Lục bộ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Lục bộ là sáu cơ quan chính trong tổ chức triều đình phong kiến ngày trước. Từ đời Lê Nghi Dân (1459) triều đình nước Việt được tổ chức dựa theo hệ thống của Trung Hoa.

Quan văn, quan võ được xếp theo 6 bộ:

  1. Bộ Lại
  2. Bộ Lễ
  3. Bộ Hộ
  4. Bộ Binh
  5. Bộ Hình
  6. Bộ Công

Đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng thư, theo sau là tả hữu Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang và Tư vụ.


Mục lục

[sửa] Bộ Lại

Bộ Lại coi việc ban thưởng những người có công trạng cho triều đình.

[sửa] Những quan bộ Lại danh tiếng

  • Nguyễn Cư Trinh (1716 - 1767): Danh thần đời Nguyễn Phúc Khoát, quê Thừa Thiên, Huế. Văn võ song toàn, đỗ hương cống, làm quan Thượng thư Bộ Lại. Nhiều lần cầm binh đánh dẹp, khai hoang lập ấp, phát triển bờ cõi phía Nam, lập công lớn trong việc chiêu dụ, mở nước, an dân. Ông rất được trọng vọng bởi am tường chính trị, doanh điền, ngoại giao, có bản tính liêm khiết và phong thái tao nhã. Thơ văn ông còn truyền tụng nhiều, cả chữ Hán lẫn chữ Nôm, độc đáo nhất là Độc Am thi tập và bài vè 340 câu Sãi vãi.[1]

[sửa] Bộ Lễ

Bộ Lễ tổ chức và kiểm soát vấn đề thi cử chọn người tài ra giúp triều đình .

[sửa] Những quan bộ Lễ danh tiếng

  • Nguyễn Sư Mạnh đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời Lê Thánh Tông. Được bổ làm quan Thượng thư Bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu, cử đi sứ Trung Quốc năm 1500.[2]
  • Phạm Gia Mỗ (1476 - 1548): Văn thần thời Lê sơ và Mạc, quê Hải Dương. Giỏi ứng biến, nhiều mưu lược, đỗ tiến sĩ năm 1505, làm quan Thượng thư Bộ Lễ. Nhà Lê suy yếu, ông kết thông gia và ngầm giúp đỡ Mạc Đăng Dung lộng quyền, đảo chính, lập ra nhà Mạc, nên được thăng tới chức Thái sư (Tể tướng). Ông nổi tiếng bởi bản tính hoạt bát và tác phong quyết đoán. [1]
  • Phan Huy Vịnh (1800 - 1870): Danh sĩ đời Tự Đức, quê Hà Tĩnh. Đỗ cử nhân năm 1828, làm quan Thượng thư Bộ Lễ. Am hiểu văn hoá, có tài thi ca, lại từng hai lần đi sứ Trung Quốc, ông để lại nhiều bài thơ du ký rất hay và bản dịch Tỳ bà hành (của Bạch Cư Dị) được coi là tác phẩm dịch thuật thành công nhất của văn học Việt Nam.[1]

[sửa] Bộ Hộ

Bộ Hộ coi về kinh tế.

[sửa] Những quan bộ Hộ danh tiếng

  • Nguyễn Tông Khuê (1692 - 1766): Danh thần thời Lê Mạt, quê Thái Bình. Rất giỏi văn chương, đỗ tiến sĩ năm 29 tuổi, làm quan đến Thị lang Bộ Hộ và từng hai lần thống lĩnh đoàn đi sứ Trung Quốc. Khảng khái, cương trực và tài hoa, ông được sĩ phu đương thời ngưỡng mộ, đánh giá là một trong bốn người giỏi nhất kinh đô (Tràng An tứ hổ).[1]

[sửa] Bộ Binh

Bộ Binh là bộ võ, coi việc quân sự.

[sửa] Bộ Hình

Bộ Hình coi việc đặt luật lệ và các phép trị tội.

[sửa] Những quan bộ Hình danh tiếng

  • Lê Trọng Thứ (1704 - 1783). Danh sĩ thời Lê Mạt, quê Thái Bình. Nổi tiếng văn thơ, giỏi việc chính trị, đỗ đồng tiến sĩ năm 1724, làm quan Thượng thư Bộ Hình. Thông thái, nhiệt tình, giao lưu rộng, ông được sĩ phu khắp nơi quý mến. Ông là cha của nhà bác học thiên tài Lê Quý Đôn.[1]

[sửa] Bộ Công

Bộ Công coi việc xây dựng.

[sửa] Những quan bộ Công danh tiếng

  • Phạm Thiệu (1512 - 1584): Văn thần thời nhà Mạc, quê Bắc Ninh. Đỗ hoàng giáp năm 1553, làm quan Thượng thư Bộ Công. Nổi tiếng văn thơ, lão luyện chính trị, ông giúp nhà Mạc đắc lực trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, mở mang văn hoá và phát triển giáo dục. [1]

[sửa] Xem thêm

Ngoài những bộ điều hành trên, triều đình còn có những cơ quan chuyên trách như:

  1. Hàn lâm viện lo biên soạn văn thư;
  2. Quốc tử giám lo dạy dỗ đào tạo con em giới cầm quyền;
  3. Khâm thiên giám coi thiên văn, lịch pháp;
  4. Thái y viện lo việc thuốc men;
  5. Cơ mật viện tư vấn cho vua về các việc hệ trọng.

[sửa] Tham khảo

[sửa] Chú thích

  1. 1,0 1,1 1,2 1,3 1,4 1,5 Tuổi Thân với danh nhân Việt Nam www.tcvn.gov.vn
  2. Làng Cổ Đô - Hà Tây - hanoi.vnn.vn
Ngôn ngữ khác