Phan Huy Chú

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phan Huy Chú (chữ Hán: 潘輝注; 1782–1840) tự Lâm Khanh, thuở nhỏ có tên là Hạo sau đổi tên là Chú, là một danh sĩ triều nhà Nguyễn.

[sửa] Cuộc đời và sự nghiệp

Phan Huy Chú sinh ra ở xã Thụy Khê, huyện Yên Sơn (nay là huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây). Ông là con trai thứ ba của danh sĩ Phan Huy Ích người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Sau đó, Phan Huy Ích chuyển nhà ra Sài Sơn (Sơn Tây) định cư.

Ông đỗ 2 lần tú tài, người đương thời gọi ông là "kép Thầy", làm quan dưới triều vua Minh Mạng.

Năm Giáp Thân (1824), ông được cử làm phó sứ sang Trung Quốc. Năm Mậu Tí (1828), làm Phủ thừa tỉnh Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp Trấn Quảng Nam.

Năm Canh Dần (1830), ông lại đi sứ Trung Quốc. Lúc về ông và chánh sứ đều bị cách chức. Đến cuối năm này, ông dự vào phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba) tại Indonesia để lập công chuộc tội. Khi về vào cuối năm Quí Tị (1833) được bổ làm Tư vụ bộ Công. Chẳng bao lâu ông cáo bệnh xin về hưu, dạy học ở làng Thanh Mai, huyện Tiêu Phong, tỉnh Sơn Tây.

Ông là tác giả bộ bách khoa Lịch triều hiến chương loại chí (歷朝憲章類志) và nhiều tác phẩm khác. Ông được người đời suy tôn là nhà bác học, nhà văn hoá của dân tộc Việt Nam.

[sửa] Các tác phẩm chính

  • Lịch triều hiến chương loại chí
  • Hoàng Việt dư địa chí
  • Mai Phong du Tây thành dã lục
  • Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ Tàu)
  • Bình định qui trang
  • Hoa trình tục ngâm
  • Lịch đại điển yếu thông luận
  • Hải trình chí lược, hay còn gọi là Dương trình kí kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia)
  • Điều trần tứ sự tấu sở

[sửa] Liên kết ngoài