Nhật Bản

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mục từ Nhật dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Nhật (định hướng).
日本国
Nhật Bản Quốc
Quốc kỳ của Nhật Bản Quốc huy của Nhật Bản
(Quốc kỳ) (Quốc huy)
Khẩu hiệu quốc gia: 平和と進歩 (Hòa Bình và Tiến Bộ)
Quốc ca: Kimi Ga Yo (君が代)
Bản đồ với nước Nhật Bản được tô đậm
Thủ đô Tokyo

35°41′B 139°46′Đ

Thành phố lớn nhất Yokohama ¹
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Nhật
Chính phủ
 • Thiên hoàng

 • Nội các tổng lí đại thần
   (Thủ tướng)
Quân chủ lập hiến
Akihito
(明仁 Minh Nhân)
Abe Shinzo
(安倍 晋三 An Bội Tấn Tam)
Độc lập
 • Hiến pháp áp dụng
 • Hiệp ước được ký
 • Chủ quyền
Từ lực lượng Đồng Minh
Ngày 3 tháng 5, 1947
Tháng 9 năm 1951
Ngày 28 tháng 4, 1952
Diện tích
 • Tổng số
 • Nước (%)
 
377.835 km² (hạng 60)
0,8%
Dân số
 • Ước lượng
 • Thống kê dân số 2005
 • Mật độ
 

127.417.244
337 người/km²
HDI (2005) 0,949 (hạng 7) – cao
GDP (2006)
 • Tổng số (PPP)
 • Trên đầu người (PPP)
 
4.167 tỷ Mỹ kim (hạng 3)
35.757 đô la (hạng 14)
Đơn vị tiền tệ Yên (¥, 円 (Yên), JPY)
Múi giờ
 • Quy ước giờ mùa hè
JST (UTC+9)
Không áp dụng
Tên miền Internet .jp
Mã số điện thoại +81
¹ Tokyo là một tỉnh, chứ không phải là thành phố. Nói chính xác hơn, Khu vực Đại Tokyo là khu vực đô thị lớn nhất, và Yokohama là thành phố lớn nhất.

Nhật Bản (tiếng Nhật: 日本国 Nihon-koku/Nippon-koku; Hán-Việt: Nhật Bản quốc; chữ Bản 本 trong các văn bản cũ cũng được đọc là Bổn), cũng được gọi tắt là Nhật, là tên của một quốc gia hải đảo hình vòng cung, có diện tích tổng cộng là 377.834 km² nằm xoải theo bên sườn phía đông lục địa châu Á. Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt. Nước Nhật có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido (北海道), Honshu (本州), Shikoku (四国) và Kyushu (九州) cùng hàng ngàn đảo nhỏ chung quanh.

Mục lục

[sửa] Tên nước

Tên "Nhật Bản" viết theo chữ cái Latinh (Romaji) là Nihon hoặc Nippon (đọc là "Ni-hôn" hoặc "Níp-pôn"); theo chữ Hán hai chữ "Nhật Bản" có nghĩa là "gốc của Mặt Trời" và như thế, được hiểu là "xứ Mặt Trời mọc".

Nhật Bản còn có các mĩ danh là "xứ sở hoa anh đào", vì cây hoa anh đào (桜 sakura) mọc trên khắp nước Nhật từ Bắc xuống Nam, những cánh hoa "thoắt nở thoắt tàn" được người Nhật yêu thích, phản ánh tinh thần nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống và chết đều quyết liệt của dân tộc họ; "đất nước hoa cúc" (xin xem: Hoa cúc và thanh kiếm, của Ruth Benedict, nhà dân tộc học người Mỹ năm 1946) vì bông hoa cúc 16 cánh giống như mặt trời đang tỏa chiếu là biểu tượng của hoàng gia và là quốc huy Nhật Bản hiện nay; "đất nước mặt trời mọc", vì Nhật Bản là quốc gia ở vùng cực đông, tổ tiên của họ là nữ thần mặt trời Amaterasu (天照, Thái dương thần nữ).

Vào thế kỷ thứ 4, Nhật Bản đã lấy tên nước là Yamato. Còn người Trung Quốc từ trước công nguyên đã gọi Nhật là Nụy quốc (倭国), người Nhật là Nụy nhân (倭人), những tên cướp biển trên biển Đông Trung Hoa thời MinhNụy khấu (倭寇). Do thời đó người Nhật chưa có chữ viết riêng nên Yamato được viết bằng chữ Hán 倭. Sau này, người Nhật dùng hai chữ Hán là 大和 (Đại Hòa) để biểu ký âm Yamato, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.

Nhật Bản còn được gọi là Phù Tang (扶桑). Cây phù tang, tức một loại cây dâu. Theo truyền thuyết cổ phương Đông có cây dâu rỗng lòng gọi là Phù Tang hay Khổng Tang, là nơi thần mặt trời nghỉ ngơi trước khi cưỡi xe lửa du hành ngang qua bầu trời từ Đông sang Tây, do đó Phù Tang hàm nghĩa văn chương chỉ nơi mặt trời mọc.

Năm 670, năm đầu niên hiệu Hàm Hanh (670-674) nhà Đường (vua Đường Cao Tông), Nhật Bản gửi một sứ bộ đến chúc mừng triều đình Trung Quốc nhân dịp vừa bình định Cao Ly (Triều Tiên) và từ đó được đổi tên là Nhật Bản.

[sửa] Lịch sử

Xem chi tiết: Lịch sử Nhật Bản
  • Từ 15.000 năm trước công nguyên, ở Nhật Bản đã có con người sinh sống.
  • Từ 13.000 năm trước CN, người Nhật đã biết trồng lúa, làm đồ gốm, sống định cư.
  • Từ 300 năm trước CN đã sử dụng đồ kim khí.
  • Từ thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI, những nhà nước đầu tiên xuất hiện. Đạo Shinto phát triển khắp cả nước. Nước Nhật bắt đầu có tên gọi là Yamato.
  • Từ thế kỷ VI đến đầu thế kỷ VIII, một nhà nước tập quyền được thành lập và đóng đô ở Asuka (gần thành phố Nara ngày nay). Tên nước từ Yamato đổi thành Nhật Bản.
  • Giữa thế kỷ VIII, đạo Phật đã thiết lập cơ sở vững chắc ở Nhật Bản.
  • Từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XII, các dòng họ quý tộc hùng mạnh ở Heian thay nhau nắm sức mạnh chính trị của đất nước, lấn át quyền lực của Hoàng đế. Cuối thời này, tầng lớp võ sĩ bắt đầu hình thành và tranh giành quyền lực với các dòng tộc quý tộc.
  • Cuối thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIV, quyền lực thực sự nằm trong tay tầng lớp võ sĩ ở Kamakura. Vào các năm 1271 và 1281, các võ sĩ Nhật Bản với sự trợ giúp của bão và sóng thần đã đánh bại hải quân Mông Cổ định xâm lược nước mình.
  • Từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XVI, nước Nhật trong tình trạng mất ổn định do nội chiến và chia rẽ. Nhật Bản cũng từng xâm lược bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ này.
  • Sau đó, nước Nhật có một thời kỳ bế quan tỏa cảng ổn định kéo dài ba thế kỷ dưới sự cai trị của các tướng quân Tokugawa. Kinh tế, văn hóa và kỹ thuật có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Người phương Tây khởi đầu là Hà Lan được phép giao thương với Nhật Bản thông qua một thương cảng nhỏ.
  • Giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản mở cửa triệt để với phương Tây. Quyền lực của các Shogun và các daimyo bị bãi bỏ và được tập trung tối cao trong tay Thiên Hoàng. Công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ, đất nước phát triển, xâm lược Đài Loan, chiến tranh với Nga, xâm lược Triều Tiên.
  • Trong Thế chiến thứ nhất, Nhật Bản đứng về phe đồng minh. Sang Thế chiến thứ hai, đứng về phe trục. Lần đầu tiên trong lịch sử, vào năm 1945, Nhật Bản thất bại và phải chịu sự "đô hộ" của nước ngoài.
  • Sau chiến tranh, Nhật Bản tập trung phát triển kinh tế nhanh chóng. Cuối thập niên 60 Nhật Bản hoàn thành công cuộc công nghiệp hóa, trở thành một nước tư bản phát triển. Manh nha những dấu hiệu đình trệ kinh tế đầu tiên sau khủng hoảng dầu lửa đầu thập niên 70.
  • Bước vào thế kỷ 21, Nhật Bản ưu tiên hơn đến những chính sách quốc gia để gia tăng vị thế về chính trị và quân sự trên trường quốc tế. Nâng cấp Cục phòng vệ quốc gia thành Bộ quốc phòng vào tháng 1 năm 2007.

[sửa] Địa lý Nhật Bản

Xem chi tiết: Địa lý Nhật Bản

Nhật Bản có diện tích tổng cộng là 377.834 km². Đất đai của Nhật Bản là một dãy hải đảo trải theo hình vòng cung bên cạnh phía Đông của lục địa Châu Á, dài 3.800 km. Địa hình chủ yếu là đồi núi (71%). Có nhiều núi nguồn gốc núi lửa, một số ngọn vẫn còn hoạt động, tiêu biểu là núi Phú Sĩ (Fuji) (3.776 m).

Nhật Bản có hơn 3.900 hòn đảo nhỏ và 4 đảo lớn là đảo Honshu (本州) chiếm khoảng 60% toàn thể diện tích, đảo Hokkaido (北海道), đảo Kyushu (九州) và đảo Shikoku (四国). Trong số các hòn đảo nhỏ, đảo Okinawa (沖縄) là lớn nhất và quan trọng nhất, nằm giữa đường kéo dài từ mỏm phía cực tây của đảo Honshu tới đảo Đài Loan. Hòn đảo Okinawa này tuy thuộc về Nhật Bản nhưng trước kia do ở khá xa phần đất chính nên đã phát triển được một thứ văn hóa riêng và một số điểm khác biệt với nếp sống của bốn hòn đảo lớn.

Sóng thần, động đất, núi lửa, bão nhiệt đới khá phổ biến ở Nhật Bản. Đặc biệt, do thuộc vành đai lửa Thái Bình Dương, Nhật Bản là một trong những vùng có nhiều động đất nhất thế giới. Mỗi năm có hàng trăm dư chấn, có những trận động đất gây tổn thất nặng nề.

Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa xuân với hoa anh đào nở dần từ nam lên bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá phong (momizi) đỏ thắm từ bắc xuống nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi. Ngọn Núi Phú Sĩ(Fujisan) cao nhất Nhật Bản, nằm giữa đồng bằng, lại có tuyết bao phủ nơi phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ xứ Phù Tang cũng như của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương.

[sửa] Văn hoá Nhật Bản

Xem chi tiết: Văn hoá Nhật Bản
Hạc Nhật Bản (Grus japonensis). Loại hạc (タンチョウ tancho) rất đẹp này của hòn đảo Hokkaido đã từng làm đề tài cho các bức danh họa nhiều thế kỷ trước, nay đã bị tuyệt chủng
Hạc Nhật Bản (Grus japonensis). Loại hạc (タンチョウ tancho) rất đẹp này của hòn đảo Hokkaido đã từng làm đề tài cho các bức danh họa nhiều thế kỷ trước, nay đã bị tuyệt chủng

Cho đến nay người ta vẫn chưa chắc chắn về xuất xứ và thời gian xuất hiện của những cư dân đầu tiên trên quần đảo Nhật Bản. Tuy nhiên, hầu hết các học giả đều cho rằng người Nhật đã có mặt tại quần đảo từ xa xưa và định cư liên tục từ đó cho đến thời nay. Những phát hiện trong nghiên cứu cổ vật, xương đã củng cố thêm sự nghi ngờ đối với thuyết trước kia cho rằng người Nhật là con cháu của những người xâm chiếm đến sau "thổ dân" Ainu và đã đẩy bộ tộc này ra khỏi quần đảo. Ngày nay, người ta tin rằng tổ tiên của người Nhật là những người đã làm nên đồ gốm mang tên Jomon. Những người này được biết là đã có mặt trên quần đảo ít nhất từ năm 5000 TCN, sau đó theo thời gian, pha trộn với các giống người khác, phát triển qua lịch sử thành dân tộc Nhật Bản ngày nay.

Ngôn ngữ và phong tục của người Nhật gồm những thành tố văn hoá của cả phương Bắc lẫn phương Nam. Dưới góc độ sử dụng và cú pháp, rõ ràng tiếng Nhật thuộc hệ ngôn ngữ Altai của các dân tộc phía Bắc lục địa châu Á, song trong từ vựng lại có nhiều từ gốc từ phía Nam. Trong các tập quán và tín ngưỡng, ta thấy các lễ nghi gắn với văn hóa lúa nước vốn có nguồn gốc ở phía Nam; còn huyền thoại lập nước bởi vị thần - ông tổ của nòi giống - từ thiên đường xuống hạ giới thì có nguồn gốc ở phía Bắc. Vì vậy, người ta cho rằng dân cư ở đây có xuất xứ từ cả phương Bắc lẫn phương Nam, đến quần đảo Nhật Bản từ thời tiền sử và qua một quá trình hoà trộn các chủng tộc dần dần tạo ra dân tộc Nhật Bản.

[sửa] Chính trị Nhật Bản

Xem chi tiết: Chính trị Nhật Bản
Hoa Anh Đào (桜; Prunus). Nhật Bản có mĩ danh là xứ sở hoa Anh Đào, vì người Nhật rất thích nên trồng cây hoa anh đào khắp nước
Hoa Anh Đào (桜; Prunus). Nhật Bản có mĩ danh là xứ sở hoa Anh Đào, vì người Nhật rất thích nên trồng cây hoa anh đào khắp nước

[sửa] Hiến pháp

Xem chi tiết: Hiến pháp Nhật Bản

Hiến pháp của nước Nhật Bản, được công bố vào ngày 3 tháng 11 năm 1946 và có hiệu lực kể từ ngày 3 tháng 5 năm 1947, quy định rằng nhân dân Nhật Bản thề nguyện trung thành với các lý tưởng hòa bình và trật tự dân chủ.

[sửa] Hoàng gia Nhật Bản

Xem chi tiết: Hoàng gia Nhật Bản
Đứng (trái sang phải): Công chúa Norinomiya Sayako, Hoàng tử Akishinonomiya Fumihito, Vương phi Kiko. Ngồi (trái sang phải): Vương phi Masako, Nhật Hoàng Akihito, Công chúa Mako, Công chúa Mako Kako, Hoàng hậu Michiko, Thái tử Naruhito
Đứng (trái sang phải): Công chúa Norinomiya Sayako, Hoàng tử Akishinonomiya Fumihito, Vương phi Kiko.
Ngồi (trái sang phải): Vương phi Masako, Nhật Hoàng Akihito, Công chúa Mako, Công chúa Mako Kako, Hoàng hậu Michiko, Thái tử Naruhito

Hoàng đế của Nhật Bản hiện nay là Nhật hoàng Akihito (người Nhật gọi Hoàng đế Nhật Bản là Thiên Hoàng 天皇), sinh ngày 23 tháng 12 năm 1933 tại Tokyo, lên ngôi ngày 7 tháng 1 năm 1989. Vị thiên hoàng trước đó, cố Nhật hoàng Showa là Nhật hoàng trị vì lâu dài nhất, 62 năm và cũng sống lâu nhất, 87 tuổi, trong lịch sử của nước Nhật.

Nhật hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko có 3 người con (hai trai và một gái). Thái tử Naruhito sinh ngày 23 tháng 2 năm 1960, đã kết hôn với cô Masako và có một con gái. Hoàng tử Akishono có hai con gái và một con trai. Theo Hiến pháp Nhật Bản, chỉ nam giới mới được thừa kế ngai vàng.

[sửa] Cơ quan lập pháp

Tổng Thống Bush phát biểu tại Quốc hội Nhật Bản
Tổng Thống Bush phát biểu tại Quốc hội Nhật Bản

Quốc hội Nhật Bản (国会 Kokkai) là cơ quan lập pháp cao cấp nhất, gồm có Hạ viện (衆議院 shugi-in - Chúng nghị viện) với 512 ghế và Thượng viện (参議院 – sangi-in - Tham nghị viện) với 252 ghế. Dân biểu Hạ viện có nhiệm kỳ 4 năm nhưng hạn kỳ này có thể bị chấm dứt nếu Quốc hội bị giải tán. Hạ viện được bầu ra từ 130 đơn vị bầu cử với số nghị viên từ 2 tới 6 vị tùy theo dân số. Nhiệm kỳ của Thượng viện là 6 năm, mỗi 3 năm được bầu lại một nửa. 100 Thượng nghị sĩ được bầu theo sự đại diện tỉ lệ (proportional representation) tức là do các cử tri toàn quốc, số còn lại 152 ghế được bầu từ 47 đơn vị bầu cử tỉnh. Hạ viện có quyền bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm Nội các, đây là một quyền lực chính trị quan trọng nhất của nền chính trị đại nghị. Các công dân Nhật Bản trên 25 tuổi đều có quyền ứng cử Dân biểu và trên 30 tuổi có thể tranh cử ghế Thượng viện. Quyền được thực hiện phổ thông đầu phiếu thuộc về mỗi người dân nam nữ trên 20 tuổi.

[sửa] Các đảng phái chính trị

Nhật Bản là quốc gia có chính quyền đa đảng phái. Những đảng phái chính trị lớn gồm có:

  • Đảng Tự do Dân chủ Nhật Bản (LDP; 自由民主党)
  • Đảng Dân chủ Nhật Bản (JDP; 民主党)
  • Đảng Komei (NKP; 公明党 Công Minh)
  • Đảng Xã hội Dân chủ Nhật Bản (JSP; 社会民主党)
  • Đảng Cộng sản Nhật Bản (JCP; 日本共産党)

Để biết thêm chi tiết, xin đọc bài Đảng phái Nhật Bản.

[sửa] Các cơ quan Hành pháp và Tư pháp

Quyền hành pháp được giao cho Nội các, gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng, tất cả chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội. Thủ tướng phải là một nghị viên của Quốc hội và được Quốc hội bổ nhiệm, có quyền chỉ định và bãi nhiệm các bộ trưởng, các vị sau này phải là dân sự và phần lớn là nghị viên Quốc hội.

Vào tháng 3 năm 1992, Nhật Bản có 12 bộ và 32 cơ quan (agency) với Văn phòng Thủ tướng, 1,17 triệu công chức kể cả 240 ngàn nhân viên thuộc Lực lượng Tự vệ (自衛隊, sách báo Việt Nam quen gọi là Lực lượng Phòng vệ). Ngoài ra còn có Hội đồng Kiểm toán (the Board of Audit) chịu trách nhiệm thanh tra các tài khoản quốc gia.

Nhật Bản được chia làm 47 tỉnh. Tỉnh lại được chia làm các hạt.

Cơ quan tư pháp gồm Tối cao Pháp viện, 8 tòa án cao cấp và các tòa án địa phương, tòa án gia đình. Tối cao Pháp viện gồm Chánh án được Thiên hoàng Nhật Bản bổ nhiệm và 14 vị Thẩm phán do Nội các chọn. Tất cả các vụ án đều được xét xử công khai, nhất là các vụ vi phạm chính trị, báo chí và nhân quyền.

[sửa] Kinh tế

Xem chi tiết: Kinh tế Nhật Bản

Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973). Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có nền kinh tế-công nghiệp-tài chính thương mại-dịch vụ-khoa học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ), GDP trên đầu người là 36.217 USD (1989). Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị tiền tệ là: đồng yên Nhật.

Nhật Bản đang xúc tiến 6 chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu chính phủ... Cải cách hành chính của Nhật được thực hiện từ tháng 1 năm 2001. Dù diễn ra chậm chạp nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ đạo, trở thành xu thế không thể đảo ngược ở Nhật Bản và gần đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế Nhật đã phục hồi và có bước tăng trưởng năm 2003 đạt trên 3%, quý I/2004 đạt 6%.

[sửa] Quốc phòng

Hiện nay lực lượng phòng vệ (quân đội) của Nhật Bản có 18 vạn người, trong đó lực lượng hải quân mạnh nhất. Với ngân sách 50 tỉ USD/năm (kể cả chi phí cho quân đội Mỹ ở Nhật Bản), chi phí quân sự của Nhật Bản đứng hàng thứ ba sau MỹNga. Từ năm tài khoá 2002, ngân sách quốc phòng Nhật đã vượt con số 1% GDP, vươn lên hàng thứ hai trên thế giới.

Hướng phát triển quân đội Nhật Bản chủ yếu tập trung vào giảm quân số nhưng tăng chất lượng, trang thiết bị, tăng khả năng cơ động, mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng phòng vệ Nhật Bản, tăng cường hợp tác với Mỹ, đồng thời đẩy nhanh các biện pháp củng cố an ninh, phòng ngừa, công khai về quốc phòng qua các hoạt động, diễn đàn chung về an ninh, giải trừ quân bị; trao đổi quân sự với các nước trong ngoài khu vực.

Nhân sự kiện khủng bố 11/9, Chính phủ và Quốc hội Nhật đã thông qua 3 luật chống khủng bố gồm: Luật đặc biệt chống khủng bố, Luật sửa đổi Lực lượng phòng vệ và Luật sửa đổi Cục bảo an trên biển, cho phép Nhật lần đầu tiên sau Thế chiến thứ hai được phép cử quân đội ra nước ngoài, hợp tác với Mỹ chống khủng bố. Nhật Bản đã đưa 600 binh sĩ sang Iraq thực hiện các hoạt động nhân đạo. Đây là bước chuyển mới trong chính sách quốc phòng của Nhật, từng bước tăng cường và mở rộng phạm vi hoạt động của Lực lượng phòng vệ.

Tháng 1 năm 2007, Quốc hội Nhật Bản thông qua quyết định thành lập Bộ Phòng vệ trên cơ sở Cục Phòng vệ trước đây, là bước tiến mới theo hướng giải thích lại hiến pháp và cho phép Nhật phòng thủ tập thể, đưa quân ra nước ngoài trong các chiến dịch giữ gìn hoà bình, giải quyết các xung đột khu vực.

[sửa] Chính sách đối ngoại

Hoàng Cung Nhật Bản
Hoàng Cung Nhật Bản

Từ sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản bước vào thời điểm bước ngoặt điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường tính độc lập, chủ động và tích cực hơn nhằm vươn lên thành cường quốc chính trị tương xứng với sức mạnh kinh tế, phát huy vai trò, và ảnh hưởng trên thế giới và vùng Châu Á - Thái Bình Dương. Theo đó, chính sách đối ngoại được triển khai theo 5 hướng cơ bản là:

  • Giải quyết hòa bình các cuộc xung đột khu vực.
  • Giải trừ quân bị và không phổ biến vũ khí hạt nhân.
  • Duy trì phát triển kinh tế thế giới.
  • Hợp tác với các nước đang phát triển và các nước đang trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế.
  • Giải quyết các vấn đề toàn cầu.

Mặc dù vẫn lấy quan hệ Nhật-Mỹ làm nền tảng chính sách đối ngoại, song gần đây Nhật Bản tăng cường chiến lược "Trở lại châu Á", phát huy vai trò người đại diện cho châu Á trong Khối G8, lấy châu Á làm bàn đạp để từng bước đưa Nhật Bản trở thành cường quốc về chính trị; thúc đẩy cải cách Liên Hiệp Quốc, thực hiện mục tiêu trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua các đề nghị, các đóng góp cụ thể trong các lĩnh vực an ninh, kinh tế và các vấn đề toàn cầu (Nhật Bản hiện là thành viên không thường trực nhiệm kỳ 2004-2004). Tuy nhiên còn một số hạn chế cơ bản: nội bộ chưa thống nhất, còn nhiều tranh cãi; hạn chế về hiến pháp và các luật lệ trong nước; bị kiềm chế bởi các cường quốc khác. Chính quyền mới của Koizumi đang thăm dò khả năng sửa đổi hiến pháp, cho phép Nhật có quân đội và quyền tự vệ tập thể. Tuy nhiên điều này sẽ gây phản ứng mạnh từ các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc, Hàn Quốc...

Nhìn toàn cục, ở chừng mực nhất định, vai trò quốc tế của Nhật Bản đã được cải thiện hơn; vị thế của Nhật Bản đã được coi trọng hơn trong một số vấn đề quốc tế và khu vực như WTO, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ARF, ASEM, UNHCR, G8, Ủy ban sông Mê Kông, ADB, PKO... Dư luận chung tỏ đồng tình với việc Nhật Bản cần có vai trò to lớn hơn, đặc biệt trong những vấn đề kinh tế và các vấn đề toàn cầu vì Nhật Bản có ưu thế về tài chính.

[sửa] Quan hệ với Việt Nam

  • Từ thế kỷ 16 đã có những thương gia Nhật Bản đến sinh sống và buôn bán tại Việt Nam. Những thương gia Nhật Bản cùng cộng đồng dân cư bản xứ đã hình thành nên khu đô thị Hội An sầm uất.
  • Đầu thế kỷ 20, phong trào Đông Du đã đưa một số thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập đường hướng cải cách nhằm văn minh hóa đất nước, tìm con đường giải phóng Tổ quốc khỏi ngoại bang.
  • Trong Đệ nhị thế chiến, Nhật Bản từng xâm lược Việt Nam, hất cẳng Pháp để lập chính phủ thân Nhật.
  • Trong Chiến tranh Việt Nam lần thứ hai, Nhật Bản có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam Cộng hòa và có quan hệ thương mại không chính thức với Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
  • Ngày 21 tháng 9 năm 1973, Việt Nam Dân chủ cộng hòa và sau này là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ ngoại giao chính thức với Nhật Bản.
  • Năm 2002, Lãnh đạo cấp cao hai nước thống nhất xây dựng quan hệ Việt Nam-Nhật Bản theo phương châm "đối tác tin cậy, ổn định lâu dài". Trong chuyến thăm Việt Nam 7/2004 của Ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã ký Tuyên bố chung "Vươn tới tầm cao mới của đối tác bền vững".

[sửa] Đọc thêm

  • Phạm Thu Giang Phúc Ông tự truyện - Fukuzawa Yukichi, Nxb Lý luận Chính trị và Sách Alpha, 2005

[sửa] Liên kết ngoài

Giúp học tiếng Nhật

Tiếng Việt

Tiếng Nhật

Tiếng Anh

Cộng đồng thanh niên sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản


Các nướcĐông Á
Trung Quốc (CHNDTH) | Nhật Bản | Triều Tiên | Hàn Quốc | Đài Loan (THDQ)
Các khu hành chính đặc biệt của CHNDTH: Hồng Kông | Ma Cao


Các nướcchâu Á

Afghanistan | Ai Cập | Armenia1 | Azerbaijan1 | Ả Rập Xê Út | Ấn Độ | Bahrain | Bangladesh | Bhutan | Bờ Tây2 | Brunei | Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất | Campuchia | Dải Gaza2 | Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)4 | Đông Timor | Gruzia1 | Hàn Quốc | Hồng Kông3 | Indonesia | Iran | Iraq | Israel | Jordan | Kazakhstan1 | Kuwait | Kyrgyzstan | Lào | Liban | Ma Cao3 | Malaysia | Maldives | Mông Cổ | Myanma | Nepal | Nga1 | Nhật Bản | Oman | Pakistan | Palestin | Philippines | Qatar | Singapore | Síp1 | Sri Lanka | Syria | Tajikistan | Thái Lan | Thổ Nhĩ Kỳ1 | Triều Tiên | Trung Quốc | Turkmenistan | Uzbekistan | Việt Nam | Yemen

1. Thường gắn với châu Á về mặt địa lý, tuy nhiên cho là thuộc Châu Âu về mặt văn hóa và lịch sử. 2. Lãnh thổ do Israel kiểm soát, Chính quyền Palestin quản lý. 3. Khu hành chính đặc biệt của CHNDTH. 4. Xem thêm: Vị thế chính trị Đài Loan
Các thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc Cờ Liên Hiệp Quốc
5 thành viên thường trực
Hoa Kỳ - Nga - Pháp - Trung Quốc - Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Các thành viên sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào 31 tháng 12, 2006
Argentina - Đan Mạch - Hy Lạp - Nhật Bản - Tanzania
Các thành viên sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào 31 tháng 12, 2007
CH Congo - Ghana - Peru - Qatar - Slovakia



Ngôn ngữ khác