Đinh Bộ Lĩnh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đinh Bộ Lĩnh | |
---|---|
Tên húy | Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn) |
Sinh | 924 |
Mất | 979 |
Trị vì | 968 - 979 |
Triều đại | Nhà Đinh |
Niên hiệu | Thái Bình |
Thụy hiệu | Tiên Hoàng Đế |
Đinh Bộ Lĩnh[1] (chữ Hán: 丁部領; 924–979) là người đã dẹp loạn 12 sứ quân trở thành vua Đinh Tiên Hoàng (丁先皇), vị vua đầu tiên của nhà Đinh.
Mục lục |
[sửa] Sự nghiệp
[sửa] Thuở hàn vi
Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, nguyên quán động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu.
Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, nương nhờ người chú ruột là Đinh Dự. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp.
- Có một giai thoại về Đinh Bộ Lĩnh thuở bé. Một lần Đinh Bộ Lĩnh quyết định cho mổ con trâu của người chú để "khao quân". Ông mang đuôi trâu cắm vào một khe núi. Đến tối Đinh Dự hỏi, Đinh Bộ Lĩnh nói dối trâu vào hang và cửa hang đã bị lấp lại. Đinh Dự tới nơi, rút cái đuôi trâu ra, giận người cháu nói dối nên đuổi đánh. Đinh Bộ Lĩnh bỏ đi mất.
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép:
- Trước kia, khi vua [Đinh Tiên Hoàng] còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy [ở Ninh Bình] để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: "Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu[2]..."
[sửa] Loạn 12 sứ quân
Năm 944 Ngô Quyền mất. Em vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha tự lập làm vua là Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Sau đó Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về, Dương thái hậu (Dương Như Ngọc) chuẩn tấu cả hai anh em đều làm vua. Đến năm 954, Ngô Xương Ngập bệnh mất.
Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình [3] bị phục binh bắn chết. Con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, quá suy yếu phải về đóng giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966, hình thành 12 sứ quân, sử gọi là loạn 12 sứ quân:
- Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều - Khoái Châu, Hưng Yên (có sách nói Bình Kiều ở Triệu Sơn, Thanh Hoá. Ngay cả Đào Duy Anh, trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, chỉ trong 2 trang sách liền kề cũng chú thích Bình Kiều ở hai nơi khác nhau như trên)
- Đỗ Cảnh Thạc, giữ Đỗ Động Giang - Thanh Oai, Hà Tây
- Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố, Thái Bình
- Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu - Bạch Hạc, Phú Thọ
- Nguyễn Khoan, giữ Tam Đái - Vĩnh Tường, Sơn Tây
- Ngô Nhật Khánh, giữ Đường Lâm - Phú Thọ, Sơn Tây
- Lý Khuê, giữ Siêu Loại - Thuận Thành, Bắc Ninh
- Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Du - Bắc Ninh
- Lã Đường, giữ Tế Giang - Văn Giang, Hưng Yên
- Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt - Thanh Trì, Hà Nội
- Kiều Thuận, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê, Sơn Tây
- Phạm Bạch Hổ, giữ Đằng Châu - Hưng Yên
Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư. Nhưng sau đó, do bất hòa với người chú, ông cùng con trai là Đinh Liễn bỏ đi. Đinh Bộ Lĩnh đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu. Đinh Bộ Lĩnh cưới Trần Nương và trở thành con rể của Trần Minh Công[4]. Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng vương. Căn cứ vào chính sử và các nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu, điển hình là Nguyễn Danh Phiệt (sách "Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước"), Đinh Bộ Lĩnh không đánh dẹp tất cả các sứ quân:
- Sứ quân Phạm Bạch Hổ tự nguyện về quy phục
- Các sứ quân Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh đầu hàng
- Các sứ quân Nguyễn Siêu, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Công Hãn, Lã Đường, Kiều Thuận, Đỗ Cảnh Thạc chống cự và bị giết
- Các sứ quân Nguyễn Khoan, Lý Khuê được xác định là lực lượng tự tan rã, không rõ kết cục của chủ tướng. Chiến tranh kết thúc năm 968.
[sửa] Đinh Tiên Hoàng
Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương.
Từ năm Canh Ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền đồng Thái Bình. Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc.
Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 972[5], Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống Trung Quốc. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc.
Về quân sự, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu người. Tuy nhiên con số này không đúng với thực tế.
Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, những ông lại lập con út Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm 979 Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang.
Theo sử sách cũ, năm Kỷ Mão 979, một viên quan là Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 11 năm, thọ 56 tuổi.
Nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết..."
[sửa] Cái chết của Đinh Tiên Hoàng
Sử sách chép rằng thủ phạm giết Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn là Đỗ Thích, sở dĩ Thích giết vua vì một hôm nằm trên cầu, có sao băng rơi vào miệng Thích, Thích cho rằng mình có điềm làm vua nên quyết định hành thích.
Tuy nhiên, theo nhà giáo Hoàng Đạo Thuý và một số nhà nghiên cứu hiện nay[6], Đỗ Thích không thể làm chuyện này. Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh. So với Thích, trong triều có các bạn của vua Đinh như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ... đều nắm trọng quyền, đủ cả văn lẫn võ. Vì vậy ông không thể mơ tưởng việc sẽ khuất phục được các đại thần nhà Đinh để ngồi yên trên ngai vàng.
[sửa] Dương Vân Nga và Lê Hoàn?
Cũng theo nhóm tác giả này, ngoài nguyên nhân trên, còn nguyên nhân khác. Việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp khởi binh chống Lê Hoàn có thể là những biểu hiện cho thấy mưu đồ thoán đoạt của Lê Hoàn. Ngày nay, số đền thờ các trung thần này nhiều hơn rất nhiều so với vài đền thờ Lê Hoàn và thái hậu họ Dương.
Các nhà nghiên cứu có đặt giả thiết là hành động của Lê Hoàn có sự trợ giúp của Dương Vân Nga. Trong bối cảnh cung đình của nhà Đinh lúc ấy có 3 hoàng tử, trưởng là Liễn, thứ là Toàn, út là Hạng Lang. Liễn là con trưởng, có nhiều công lao; Hạng Lang lại được vua yêu nên đã lập làm thái tử dù mới lên 4 tuổi, khó có thể bộc lộ những phẩm chất cao siêu hơn Đinh Liễn. Tiên Hoàng lại có những 5 hoàng hậu; có thể đã xảy ra cuộc đua ganh giữa 5 hoàng hậu về tương lai của ngôi thái tử. Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa.
Sau sự kiện Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt Đinh Liễn mà vẫn dự định để Liễn nối nghiệp. Có thể điều này làm phật ý Dương hậu khi bà cho rằng trước đã đặt Hạng Lang trên Liễn thì nay Liễn cũng phải ở dưới Toàn; và Dương Hậu đã cùng Lê Hoàn hành động.
Theo lý giải của một số nhà nghiên cứu, một trong những nguyên nhân khiến nhà Tống phát binh xâm lược Đại Cồ Việt chính là do Đinh Liễn, người đã đi lại với nhà Tống và được chính vua Tống phong chức, bị hại. Việc phong Liễn cho thấy nhà Tống thừa nhận ngôi vị của Liễn. Với danh nghĩa trừng trị kẻ phản nghịch, nhà Tống phát binh. Việc Lê Hoàn thành công trong cuộc kháng chiến chống Tống có thể đã khiến nhân dân tha thứ cho ông.
Các nhà nghiên cứu cũng đặt giả thiết Đỗ Thích chỉ là người vô tình có mặt ở hiện trường sau khi cha con vua Đinh bị hại (vì là quan nội thị) và lúc bấy giờ ông không thể thanh minh mình vô tội lúc nhiều người ập tới. Ông vội vã chạy trốn và bị bắt chém sau 3 ngày, trở thành nạn nhân trong mưu đồ của Lê Hoàn và Dương hậu.
[sửa] Mẹ Hạng Lang và Nguyễn Bặc?
Tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử" nêu ra giả thiết:
- Trong cuộc chiến cung đình giữa các hoàng hậu, bà mẹ Hạng Lang đã chọn Nguyễn Bặc làm vây cánh. Khi Hạng Lang bị giết mà thủ phạm Đinh Liễn không bị trừng trị, bà nảy ý định trả hận và đã cùng Nguyễn Bặc dùng Đỗ Thích ra tay. Sau đó Nguyễn Bặc theo lệnh của bà bắt giết Thích để “diệt khẩu”.
Tuy nhiên, giả thiết này còn có những điểm không thoả đáng. Nguyễn Bặc là bạn “chí cốt” của Tiên Hoàng từ nhỏ. Quan hệ giữa ông và Tiên Hoàng rất gần, quan điểm cho rằng ông nảy ý định phản Tiên Hoàng là hơi gượng ép. Dù ông có bụng "thờ" Hạng Lang chứ không “thờ” Liễn (chọn chủ tương lai) thì cũng chỉ giết Liễn chứ không thể giết luôn cả Tiên Hoàng.
Thứ nữa, nếu Nguyễn Bặc bày đặt sai Đỗ Thích giết cha con vua Đinh thì sau khi Thích hành sự xong, ông phải lập tức "đón lõng" bắt Thích ngay và chém tức khắc, không thể để trốn tránh tới 3 ngày, vì nhỡ trốn tránh lọt vào tay người khác lại khai ra ông, như vậy ông sẽ bị lộ là chủ mưu.
[sửa] Nhà Tống?
Cũng tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử" nêu ra một giả thiết khác:
- Đỗ Thích là "gian tế" của nhà Tống, giết cha con vua Đinh để làm rối triều đình và cho nhà Tống thừa cơ mang quân sang đánh chiếm. Vì Trung Hoa là nước lớn nên phía Đại Cồ Việt dù có biết, cũng không dám "làm to chuyện" gian tế đó, chỉ dồn sức đánh trả sau này.
Giả thiết này kém thuyết phục nhất. Cha con vua Đinh bị giết tháng 10 năm 979. Lê Hoàn lên thay ngôi nhà Đinh tháng 7 năm 980, hơn nửa năm sau (sau khi đã dẹp các trung thần nhà Đinh). Nhà Tống mãi tháng 3 năm 981 mới mang quân sang, tức là gần 1 năm rưỡi sau khi cha con vua Đinh bị hại. Nếu nhà Tống rắp tâm hại cha con vua Đinh để đánh chiếm thì phải sắp sẵn quân, chờ khi được tin "Giao Chỉ quận vương" bị giết là vượt biên giới ngay để người Nam bị "sét đánh không kịp bưng tai" thì mới chiếm được. Sự thực là tin vua Đinh bị hại đến khá muộn, Tống Thái Tông nghe Hầu Nhân Bảo tâu có thể đánh chiếm Giao Chỉ mới bắt đầu điều quân và tận năm 981 mới giao cho Bảo đi.
[sửa] Kết luận
Sự kiện này còn nhiều nghi vấn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khẳng định chắc chắn Tiên Hoàng bị hại không phải vì Đỗ Thích muốn đoạt ngôi và có nhiều ý kiến nghiêng về khả năng thủ phạm là Lê Hoàn và Dương hậu.
[sửa] Chú thích
- ▲ Có tài liệu nói ông tên là Đinh Hoàn (丁環), Bộ Lĩnh chỉ là chức vụ.
- ▲ Câu chuyện này ứng với sự nghiệp lớn và cái chết sớm của Đinh Tiên Hoàng
- ▲ Thái Bình xưa được xác định thuộc Sơn Tây ngày nay, không phải thuộc tỉnh Thái Bình bây giờ
- ▲ Có tài liệu chỉ nói Đinh Bộ Lĩnh là con nuôi của Trần Minh Công.
- ▲ Có nguồn ghi năm Quý Dậu 973.
- ▲ Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, Nhìn lại lịch sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2003.
[sửa] Xem thêm
- Nhà Đinh
- Nguyễn Bặc
- Đinh Điền
- Dương Vân Nga
- Đinh Liễn
- Lê Đại Hành
[sửa] Tham khảo
- Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) trên trang Hà Nội
- Đinh Tiên Hoàng (924-979) trên trang VietSciences
- Tóm tắt Niên biểu Lịch sử Việt Nam
- Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước- Nguyễn Danh Phiệt, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1990
- Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam
Tiền nhiệm: Hậu Ngô Vương (Nhà Ngô) |
Vua nhà Đinh | Kế nhiệm: Đinh Phế Đế |