Nhà Lưu Tống

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Các triều đại Nam Bắc triều
(420-589)
Nam triều: Bắc triều:

Lưu Tống
Nam Tề
Lương
Trần

Bắc Ngụy
Đông Ngụy
Tây Ngụy
Bắc Tề
Bắc Chu


Nhà Tống (宋朝) (420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn Nam triều ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề.

Mục lục

[sửa] Tên gọi

Triều đại này do Lưu Dụ 劉裕 (363-422) lập ra, họ của ông cùng với tên gọi triều đại "Tống" hợp thành tên gọi được sử dụng để chỉ triều đại này, nhà Lưu Tống. Tên gọi này được sử dụng nhằm mục đích phân biệt triều đại này với triều đại cùng tên là nhà Tống 宋 (960-1279), là triều đại nổi tiếng và có nhiều sự kiện lịch sử hơn. Nhà Lưu Tống cũng từng được gọi là nhà Nam Tống (南宋), do nó là một triều đại thuộc Nam triều trong lịch sử Trung Quốc, tức là một trong các triều đại có kinh đô đặt tại Kiến Khang (ngày nay là Nam Kinh). Tuy nhiên, nhà Tống (960-1279) kể từ sau năm 1127 cũng phải lui về phía nam, đặt kinh đô tại Lâm An (ngày nay là Hàng Châu, Chiết Giang), nói chung cũng được gọi là nhà Nam Tống. Vì thế, đối với triều đại ngắn hơn nhiều này, là chủ đề của bài này, thì tên gọi "Lưu Tống" được sử dụng là hợp lý hơn cả trong nhiều ngữ cảnh.

[sửa] Lịch sử

Khai quốc hoàng đế Lưu Dụ xuất thân từ trong quân đội, thuở nhỏ gia đình nghèo. Khi nhà Đông Tấn rơi vào thời kỳ xuống dốc, dân nổi lên làm loạn khắp nơi, nội bộ triều đình đấu đá lẫn nhau làm tê liệt mọi hoạt động trong nước. Năm 402, một viên tướng của nhà Đông Tấn là Hoàn Huyền khởi binh soán ngôi, lấy quốc hiệu là Sở. Lưu Dụ cùng Lưu Nghị khởi binh cần vương, cuối cùng tiêu diệt được lực lượng của Hoàn Huyền. Sau đó Lưu Dụ xuất quân nam chinh bắc phạt, ổn định tình hình. Cuối cùng tấn công tiêu diệt lực lượng của Lưu Nghị, Tư Mã Hưu Chi và ép Tấn Cung Đế nhường ngôi để lập ra triều Tống.

Nhà Lưu Tống là triều đại rơi vào tình trạng bất ổn. Một loạt các hoàng đế hoặc là thiếu năng lực hoặc là các bạo chúa, điều đó đã dẫn tới nhiều cuộc nổi dậy quân sự. Trong số các vị hoàng đế đó có thể kể tới Lưu Thiệu, Tống Hiếu Vũ Đế, Tống Phế Đế, Tống Minh Đế và Tống Hậu Phế Đế. Vua Minh Đế là đặc biệt tàn bạo, đã giết hại một lượng lớn những người anh em, cháu chắt và các họ hàng gần xa khác--nhiều trong số đó chỉ là trẻ em. Sự bất ổn nội bộ như vậy cuối cùng đã dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng của triều đại này vào năm 479 khi lực lượng của Thuận Đế Lưu Chuẩn bị quân đội của Tiêu Đạo Thành nhà Nam Tề tiêu diệt.

Tuy nhiên, người sáng lập ra triều đại này Tống Vũ Đế lại được cho là một trong những viên tướng vĩ đại nhất trong thời kỳ Nam Bắc triều, và thời gian trị vì của vị hoàng đế thứ ba, Tống Văn Đế, được biết đến như là giai đoạn ổn định chính trị và quản lý hành chính tốt, không chỉ của mỗi hoàng đế mà còn của các quan lại trung thực và mạnh mẽ. Thời kỳ này được biết đến dưới tên gọi triều Nguyên Gia (425-453, lấy theo niên hiệu mà vị hoàng đế này dùng) và nó là một trong những thời kỳ hoàng kim nhất của Nam triều.

[sửa] Văn hóa, nghệ thuật

Mặc dù (và có lẽ ở một mức độ nào đó là do) những cuộc tắm máu này, nhưng trong thời nhà Lưu Tống người ta đã sáng tạo ra nhiều tác phẩm thơ ca lớn (thi 詩) và các thể loại thơ ca khác, đáng chú ý là phú (賦). Hoàng tộc đã hỗ trợ cho nhiều tác phẩm văn thơ, và chính họ cũng viết rất nhiều. Thời gian trị vì của Văn Đế là đặc biệt tích cực cho các hoạt động văn chương, với việc họ Lưu hỗ trợ cho việc sưu tập và biên soạn một tập hợp lớn các giai thoại văn xuôi ngắn. Ba người khổng lồ của thời Nguyên Gia là Bảo Chiếu 鮑照 (mất 466), Tạ Linh Vận 謝霊運 (385-422) và Nhan Duyên Chi 顏延之 (384-456) có lẽ là những nhà thơ nổi tiếng nhất của thời Lưu Tống, mỗi người trong số họ đã được cho là những ông tổ của ba xu hướng chính trong văn học sau này.

Các nhà khoa học và thiên văn học cũng tích cực hoạt động trong thời kỳ tương đối yên bình. Đạo Phật bắt đầu được hiểu rõ hơn và được tu luyện rộng rãi hơn trong thời kỳ này, và một số quan lại, chẳng hạn như Tạ Linh Vận, là các Phật tử.

[sửa] Các hoàng đế

Thụy hiệu Miếu hiệu Tên Trị vì Niên hiệu
Vũ Đế (武帝) Cao Tổ (高祖) Lưu Dụ (劉裕) 420-422 Vĩnh Sơ (永初) 420-422
Thiếu Đế (少帝)   Lưu Nghĩa Phù (劉義符) 423-424 Cảnh Bình (景平) 423-424
Văn Đế (文帝) Thái Tổ (太祖) hay Trung Tông (中宗) Lưu Nghĩa Long (劉義隆) 424-453 Nguyên Gia (元嘉) 424-453
Nguyên Hung (元凶)   Lưu Thiệu (劉劭) 453 Thái Sơ (太初) 453
Tống Hiếu Vũ Đế (孝武帝) Thế Tổ (世祖) Lưu Tuấn (劉駿) 453-464 Hiếu Kiến (孝建) 454-456
Đại Minh (大明) 457-464
(Tiền) Phế Đế ((前)廢帝)   Lưu Tử Nghiệp (劉子業) 465 Vĩnh Quang (永光) 465
Cảnh Hòa (景和) 465
Minh Đế (明帝) Thái Tông (太宗) Lưu Úc (劉彧) 465[1]-472 Thái Thủy (泰始) 465-471
Thái Dự (泰豫) 472
(Hậu) Phế Đế ((後)廢帝) hay Thương Ngô Vương (蒼梧王)   Lưu Dục (劉昱) 473-477 Nguyên Huy (元徽) 473-477
Thuận Đế (順帝)   Lưu Chuẩn (劉準) 477-479 Thăng Minh (昇明) 477-479

[sửa] Lưu ý

  1. Con trai hoàng đế Hiếu Vũ là Lưu Tử Huân (em trai của Tống (Tiền) Phế Đế) đã lên ngai vàng vào mùa xuân năm 466, niên hiệu Nghĩa Gia và nhận được lời cam kết trung thành của phần lớn các tỉnh, nhưng đã bị lực lượng của Minh Đế đánh bại và bị tướng của Minh Đế là Thẩm Du Chi tử hình vào mùa thu năm đó.

[sửa] Xem thêm