuật, hải dương và hàng không vũ trụ ... Nơi đây, với những điều kiện lý tưởng nhất là nơi tập trung đông đảo nhất các nhà khoa học của nước Mỹ. GDP của thành phố Los Angeles năm 2004 là 196 tỷ USD.

[sửa] Thành phố Osaka

Thành phố Osaka có diện tích 204 km², dân số 3 triệu người. Xung quanh Osaka được bao bọc bởi 30 thành phố vệ tinh vì đây là một trong những khu trung tâm công nghiệp lớn nhất của Nhật Bản. GDP của thành phố Osaka năm 2004 là 191 tỷ USD.

[sửa] Thành phố Hong Kong

Thành phố Hong Kong có tổng diện tích 1103 km², dân số khoảng 6,8 triệu người. Đây là một trong những đặc khu hành chính của Trung Quốc và có tôc độ phát triển nhanh nhất khu vực Đông Á. Hong Kong là trung tâm thương mại lớn thứ 11, trung tâm ngân hàng lớn thứ 12, trung tâm ngoại hối đứng thứ 6 trên thế giới. GDP của thành phố Hong Kong năm 2004 là 164 tỷ USD.

[sửa] Thành phố Toronto

Thành phố Toronto có diện tích 632 km², dân số khoảng 4,3 triệu người. Đây là thành phố lớn, trung tâm kinh tế thương mại của Canada. Tiếp giáp với các thành phố phát triển của Mỹ, Toronto cũng có những ưu thế phát triển vượt trội với các ngành công nghiệp mũi nhọn như tài chính, công nghiệp ôtô, điện tử, ngân hàng ... GDP của thành phố Toronto năm 2004 là 141,9 tỷ USD.

[sửa] Liên kết ngoài

[sửa] Dữ liệu

Danh sách đầy đủ các quốc gia theo GDP: Purchasing Power Parity MethodCurrent Exchange Rate Method

[sửa] Các ấn phẩm liên quan

What's wrong with the GDP?
Limitations of GDP Statistics by Schenk, Robert.
whether output and CPI inflation are mismeasured, by Nouriel Roubini and David Backus, in Lectures in Macroeconomics
Ch. 22. Measuring the National Economy, by Dr. Roger A. McCain