Minh Anh Tông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Minh Anh Tông
Họ: Chu (朱)
Tự: Kì Trấn (祁鎮)
Hoàng đế Trung Hoa (lần 1)
Thời gian: 7/2/ 1435–1/9/1449¹
Niên hiệu: Chính Thống (正統)
Thời gian niên hiệu 18/1/ 1436–13/1/1450
Hoàng đế Trung Hoa (lần 2)
Thời gian: 11/2/ 1457–23/2/1464
Niên hiệu: Thiên Thuận (天順)
Thời gian niên hiệu 15/2/1457–26/1/1465
Miếu hiệu: Anh Tông (英宗)
Thụy hiệu:
(ngắn)
Duệ hoàng đế (睿皇帝)
Thụy hiệu:
(đủ)
Pháp thiên lập đạo nhân minh
thành kính chiêu văn hiến võ
chí đức quảng hiếu Duệ hoàng đế
法天立道仁明誠敬昭文憲武至德
廣孝睿皇帝
Lưu ý: Ngày tháng tại đây lấy theo lịch Julius.
———
1. Bị người Mông Cổ bắt, em trai kế vị
là Cảnh Thái, phong ông làm Thái thượng hoàng

(太上皇), giữ chức này tới tận năm 1457.

Minh Anh Tông, tên thật là Chu Kì Trấn (29/11/1427 – 23/2/1464) là hoàng đế nhà Minh. Ông trị vì hai lần với niên hiệu Chính Thống từ năm 1435 tới năm 1449 và niên hiệu Thiên Thuận từ năm 1457 tới năm 1464.[1]

Mục lục

[sửa] Lần một

Chu Kì Trấn là con trai trưởng của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ và Tôn quý phi (sau lập thành hoàng hậu). Theo Minh sử thì mẹ đẻ ông là cung nhân không rõ họ tên, còn Tôn quý phi chỉ là mẹ dưỡng. Tháng 4 âm lịch năm 1428 lập làm hoàng thái tử. Tháng giêng năm 1435, Minh Tuyên Tông chết, ông lên nối ngôi, năm sau đổi niên hiệu từ Tuyên Đức sang Chính Thống. Ở thời kỳ đầu của thời gian trị vì của ông, nhà Minh đang phồn thịnh và đang ở đỉnh cao của sự thịnh vượng nhờ sự quản lý có hiệu quả của hoàng đế Tuyên Đức trước đó. Minh Anh Tông lên ngôi khi mới 8 tuổi, vị hoàng đế trẻ con đầu tiên của nhà Minh, điều đó làm cho ông dễ bị những người khác chi phối, cụ thể là thái giám Vương Chấn. Giai đoạn ban đầu, thái hoàng thái hậu họ Trương làm phụ chính, công việc nội các do tam Dương (Dương Sĩ Kì, Dương Vinh, Dương Phổ) phụ trách. Năm 1442, Trương thái hậu mất, thái giám Vương Chấn chuyên quyền. Từ đó, Anh Tông dựa hoàn toàn vào sự tư vấn và hướng dẫn của ông này.

[sửa] Mông Cổ cầm tù

Ở độ tuổi 22, năm 1449, ông bị quân Mông Cổ cầm tù, do theo lời khuyên của Vương Chấn đã trực tiếp đem quân đánh trận với đội quân người Ngõa Lạt (Oirats - một sắc tộc Mông Cổ) do Dã Tiên (Esen Tayisi, ?-1454) chỉ huy và bị bắt tại thành Thổ Mộc vào ngày 1 tháng 9 năm đó. Sử Trung Quốc gọi đó là Thổ Mộc bảo chi biến. Việc ông bị quân Mông Cổ bắt giữ đã làm cho nhà Minh bị rung chuyển tới tận gốc và khủng hoảng sau đó gần như đã làm cho triều đại này sụp đổ nếu như không có được sự quản lý tốt của Vu Khiêm (于谦), khi đó là Binh bộ thượng thư, do Dã Tiên đem Anh Tông theo quân đội của ông ta tấn công Bắc Kinh. Mặc dù Anh Tông bị bắt, nhưng ông lại trở thành bạn tốt với hãn. Trong khi đó, để ổn định tình hình trong nước, ngày 22 tháng 9 năm 1449, theo mệnh của Tôn thái hậu, em trai ông là Chu Kì Ngọc đã được lập làm hoàng đế với niên hiệu Cảnh Thái từ đầu năm 1450. Điều này đồng nghĩa với việc Anh Tông bị mất ngai vàng và được phong làm "Thái thượng hoàng". Đầu năm 1450, Dã Tiên giảng hòa, trao trả Anh Tông. Tháng 8 âm lịch năm đó, ông về tới Bắc Kinh và được an trí tại Nam cung.

[sửa] Giam lỏng và trị vì lần hai

Ông bị Cảnh Tông giam lỏng trong vòng 7 năm tại Nam cung của Tử Cấm Thành và mọi liên lạc ra bên ngoài đã bị Cảnh Tông cấm đoán. Con trai của Anh Tông là Chu Kiến Thâm (sau này là Minh Hiến Tông) đã bị phế khỏi tước vị thái tử vào năm 1453 và con trai của Cảnh Tông là Chu Kiến Tể được lập làm thái tử. Hành động này của Cảnh Tông đã làm Anh Tông vô cùng đau khổ. Chẳng bao lâu sau thì Chu Kiến Tể chết, nhưng Cảnh Tông vẫn không đồng ý tái lập Kiến Thâm làm thái tử. Tháng giêng năm Cảnh Thái thứ 8 (1457), Minh Cảnh Tông ốm nặng, không thể lâm triều. Vũ Thanh hầu Thạch Hanh cùng phó đô ngự sử Từ Hữu Trinh và thái giám Tào Cát Tường đem quân vào Nam cung đón Anh Tông về làm vua. Sử Trung Quốc gọi là Đoạt môn chi biến. Đêm ngày 16 tháng giêng, tại điện Phụng Thiên, ông lên ngôi, cải niên hiệu thành Thuận Thiên, phế Cảnh Tông xuống làm vương, bắt Vu Khiêm cùng đại học sĩ Vương Văn hạ ngục, sau đó theo lời tâu của Từ Hữu Trinh đã cho chém Vu Khiêm. Ông trị vì thêm 7 năm nữa dưới niên hiệu này.

Ông chết khi 37 tuổi vào năm 1464 và được chôn cất tại Dụ lăng (裕陵) trong Minh thập tam lăng.

[sửa] Gia đình

[sửa] Vợ

  1. Hiếu Trang Duệ hoàng hậu họ Tiền, không con
  2. Hiếu Túc Duệ hoàng hậu họ Chu thị, mẹ của Hiến Tông
  3. Thần phi họ Vạn
  4. Huệ phi họ Vương
  5. Thục phi họ Cao
  6. Đức phi họ Vi
  7. An phi họ Dương
  8. Phi họ Lưu

[sửa] Con cái

[sửa] Trai

  1. Chu Kiến Thâm, con trưởng, sau là Minh Hiến Tông, mẹ là Hiếu Túc Duệ hoàng hậu
  2. Chu Kiến Thanh, Đức Trang vương, mẹ là Thần phi
  3. Chu Kiến Thực, chết sớm, mẹ là Thần phi
  4. Chu Kiến Thuần, Hứa Điệu vương, mẹ là Huệ phi
  5. Chu Kiến Chú, Tú Hoài vương, mẹ là Thục phi
  6. Chu Kiến Trạch, Sùng Giản vương, mẹ là Hiếu Túc Duệ hoàng hậu
  7. Chu Kiến Tuấn, Cát Giản vương, mẹ là Thần phi
  8. Chu Kiến Trị, Hãn Mục vương, mẹ là Thần phi
  9. Chu Kiến Phái, Huy Trang vương, mẹ là Đức phi

[sửa] Gái

  1. Công chúa Trùng Khánh, mẹ là Hiếu Túc Duệ hoàng hậu. Sau lấy Chu Cảnh.
  2. Công chúa Gia Thiện, mẹ là Huệ phi. Năm Thành Hóa thứ 2 (1466) lấy Vương Tăng, binh bộ thượng thư. Chết năm Hoằng Trị thứ 12 (1499).
  3. Công chúa Thuần An, lấy Thái Chấn
  4. Công chúa Sùng Đức, mẹ là An phi. Năm Thành Hóa thứ 2 lấy Dương Vĩ (cháu Dương Thiện). Chết năm Hoằng Trị thứ 2 (1489).
  5. Công chúa Quảng Đức, mẹ là Thần phi. Năm Thành Hóa thứ 8 (1472) lấy Phàn Khải. Chết tháng 8 năm Thành Hóa thứ 20 (1484).
  6. Công chúa Nghi Hưng, mẹ là Đức phi. Năm Thành Hóa thứ 9 (1473) lấy Mã Thành. Chết năm Chính Đức thứ 9 (1514).
  7. Công chúa Long Khánh, mẹ là Thục phi. Năm Thành Hóa thứ 9 (1473) lấy Du Thái. Chết năm Thành Hóa thứ 15 (1479).
  8. Công chúa Gia Tường, mẹ là phi họ Lưu. Năm Thành Hóa thứ 13 (1477) lấy Hoàng Dong. Chết năm 1484.

[sửa] Xem thêm

  • Thổ Mộc bảo chi biến

[sửa] Tham chiếu

  1. Leo K. Shin (2006). The Making of the Chinese State: Ethnicity and Expansion on the Ming Borderlands, Ấn bản Đại học Cambridge. ISBN 0521853540.
Tiền nhiệm:
Minh Tuyên Tông
Hoàng đế nhà Minh
1435–1449
Kế nhiệm:
Minh Cảnh Tông
Tiền nhiệm:
Minh Cảnh Tông
Hoàng đế nhà Minh
1457–1464
Kế nhiệm:
Minh Hiến Tông