Sukhoi Su-15

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Sukhoi Su-15
Kiểu Máy bay đánh chặn
Hãng sản xuất máy bay Sukhoi
Chuyến bay đầu tiên 30 tháng 5-1962
Được giới thiệu 3 tháng 4-1965
Hết sử dụng 1993
Tình trạng Phục vụ hạn chế
Hãng sử dụng chính Tiêu bản:Tên nước Liên Xô Không quân Xô Viết
Tiêu bản:Tên nước Liên Xô Quân chủng phòng không Xô Viết
Số lượng được sản xuất 1,290

Sukhoi Su-15 (tên ký hiệu của NATO Flagon) là một máy bay đánh chặn 2 động cơ được phát triển bởi Liên Xô trong những năm 1960 để thay thế cho Sukhoi Su-11.

Mục lục

[sửa] Lịch sử

Nhận thấy những hạn chế của Su-9Su-11 trước đó, OKB Sukhoi đã nhanh chóng bắt đầu phát triển một loại máy bay chiến đấu mới có khả năng và hoạt động tốt hơn. Một số máy bay phát triển được đưa ra, bao gồm T-49, nó có cùng thân với Su-9 (bao gồm có động cơ đơn), nhưng đầu lấy không khí lại được chuyển sang 2 bên thân, tạo một khoảng trống cho loại radar 'Oriol-D' (Eagle - Đại bàng), và mẫu T-5, thực chất là Su-11 sửa đổi lớn với thân máy bay mở rộng và có 2 động cơ Tumansky R-11.

Sau những mẫu đưa ra, người ta đã kết hợp cả 2 mẫu trên và một mẫu máy bay mới có tên gọi là T-58 đã được chế tạo, nó có 2 động cơ và mũi của T-49, nhưng những khe nạp khí được đưa về sau xuống phía dưới hơn nữa, đằng sau buồng lái. T-58 được tán thành sản xuất vòa 5 tháng 2-1962, với tên gọi là Su-15, và mẫu đầu tiên bay vào 30 tháng 5-1962. Nó bắt đầu phục vụ thử nghiệm vào 5 tháng 8-1963, nhưng công việc trang bị đã bị chậm trễ do các bất đồng với OKB Yakovlev về khả năng sản xuất của nhà máy ở Novosibirsk, mà chính xác là việc chế tạo Yakovlev Yak-28P. Su-15 tỏ ra vượt trội trong các bài thử nghiệm, vì vậy nó chính thức hoạt động trong Không quân Xô Viết vào 3 tháng 4-1965. Việc sản xuất hàng loạt bắt đầu trong năm đó, và bắt đầu phục vụ trong quân chủng phòn không Xô Viết vào năm 1967, thay thế cho Su-9, Su-11, và Yakovlev Yak-25. Su-15 được NATO gọi là 'Flagon-A'. Một phiên bản huấn luyện đơn giản, Su-15UT (NATO 'Flagon-C'), không trang bị radar, bắt đầu phục vụ vào năm 1970.

Ban đầu Su-15 được lắp cánh tam giác, nhưng nó lại khiến cho việc cất cánh và hạ cánh không được tốt, và Sukhoi điều tra nghiên cứu thiết kế một loại cánh mới với đầu mút bằng (diện tích cánh được tăng dần) và điều khiển lớp ranh giới, cánh không hẳn là một hình tam giác mà một cạnh của nó hơi cong. Su-15 với cánh mới được sản xuất vào năm 1969. Nó có tên là 'Flagon-D' bởi NATO, dù tên gọi ở Liên Xô vẫn không thay đổi.

Cũng trong năm 1969, bắt đầu thử nghiệm phiên bản nâng cấp Su-15T với radar Volkov Taifun (typhoon - bão lớn). Taifun tỏ ra khá khó chịu, tuy nhiên, sau đó việc sản xuất đã bị ngừng lại chỉ với 10 chiếc được sản xuất. Sau đó là mẫu Su-15TM (NATO 'Flagon-E'), ngừng sản xuất vào tháng 12-1971, với radar Taifun-M cải tiến và trang bị pháo Gryazev-Shipunov GSh-23L hoặc tên lửa không đối không tầm ngắn Molniya R-60. Nó có một thiết kế khí động học gượng gạo của mái che radar với một hình cung nhọn, được NATO gọi tên là 'Flagon-F', dù tên gọi ở Liên Xô không đổi, ngừng sản xuất vào năm 1976. Phiên bản cuối cùng Su-15UM, phiên bản sản xuất cuối cùng bị ngừng chế tạo vào năm 1979.

Su-15 đang hạ cánh
Su-15 đang hạ cánh

OKB đề nghị vài sự nâng cấp khác cho Su-15, với động cơ và hình dạng khí động học tốt hơn, nhưng những đề nghị này đã bị loại bỏ vì lúc đó người ta đang tập trung cho máy bay đánh chặn mới MiG-23.

Dù nó được sản xuất với số lượng lớn (1,290 chiếc mọi kiểu), Su-15 giống như các máy bay nhạy cảm khác, chưa bao giờ được xuất khẩu cho các nước thuộc khối Warsaw. Nhiều chiếc bây giờ thuộc về không quân Gruzia và không quân Ukraina sau khi Liên Xô sụp đổ, mặc dù ít, nhưng nếu có vẫn có ích.

Nga, Su-15 bất ngờ bị rút khỏi biên chế vào năm 1993 để tuân thủ Hiệp ước vũ trang truyền thống Châu Âu. Đa số bị vội vàng loại bỏ để thay thế bằng loại máy bay đánh chặn tiên tiến hơn, bao gồm Su-27 'Flanker' và MiG-31 'Foxhound'.

[sửa] Miêu tả

Mặc dù nhiều bộ phận hợp thành của Su-15 tương tự hay giống hệt như Su-9 trước đây và Su-11 (tên ký hiệu của NATO 'Fishpot'), bao gồm bộ phận phanh hơi trên thân máy bay ở phía sau, Su-15 đã bỏ đi kiểu khe hút không khí ở đầu mũi mà chuyển sang 2 khe ở bên thân, để lấy không khí nhiều hơn cho 2 động cơ phản lực loại lớn Tumansky R-11F. Sự thay đổi trên đã tạo ra khoảng trống lớn hơn cho hệ thống radar tìm kiếm ở đầu mũi, 'Oriol-D' (NATO 'Skip Spin'). Những chiếc Su-15 đầu tiên ('Flagon-A') có cánh tam giác giống như những loại máy bay trước đó, nhưng nó đã được thay thế từ loạt sản xuất thứ 11, bởi một loại cánh tam giác mới có tên gọi là 'kinked' có chiều dài và diện tích được tăng thêm, với một cánh nhỏ dạng lá chắn ở trên mỗi điểm treo vũ khí và ở phía ngoài giúp cải thiện hệ thống hạ cánh. Nó có một đuôi mới loại cánh nhị diện và cánh thẳng đứng đã được giảm bớt chiều cao.

Cũng như Lockheed F-104 Starfighter, 'Flagon' có tốc độ và vận tốc lên cao rất tốt. Việc cất cánh và hạ cánh có tốc độ tương đối cao, với vận tốc cất cánh là 247 mph (395 km/h) với loại cánh tam giác cũ của 'Flagon-A' và 231 mph (370 km/h) với loại cánh lớn của 'Flagon-F'. Hệ thống điều khiển nhạy và chính xác, chiếc máy bay này không dành cho các phi công hay phạm sai lầm.

Su-15 và vũ khí
Su-15 và vũ khí

Dù nó có radar mạnh hơn, 'Flagon' giống như các máy bay đánh chặn khác của Liên Xô trước năm 1980 đều phải phụ thuộc rất lớn vào hệ thống kiểm soát đánh chặn mặt đất (GCI), máy bay sẽ được chỉ định tấn công mục tiêu từ trung tâm này. Nó được trang bị hệ thống đường truyền dữ liệu Lazur-S, nó truyền các chỉ thị cho phi công để hoàn thành nhiệm vụ. Su-15TM sau đó có hệ thống đường truyền Vozdukh-1M và (sistema automaticheskogo upravleniya, hệ thống điều khiển tự động) có khả năng chuyển đổi tự động.

Hệ thôgns vũ khí ban đầu của Su-15 chỉ có tên lửa không đối không R-8 (sau này là R-98) (AA-3 'Anab'). Những chiếc đầu mang 2 tên lửa, nhưng 'Flagon-D' và các phiên bản sau đó có thể mang 4 tên lửa. Giống như những tên lửa khác của Liên Xô, R-98 có hệ thống dẫn đường cả bằng hồng ngoại và radar bán chủ động. Phiên bản 'Flagon-F' thường mang 2 tên lửa R-98 và 1 hoặc 2 cặp tên lửa tầm ngắn R-60 (AA-8 'Aphid'). Tên lửa tầm trung R-23 (AA-7 'Apex'), dùng chung với MiG-23, cũng là một tùy chọn khác thay thế cho R-98. Các phiên bản sau của 'Flagons' thỉnh thoảng cũng mang 2 hệ thống pháo Gryazev-Shipunov GSh-23L chùm 23 mm trên các giá treo ở thân (giống như trên MiG-21MiG-23.

[sửa] Các phiên bản

Một phiên bản của Su-15
Một phiên bản của Su-15
  • T-58 : mẫu đầu tiên
  • Su-15 'Flagon-A' : phiên bản đầu tiên được sản xuất.
  • T-58VD 'Flagon-B' : mẫu duy nhất sử dụng 3 ống phụt Kolesov ở thân máy bay để cung cấp khả năng STOL cho máy bay. Không được sản xuất hàng loạt.
  • Su-15UT 'Flagon-C' : phiên bản huấn luyện.
  • Su-15T : phiên bản trang bị radar Volkov Taifun.
  • Su-15TM 'Flagon-E' : trang bị radar cải tiến Taifun-M, pháo chùm và tên lửa.
  • Su-15TM 'Flagon-F' : phiên bản cải tiến cánh.
  • Su-15UM 'Flagon-G' : phiên bản huấn luyện.
  • Su-15Sh : máy bay tấn công mặt đất siêu âm trong đề án, được đề nghị năm 1969. Không sản xuất.
  • Su-15-30 : phiên bản dùng chung radar và tên lửa với MiG-25 trong kế hoạch, không sản xuất.
  • Su-15bis : Su-15TM nâng cấp với động cơ Tumansky R-25-300 có lực đẩy với nhiên liệu phụ trội là 15,652 lb (69.9 kN), hiệu suất bay được nâng cao, không được sản xuất hàng loạt.
  • Su-19 : phiên bản cao cấp với động cơ R-25-300 trong kế hoạch, cánh hình cung nhọn, và thêm các giá treo tên lửa. Không sản xuất.

Một số bao có của Phương Tây nói rằng Su-15TM cũng được gọi với tên gọi là Su-21Su-15UMSu-21U. Những báo cáo này rõ ràng là sai lầm.

[sửa] Các nước sử dụng

  • Tiêu bản:Tên nước Liên Xô Liên Xô - Tiêu bản:Tên nước Nga Nga:
    • Quân chủng phòng không Xô Xiết.
    • Không quân Xô Viết.
  • Tiêu bản:Tên nước Gruzia Gruzia: Không quân Gruzia.
  • Tiêu bản:Tên nước Ukraina Ukraina: Không quân Ukraina.

[sửa] Thông số kỹ thuật (Su-15TM 'Flagon-F')

Su-15
Su-15

[sửa] Đặc điểm riêng

  • Phi đoàn: 1
  • Chiều dài: 19.56 m (64 ft 2 in)
  • Sải cánh: 9.34 m (30 ft 7 in)
  • Chiều cao: 4.84 m (15 ft 10 in)
  • Diện tích cánh: 36.6 m² (394 ft²)
  • Trọng lượng rỗng: 10,874 kg (23,973 lb)
  • Trọng lượng cất cánh: 17,200 kg (37,920 lb)
  • Động cơ: 2× Tumansky R-13F2-300, công suất 40.21 kN (9,040 lbf) mỗi chiếc, 70.0 kN (15,730 lbf) với nhiên liệu phụ trội

[sửa] Hiệu suất bay

  • Vận tốc cực đại: Mach 2.1, 2,230 km/h (1,386 mph)
  • Tầm bay: 1,780 km (1,106 mi) (tuần tiễu) - 590 km (367 mi) (không chiến)
  • Trần bay: 18,100 m (59,383 ft)
  • Vận tốc lên cao: 228 m/s (45,000 ft/min)
  • Lực nâng của cánh: 102.4 lb/ft² (555 kg/m²)

[sửa] Vũ khí

  • 2x R-98M/AA-3 Anab (tại giá treo phía ngoài)
  • 2x hoặc 4x R-60/AA-8 Aphid (các giá treo bên trong)
  • Hoặc 2 pháo chùm UPK-23-250 23 mm tại các điểm treo dưới thân

[sửa] Liên kết ngoài

[sửa] Nội dung liên quan

[sửa] Máy bay có tính năng tương tự

  • Tupolev Tu-28
  • Shenyang J-8

[sửa] Xem thêm


Các loại máy bay do hãng Sukhoi sản xuất
Máy bay tiêm kích: Su-9 (II) - Su-11 (II) - Su-15 (II) - Su-27 - Su-30 - Su-33 - Su-35 - Su-47
Máy bay tấn công: Su-2 - Su-4 - Su-7 (II) - Su-17 (II) - Su-20 - Su-22 - Su-24 - Su-25 - Su-34 - Su-39
Máy bay trinh sát: Su-12 Máy bay huấn luyện: UTB - Su-26 - Su-28 - Su-29 - Su-31 Máy bay vận tải: Su-38 - Su-80 - S-21 - Superjet 100
Máy bay thí nghiệm: Su-1-Su-3-Su-5-Su-6-Su-7 (I)-Su-8-Su-9 (I)-Su-10-Su-11 (I)-Su-13-Su-15 (I)-Su-17 (I)-Su-37-S-37-P-1-T-3-T-4-PAK FA
Hãng sản xuất máy bay Nga: Antonov - Ilyushin - Mikoyan - Sukhoi - Tupolev - Yakovlev