Đại học Y Hà Nội
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trường Đại học Y Hà Nội là một trường đại học tại Hà Nội được thành lập năm 1902 do chính phủ Pháp với hiệu trưởng đầu tiên là Alexandre Yersin. Đến nay trường đã đào tạo trên 17.000 bác sĩ chính qui, khoảng 10 ngàn học viên sau đại học. Trường phát triển những mũi nhọn của y học chuyên sâu như tim mạch, ghép tạng... một mặt phát triển những nghiên cứu của sức khoẻ cộng đồng, mở rộng hợp tác đa phương với hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới như Pháp, Mỹ, Hà Lan, Thuỵ Điển, Australia, Indonesia, Nhật Bản... Trường Đại học Y trong thời chiến đã cung cấp đầy đủ số lượng bác sĩ cho các mặt trận và các vùng tự do. Những bác sĩ tốt nghiệp trong giai đoạn này, sau này đều trở thành lực lượng nòng cốt của nền y học Việt Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều cán bộ của Đại học Y Hà Nội đã vào Sài Gòn để đảm nhiệm nhiều chức vụ quản lý và giảng dạy (GS Nguyễn Quang Quyền, GS Trần Phương Hạnh, GS Nguyễn Đình Hối v.v.) tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Những kế hoạch ưu tiên nghiên cứu của trường:
- Nghiên cứu ứng dụng hoặc chuyển giao công nghệ mới, các kỹ thuật nuôi cấy, bảo quản mô phôi và tế bào, ưu tiên cho tế bào gốc để phục vụ chẩn đoán, điều trị và dự phòng.
- Nghiên cứu ứng dụng y sinh học phân tử vào chẩn đoán và điều trị.
- Nghiên cứu tạo ra các sản phẩm sinh học, bán tổng hợp và tổng hợp phục vụ cho chẩn đoán, điều trị và dự phòng với các bước khác nhau.
- Nghiên cứu các giải pháp phát hiện bệnh sớm, các yếu tố nguy cơ và các biện pháp can thiệp nhằm chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
- Thực hiện các mũi nhọn khoa học công nghệ của Nhà nước và ngành trên cơ sở phục vụ cộng đồng, xã hội nhằm nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Tập trung nghiên cứu lĩnh vực y sinh học phân tử và một số bệnh di truyền, chuyển hóa, nội tiết (đái tháo đường...) và một số bệnh khác như bệnh tim mạch, ung thư, tâm thần...