Toàn quyền Đông Dương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Toàn quyền Đông Dương (tiếng Pháp: Gouverneur-général de l'Indochine Française), còn gọi là Toàn quyền Đông Pháp, là chức vụ đứng đầu trong Chế độ Thuộc địa Pháp tại Việt Nam. Toàn quyền Đông Dương đầu tiên là ông Ernest Constans (1887–1888), và người cuối cùng là ông Jean Decoux (1940–1945). [1] [2]

Toàn quyền Alexandre Varenne (giữa) và Khâm sứ Pierre Pasquier (phải) tại đám tang vua Khải Định, Huế, 1926
Toàn quyền Alexandre Varenne (giữa) và Khâm sứ Pierre Pasquier (phải) tại đám tang vua Khải Định, Huế, 1926

Mục lục

[sửa] Bối cảnh lịch sử

Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm đất Nam kỳ, người Pháp tổ chức hệ thống cai trị qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, từ 1861 đến 1879, người Pháp thành lập Soái phủ Nam kỳ (Gouvernement des Amiraux) do các đô đốc của Hải quân Pháp đứng đầu, trông coi việc cai trị hành chính và binh bị. Bắt đầu năm 1879, người Pháp đặt chức vụ Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur-général de la Cochinchine) để cai trị mảnh đất thuộc địa này. Chức vụ thống đốc này trực thuộc bộ Thuộc địa và bộ Hải quân Pháp. Sau khi áp đặt chế độ bảo hộ, người Pháp đặt thêm chức vụ Khâm sứ Trung kỳ (Résident Supérieur d'Annam) và Thống sứ Bắc kỳ (Résident Général du Tonkin). Hai người này trực thuộc bộ Ngoại giao Pháp. [3]

Ngày 17 tháng 10 năm 1887, viên Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Phủ toàn quyền Đông Dương, còn gọi là Phủ toàn quyền Đông Pháp (Gouvernement Général de L'Indochine Française). Toàn quyền Đông Pháp là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Nam kỳCao Miên. Riêng nước Đại Nam (phần đất Trung kỳ còn lại, đang chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp) thì Hoàng đế nhà Nguyễn vẫn là người có quyền tối thượng, tất nhiên là trên danh nghĩa. Đứng đầu cả ba kỳ là: Thống đốc Nam kỳ (có sách gọi Thủ hiến), Khâm sứ Trung kỳ (có sách gọi Đại Trú sứ) và Thống sứ Bắc kỳ (có sách gọi Tổng Trú sứ), cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1900 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao và Quảng Châu Loan. [4]

[sửa] Quyền lực

 Một loại tem dùng trong thời kỳ này
Một loại tem dùng trong thời kỳ này

Toàn quyền là người đại diện cho chính phủ Pháp tại Đông Pháp, gồm các thuộc địa kể trên, và hành xử như một nguyên thủ, với các quyền hành và trách nhiệm như sau:

  • có quyền ban hành các sắc lệnh và đạo luật để cai trị, công bố thiết quân luật, giờ giới nghiêm,
  • có quyền ân xá các tội phạm bản xứ,
  • có quyền thiết lập ngân sách và phê chuẩn chi thu toàn cõi Đông Pháp,
  • có quyền sử dụng các lực lượng quân sự,
  • chịu trách nhiệm an ninh nội bộ và quốc phòng của khối Đông Pháp

Dưới quyền điều khiển của Toàn quyền, ngoài Thống đốc, Khâm sứ và Thống sứ, còn có các cơ quan hành chính như sau:

  1. Hội đồng Tư vấn (Conseil privé), Hội đồng Đề hình (Commissions criminelles), Bắc kỳ và Trung kỳ Nhân dân Đại biểu viện (Chambre des représentants du peuple) và một Đại Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương (Grand Conseil des Intérêts économiques et financiers de L'Indochine),
  2. các tổng nha chuyên môn Đông Dương (Services généraux de L'Indochine): Nha Học chính, Nha Tài chính, Nha Kinh tế vụ, Nha Canh nông, Nha Công chính, Nha Bưu chính, Nha Thương chính,
  3. quân đội,
  4. sở Hiến binh (Gendarmerie) và
  5. sở Mật thám Đông Dương (Direction des Affairs Politiques et de la Sureté Générale). [5]

[sửa] Chính sách cai trị của các Toàn quyền

Trên l‎ý thuyết, các chính sách kinh tế, xã hội và quân sự người Pháp áp dụng tại Việt Nam phải dựa trên một chính sách chung dành cho tất cả các thuộc địa và đất bảo hộ, được hoạch định từ bộ Thuộc địa Pháp. Tuy nhiên trên thực tế các viên chức đại diện cho Pháp tại thuộc địa có toàn quyền hành xử, do đó chính sách cai trị thay đổi tùy thuộc vào khuynh hướng chính trị và tính tình của từng cá nhân. [6]

Lúc bấy giờ trong các lý thuyết gia thuộc chính giới Pháp có hai khuynh hướng khác biệt về chính sách thuộc địa, một khuynh hướng chủ trương đồng hóa (assimilation), một chủ trương liên hiệp (association). [7] Quan điểm của chính sách đồng hóa cho rằng các nước thuộc địa và bảo hộ không thể tồn tại và phát triển như những cơ thể độc lập, mà phải có sự hòa hợp thống nhất giữa mẫu quốc và thuộc địa trong tất cả các lãnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quân sự và an ninh. Quan điểm của chính sách liên hiệp cho rằng việc đồng hóa là không tưởng, và trên thực tế nên cai trị thế nào để có lợi cho đôi bên, và cần tôn trọng các khác biệt giữa mẫu quốc và thuộc địa. [8]

Sau đây là một số Toàn quyền và các chính sách tiêu biểu của họ tại Việt Nam.

[sửa] Một vài Toàn quyền tiêu biểu

[sửa] Paul Bert, de Lanessan và Rousseau

Trong số các viên chức dưới chế độ Toàn quyền đầu tiên có hai ông Thống sứ Paul Bert (1886) và Toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan (1891–1894) cai trị theo đường lối liên hiệp. Hai ông sử dụng các bậc trí thức, nho sĩ, thành lập Hội đồng Hào mục gồm 40 người để cố vấn, đối xử ngọt ngào để mua chuộc cảm tình của người Việt, trao quyền hành cho các quan lại người Việt và không xâm phạm các lễ nghi tôn giáo và phong tục của người Việt. Các ông này sau đó bị gọi về Pháp vì đại đa số các viên chức bộ Thuộc địa và giáo hội Pháp không đồng ý với chính sách cai trị ôn hòa đó. [9] Từ năm 1895 đến năm 1897 ông Paul Armand Rosseau giữ chức Toàn quyền và tập trung quyền lực nhằm đàn áp các phong trào kháng Pháp. [10]

[sửa] Paul Doumer

Toàn quyền Paul Doumer từ 1897-1902
Toàn quyền Paul Doumer từ 1897-1902

Năm 1897, chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam bước sang một bước ngoặt khi ông Paul Doumer (22 tháng 3 năm 1857 – 7 tháng 5 năm 1932) giữ chức Toàn quyền. Ông Doumer là một chính khách ngoại hạng, sau leo lên đến chức Tổng thống Pháp, nhưng là một nhà cai trị độc tài mang lại nhiều thay đổi sâu sắc từ lúc ông ta nhậm chức, áp đặt guồng máy thống trị và các cơ sở khai thác kiên cố cho đến năm 1945. Ông ta chủ trương biến chế độ bảo hộ thành chế độ thực trị, xóa bỏ chủ quyền và thống nhất của Việt Nam, mang đến phân hóa rõ rệt giữa ba miền. [11] Ông ta tập trung quyền hành vào chức vụ Toàn quyền, ép triều đình nhà Nguyễn đóng cửa Nha Kinh lược sứ Bắc kỳ, giao chức Kinh lược sứ, một chức quan trong triều đình Huế, cho Thống sứ Bắc kỳ lúc bấy giờ là Augustin Fourès. [12] Ông ta tổ chức khai thác cùng kiệt các tài nguyên của các nước trong Liên hiệp Đông Pháp, biến Đông Dương thành một thị trường cho kỹ nghệ và thương mãi của thực dân Pháp, và cùng lúc thành lập nơi đây một tiền đồn kinh tế và quân sự vững chắc của thực dân Pháp tại toàn cõi Viễn Đông. Dưới thời Doumer, hệ thống hạ tầng cơ sở tại Đông Dương được kiến thiết rất nhiều, nhưng người dân Việt phải chịu sưu thuế rất nặng để phục dịch và chu cấp cho việc này. [13]. Ông là người cho xây cây cầu cùng tên, một trong những cây cầu lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, hiện là cầu Long Biên[cần chú thích].

Sau khi trở về Pháp, ông tiếp tục tham gia chính trường Pháp, đắc cử Tổng thống Cộng hòa Pháp ngày 13 tháng 5 năm 1931. Ngày 6 tháng 5 năm 1932, ông bị bắn chết bởi một người Nga tị nạn chính trị tại Pháp tên là Paul Gorguloff. Tương truyền khi ông chết, người Pháp định mang thi hài ông táng trong điện Pantheon, nhưng vợ ông không đồng ý, nói rằng: "cả đời ông ấy đã hy sinh cho nước Pháp, còn bây giờ ông ấy là của tôi", rồi bà chôn ông trong khu vườn mộ gia đình, bên cạnh mộ của bốn người con trai, cả bốn đều hy sinh trong Chiến tranh thế giới thứ 1.

[sửa] Jean Beau

Năm 1902, Doumer bị gọi về Pháp và ông Jean Beau thay thế. Ông này có tinh thần cấp tiến và mềm mỏng, chủ trương khai hóa dân trí, thành lập các trường học, y tế cục, bệnh viện, tổ chức giúp đỡ dân nghèo. [14] Khi nhận thấy Phong trào Đông Du đưa đến việc nhiều thanh niên Việt Nam trốn sang Nhật học tập, ông cố gắng kềm chế tình trạng xuất dương bằng cách thành lập một trường đại học. Đồng thời ông cũng thành lập Hội đồng Tư vấn Bắc kỳ và các hội đồng tỉnh hạt, cho người Việt được bầu vào các hội đồng. [15] Cùng chung số phận với các Toàn quyền cấp tiến P. Bert và de Lanessan, Beau bị gọi về về Pháp năm 1907. [16] Ông Antony Koblukowski kế nhiệm (1908–1911) đã bãi bỏ trường đại học và tất cả các hội đồng trên.

[sửa] Albert Sarraut

Năm 1911, ông Albert Sarraut, một chính khách trẻ và lỗi lạc, sau làm đến bộ trưởng Bộ Thuộc địa và đắc cử Thủ tướng Pháp trong hai nhiệm kỳ, sang kế nhiệm chức Toàn quyền. Ông Sarraut chủ trương làm đúng tinh thần liên hiệp, cho tổ chức lại trường đại học, cho mở mang thêm các trường học các cấp, nới rộng các hội đồng quản trị cho người Việt tham gia. Tuy các nỗ lực của ông bị người Pháp tại Việt Nam cực lực phản đối, chính sách cai trị mềm mỏng giúp ông tại chức khá lâu và tạo nên không khí dễ thở phần nào cho dân bị trị. Theo sau Sarraut là ông Maurice Long (1919–1923) cũng có chính sách mềm mỏng tương tự, nhưng ông nầy bị phản đối và triệu hồi. [17]

[sửa] Alexandre Varenne

Toàn quyền Alexandre Varenne 1925-1928
Toàn quyền Alexandre Varenne 1925-1928

Năm 1925, ông Alexandre Varenne sang nhậm chức, và là một Toàn quyền có ý thức nhân đạo. Một trong các hành động nhân đạo tiêu biểu đó là ông cho chích ngừa dịch tả, cải cách các trường học, ân xá cho Phan Bội Châu vừa bị tuyên án tử hình, lập các viện Dân biểu Bắc kỳ và Trung kỳ, mở rộng ngạch tương đương (cadres latérants) trong các công sở cho người Việt có bằng cấp tương đương có quyền nắm giữ các chức vụ tương đương với người Pháp, và thành lập Bình dân Nông phố Ngân quỹ để cho giúp nông dân. Chính sách của ông bị thực dân Pháp phản đối dữ dội, và Varenne bị gọi về Pháp năm 1928. [18]


[sửa] Chú thích

  1. ^  Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử (VNPTS), Ban Việt Sử, ĐH Văn Khoa, Sàigòn 1961, tr. 202
  2. ^  Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (VNSL) Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục, Sàigòn, 1971 tr. 331 chép là Constant chứ không phải Constans
  3. ^  Nguyễn Thế-Anh, Việt Nam Thời Pháp Đô-Hộ (VNTPĐH), Tủ Sách Sử-Địa Học, Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1970, tr. 140
  4. ^  VNPTS, sđd., tr. 409
  5. ^  VNTPĐH, sđd., tr. 140-151
  6. ^  VNTPĐH, sđd., tr. 127
  7. ^  VNPTS, sđd., tr. 410-411
  8. ^  VNTPĐH, sđd., tr. 128
  9. ^  VNPTS, sđd., tr. 410-412
  10. ^  VNSL, sđd., tr. 347
  11. ^  VNPTS, sđd., tr. 417
  12. ^  VNSL, sđd., tr. 347
  13. ^  VNPTS, sđd., tr. 415-417
  14. ^  VNSL, sđd., tr. 347
  15. ^  VNPTS, sđd., tr. 419
  16. ^  VNPTS, sđd., tr. 417
  17. ^  VNPTS, sđd., tr. 421
  18. ^  VNPTS, sđd., tr. 422

[sửa] Xem thêm

[sửa] Liên kết ngoài

Ngôn ngữ khác