Sukhoi Su-7
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sukhoi Su-7 | |
---|---|
Kiểu | Máy bay chiến đấu/ném bom |
Hãng sản xuất máy bay | Sukhoi |
Chuyến bay đầu tiên | 7 tháng 9-1955 |
Được giới thiệu | 1958 |
Hết sử dụng | Những năm 1980 |
Tình trạng | Phục vụ hạn chế |
Hãng sử dụng chính | Không quân Xô Viết Không quân Ấn Độ |
Số lượng được sản xuất | 1,000 |
Sukhoi Su-7 (tên ký hiệu của NATO là Fitter) là một loại máy bay cánh cụp, động cơ phản lực, nó có thể vừa ném bom vừa chiến đấu, đây là một mẫu máy bay được sử dụng ở Liên Xô và các nước đồng minh.
Mục lục |
[sửa] Phát triển
Mẫu thử nghiệm đầu tiên, có tên gọi là S-1 'Strela', đã bay thử lần đầu tiên vào 7 tháng 9-1955, và được thế giới biết đến vào Ngày hàng không Tushino năm 1956. Cánh của nó được thiết kế bởi TsAGI trong suốt chiến tranh Triều Tiên, phòng hàng không học Xô Viết - TsAGI. Đó là loại cánh cụp góc 62°, cánh đuôi truyền thống, và để phân biệt các thiết kế của Sukhoi thì nó có kiểu cánh sau - những phanh hơi đặc biệt so với các mẫu máy bay khác. Thân máy bay lớn, diện tích thân máy bay chủ yếu được làm xung quanh kích thước của động cơ phản lực Lyulka AL-7 có công suất 88 kN (19,800 lbf) khi đốt nhiên liệu lần 2. Do kích thước của nó, thể tích bên trong chứa nhiên liệu và hệ thống điện tử bị hạn chế rất nhiều. Động cơ lấy không khí từ một đầu vào ở mũi, đầu mũi cũng chứa radar cự ly SRD-5M ('High Fix').
Su-7 có tên ký hiệu của NATO là 'Fitter-A', được dự định đặt cho một máy bay chiến đấu chống lại các máy bay chiến đấu như F-100 Super Sabre và F-101 Voodoo, được phục vụ trong Không quân Hoa Kỳ. Su-7 được trang bị 2 pháo 30 mm Nudelman-Rikhter NR-30 trong cánh, với 70 viên đạn mỗi súng. Người ta cũng dự định trang bị tên lửa không điều khiển cho Su-7, và đã có 1 điểm treo được đặt dưới thân, nhưng nó đã nhanh chóng bị hủy bỏ. Su-7 bắt đầu hoạt động trong các đơn vị vào năm 1958, nhưng vào năm 1959 người ta đã quyết định sử dụng MiG-21 như một máy bay chiến đấu cơ bản của Liên Xô, và việc sản xuất máy bay chiến đấu Su-7 đã bị dừng lại sau khi 200 chiếc đã được chế tạo. Với Su-7B, 'Fitter' nhanh chóng tìm thấy một vai trò khác là một máy bay chiến đấu/ném bom tấn công mặt đất, bắt đầu được triển khai đến các đơn vị vào năm 1961. Trong trang bị, nó có thể mang vũ khí hạt nhân chiến thuật.
Những khả năng không chiến của Su-7 bị hạn chế. Với sức chứa nhiên liệu là 2,940 l (647 imp gal), bán kính hoạt động của nó thậm chí với các thùng nhiên liệu phụ, rất hạn chế chỉ khoảng 300 km (200 dặm), và tầm hoạt động của nó gần như không hữu ích chút nào. Tốc độ cất cánh và hạ cánh rất cao, yêu cầu những đường băng dài. Những chiếc Su-7BKL có sự chuẩn bị cho JATO (hệ thống phóng phụ bằng tên lửa), nhưng nó chỉ làm cho công việc phức tạp thêm, vì vậy hệ thống phóng phụ ít được sử dụng. Một vấn đề bổ sung với những mô hình đầu tiên là khả năng đốt nhiên liệu lần 2 chỉ giữ được 6 đến 7 giây, và nó là một sự bất lợi trong không chiến.
Nhưng 'Fitter' có hệ thống bay dễ dàng điều khiển. Những thao tác lái của nó nổi tiếng là nặng, nhưng nó có thể khoan dung và đoán trước được. Động cơ luôn cần nhiên liệu để cung cấp cho máy bay tốc độ bay lên và tốc độ thấp. Hơn nữa, toàn bộ máy bay khá bền và khỏe, dễ dàng hoạt động và giá vận hành rẻ (ngoại trừ việc tiêu thụ nhiên liệu). Dù với những hạn chế đó, nó vẫn được nhiều phi công ưu thích. Su-7 được trông thấy trong các cuộc chiến vào Chiến tranh sáu ngày năm 1967, chiến tranh tiêu hao năm 1973, và các cuộc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan. Mặc dù được sử dụng phần lớn trong vai trò tấn công mặt đất, nhưng một chiếc Su-7 của Không quân Ấn Độ đã bắn hạ một chiếc Shenyang J-6 (phiên bản MiG-19 được Trung Quốc sản xuất) của Pakistan vào năm 1971.
Những hạn chế của Su-7, đặc biệt trong quãng đường cất cánh, đã dẫn đến Liên Xô phát triển loại Su-17 cánh cụp cánh xòe, nhưng Su-7 vẫn còn hoạt động đến khi nghỉ hưu vào những năm 1980. Nó được xuất khẩu đến nhiều quốc gia.
[sửa] Biến thể
Phiên bản sản xuất đầu tiên là máy bay chiến đấu Su-7. Sau đó mục đích sử dụng thay đổi đã biến Su-7 thành máy bay chiến đấu/ném bom, việc sản xuất đã chuyển sang sản xuất Su-7B. Trong vai trò này nó mang bom và tên lửa không điều khiển trên 2 giá treo ở cánh, mỗi cánh mang được 500 kg (1,100 lb) (sau này tăng lên 750 kg (1,660 lb)). Với những thùng chứa nhiên liệu, nó mang được tối đa là 1,000 kg (2,200 lb). Phiên bản tấn công của Su-7 được gọi tên là S-22.
Su-7B được loại bỏ khỏi danh sách sản xuất vào năm 1963 bởi Su-7BM, với một động cơ AL-7F1-150 mạnh hơn có lực đẩy 10,000 kgf (98 kN, 22,000 lbf) ("BM" có nghĩa là máy bay ném bom - sửa đổi ở Nga). Trong quá trình phục vụ, đây là phiên bản đầu tiên mang được vũ khí hạt nhân chiến thuật. Vào năm 1965 được thay thế bởi loại Su-7BKL (KL có nghĩa là "kolyesa i lyzhi" - bánh lốp và phanh), nó có hệ thống phóng phụ JATO tên gọi là SPRD-110 cung cấp lực đẩy 29.4 kN (13,300 lbf), nó cũng được trang bị động cơ mới loại AL-7F1-250. Từ năm 1969, Su-7 được thêm 2 giá treo vũ khí nữa ở dưới cánh, mang thêm 250 kg (552 lb) vũ khí. Su-7BKL được sản xuất nhiều nhất, khoảng 500 chiếc được chế tạo vào năm 1971. Phiên bản xuất khẩu, dựa trên Su-7BM với vài cải tiến khác, được gọi là Su-7BMK, được sản xuất từ năm 1965 cho các nước không thuộc khối hiệp ước Warsaw.
Một phiên bản 2 chỗ huấn luyện cũng được chế tạo, Su-7U (NATO 'Moujik'), và một phiên bản xuất khẩu là Su-7UMK. 2 ghế ngồi đã loại bỏ thùng nhiên liệu phụ trong thân, giảm bớt khả năng chứa nhiên liệu 200 kg (440 lb), nhưng nó lại có khả năng chiến đấu. Tầm nhìn từ ghế sau bị hạn chế.
Một phiên bản mẫu thử nghiệm cánh cụp cánh xòe, Su-7IG năm 1966, đã trở thành cơ sở để phát triển Su-17 sau này.
[sửa] Các nước sử dụng Su-7
Afghanistan: 46 chiếc, bao gồm 16 Su-7U huấn luyện, được cung cấp năm 1972. Có thể số lượng thực tế lên tới 120 chiếc vào những năm 1980. Không còn phục vụ.
Algérie
Bangladesh: Có thể được trang bị.
Tiệp Khắc: 60 chiếc
Ai Cập
Ấn Độ: 160 chiếc được cung cấp. Không còn phục vụ.
Iraq
Bắc Triều Tiên: 18 chiếc vẫn đang phục vụ.
Ba Lan: 46 chiếc, không còn phục vụ.
Liên Xô
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen:
Syria
[sửa] Thông số kỹ thuật (Su-7BKL)
[sửa] Đặc điểm riêng
- Phi đoàn: 1
- Chiều dài: 17.38 m (57 ft 0 in)
- Sải cánh: 9.313 m (30 ft 7 in)
- Chiều cao: 4.8 m (15 ft 9 in)
- Diện tích cánh: 27.6 m² (297 ft²)
- Trọng lượng rỗng: 8,360 kg (18,430 lb)
- Trọng lượng cất cánh: 12,000 kg (26,500 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 13,500 kg (29,800 lb)
- Động cơ: 1× Lyulka AL-7F-I công suất 68.6 kN (15,100 lbf), 98.1 kN (22,000 lbf) với nhiên liệu phụ trội
[sửa] Hiệu suất bay
- Vận tốc cực đại: 1,700 km/h (1,056 mph) trên độ cao lớn
- Tầm bay: 1,450 km (900 mi)
- Trần bay: 15,160 m (49,700 ft)
- Tốc độ lên cao: 152 m/s (29,900 ft/min)
- Lực nâng của cánh: 434.8 kg/m² (89.05 lb/ft²)
- Lực đẩy/trọng lượng: 0.58
[sửa] Vũ khí
- 2x pháo 30 mm NR-30 (70 viên đạn cho mỗi khẩu)
- 2 hoặc 4 giá treo dưới cánh, 2 dưới than mang được 2,000 kg (4,400 lb), gồm bom thương loại FAB-250 (550 lb) và FAB-500 (1,100 lb), tên lửa S-24, và tên lửa S-5 UB-16-57U 57 mm. Có thể mang vũ khí hạt nhân chiến thuật, tại điểm treo vũ khí dưới thân bên trái.
[sửa] Liên kết ngoài
[sửa] Nội dung liên quan
[sửa] Máy bay có cùng sự phát triển
[sửa] Máy bay có tính năng tương đương
A-7 Corsair II - Hawker Hunter - Nanchang Q-5 - F-105 Thunderchief - HAL HF-24 Marut
[sửa] Xem thêm
Các loại máy bay do hãng Sukhoi sản xuất | |
---|---|
Máy bay tiêm kích: | Su-9 (II) - Su-11 (II) - Su-15 (II) - Su-27 - Su-30 - Su-33 - Su-35 - Su-47 |
Máy bay tấn công: | Su-2 - Su-4 - Su-7 (II) - Su-17 (II) - Su-20 - Su-22 - Su-24 - Su-25 - Su-34 - Su-39 |
Máy bay trinh sát: | Su-12 Máy bay huấn luyện: UTB - Su-26 - Su-28 - Su-29 - Su-31 Máy bay vận tải: Su-38 - Su-80 - S-21 - Superjet 100 |
Máy bay thí nghiệm: | Su-1-Su-3-Su-5-Su-6-Su-7 (I)-Su-8-Su-9 (I)-Su-10-Su-11 (I)-Su-13-Su-15 (I)-Su-17 (I)-Su-37-S-37-P-1-T-3-T-4-PAK FA |
Hãng sản xuất máy bay Nga: | Antonov - Ilyushin - Mikoyan - Sukhoi - Tupolev - Yakovlev |