Vạn diệp tập
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vạn diệp tập (万葉集 Manyoshu - với nghĩa khái quát có thể được hiểu là "tập thơ lưu truyền vạn đời", "tuyển tập hàng vạn bài thơ", "tập thơ vạn trang", "tập thơ vạn lời", "tập thơ của mười ngàn chiếc lá") được đánh giá là tuyển tập thơ của Nhật Bản lớn nhất và cổ xưa nhất còn lại đến ngày nay. Tập thơ có lẽ được Otomo Yakamochi (mất năm 785) và một số người khác biên soạn vào cuối năm 759 đời Thiên hoàng Hioji thứ 3 theo lệnh của hoàng đế đương triều. Toàn bộ tập thơ gồm 20 cuốn với 4496 bài thơ viết bằng chữ Nhật kana, sử dụng 3 thể thơ truyền thống của Nhật: tanka (đoản ca) có 4173 bài, choka (trường ca) 262 bài và sedoka (tuyền đầu ca) 651 bài. Trong khi hai thể choka và sedoka dần biến mất về sau, thể tanka vẫn tiếp tục phát triển và được đánh giá là thể loại quan trọng nhất của mười hai thế kỷ thơ ca Nhật bản, xứng đáng với tên gọi waka (Hòa ca, thơ Nhật).
Trong Vạn diệp tập, ta thấy sự quy tụ mọi tâm hồn đồng điệu của thi nhân trên toàn cõi Nhật Bản suốt ba thế kỷ: từ hoàng đế, công chúa, vương phi, tướng lĩnh, cho tới binh sĩ, nông dân, người đốn củi, kẻ ăn mày, với gần 400 nhà thơ được định danh, còn lại là khuyết danh. Có thể thấy sự có mặt của chủ biên Otomo Yakamochi trong 16 tập với 415 thi phẩm. Đó là chưa kể ông còn đưa thêm vào thơ của cha ông là Tabito và của họ hàng nhà ông. Tuy nhiên, Yakamochi hoàn toàn xứng đáng, ông và cha của ông được đánh giá là hai trong năm nhà thơ lỗi lạc nhất của Vạn diệp tập, gọi là "Vạn diệp ngũ đại gia" hay "Vạn diệp ngũ danh bút": đó là Hitomaro, Akahito, Okura, Tabito và Yakamochi.
[sửa] Những đề tài chính
Là một bộ bách khoa thư về văn hóa, con người và đất nước Nhật Bản cổ xưa, Vạn diệp tập bao quát những đề tài hết sức rộng lớn tập trung trong ba mảng chính: tạp ca (zoka) miêu tả những chuyến ngao du, những bữa tiệc, những truyền thuyết, nói chung là những vấn đề xã hội; tương văn ca (somonka) chủ yếu nói về tình yêu nam nữ; và vãn ca (banka) là những bi ca về cái chết. Ngoài kiểu phân loại có lẽ dựa theo cách phân chia thơ ca Trung Hoa như trên, còn có thể xếp các bài trong Vạn diệp tập theo chủ đề: thơ thù tạc, thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ thường nhật, thơ nhật ký, thơ viễn du, v.v. Tuy nhiên hầu như không có các bài thơ giáo huấn, thời sự, châm biếm hay chiến tranh, những đề tài phổ biến trong thơ ca Trung Hoa đương thời (thơ Đường), mặc dù ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa rất lớn trong đời sống Nhật Bản giai đoạn này, và các nhà thơ Nhật Bản cổ xưa rất am hiểu thơ Trung Hoa. Điều đó chứng tỏ nguồn cảm hứng thơ ca của các thi nhân Nhật Bản cổ đại hoàn toàn từ tiếng nói, tình cảm, tâm hồn và quê hương xứ sở Nhật Bản.
Đề tài tình yêu thấm đẫm trong rất nhiều bài trong thi tập, là những xúc cảm chân thành rất con người, không hề có sự khác biệt trong cách biểu cảm giữa một quý tộc và một nông dân, chẳng hạn bài sedoka của một tác giả nữ khuyết danh thuộc tầng lớp bình dân:
- Hãy đến anh ơi
- Chỉ cần anh bước
- Qua tấm liếp thôi
- Em sẽ trả lời
- Nếu như mẹ hỏi
- Gió đấy, mẹ ơi!
(bài 2364)
hay bài thơ của hoàng tử Oama, sau này là Hoàng đế Temmu:
- Nàng rực rỡ như hoa Murasaki
- Ôi tình yêu của ta!
- Nếu ta căm ghét vì nàng đã thành vợ người khác
- Thì sao ta vẫn yêu nàng!
(bài 21)
Đề tài tình yêu và quan hệ nam nữ luôn là tâm điểm của Vạn diệp tập, thậm chí nhiều cuốn toàn thơ tình (quyển 8, quyển 2). Nó phản ánh đời sống tinh thần hòa ái hết sức phong phú của mọi tầng lớp người dân Nhật Bản cổ đại. Đời sống tinh thần đó còn thể hiện qua những bài vãn ca, viết về nỗi bi thương, thực sự là tiếng lòng khóc than cho số kiếp người yêu:
- Nàng có là hoa không
- khi tro tàn hài cốt
- tôi đem rắc trên đồng
- tàn tro bay nhè nhẹ
- như hoa vào hư không''
(khuyết danh, bài 1416)
Và đây là bài thơ của hoàng tử Hozumi:
- Đừng theo nhau rơi nữa
- Ôi tuyết trắng bên trời
- bên đồi Igai
- nơi nàng nằm ngủ
- tuyết che đâu rồi
(bài 203)
Bên cạnh đề tài về tình yêu và nỗi bi ca, các bài thơ diễn tả cảnh đẹp thiên nhiên chiếm tuyệt đại đa số. Thiên nhiên trong các bài thơ của Vạn diệp tập với vùng Yoshino, ngọn núi Fuji, hồ Omi, biển Iwami, cánh đồng hoa Murasaki, hoa anh đào, hoa mận trắng và rừng thu phong đỏ thắm..., những thắng cảnh trên đất nước Phù Tang:
- Tuyết trắng rơi đầy
- Làng Yoshino ấy
- trong ánh ban mai
- Ngỡ như trăng sáng
- Còn lưu chốn này
(Bài 332, khuyết danh)
- Trên bờ vịnh Waka
- Sóng triều dâng ngập lối
- Nhớ thương lau sậy
- Một đàn hạc khóc
- Bay về phương xa''
(Akihito, bài 919)
Thiên nhiên được miêu tả không chỉ thuần Nhật, cách thức miêu tả thiên nhiên cũng hoàn toàn khác thơ cổ Trung Hoa vốn thiên về ước lệ và cá nhân nhà thơ hoàn toàn là khách quan so với ngoại cảnh: con người là một phần của thiên nhiên, thiên nhiên và con người luôn hòa trộn trong một xúc cảm thống nhất, thiên nhiên mỹ lệ luôn luôn khiến tâm trạng nhà thơ hướng về người yêu dấu:
- Vườn xuân đẹp sao
- Đường đi ngời sáng
- Bóng hoa hồng đào
- Một người con gái
- Từ đâu bước vào
(Yakamochi, bài 4139)
hay bài thơ của một tác giả khuyết danh:
- Người tôi yêu hẳn
- Nhớ tôi thở dài
- Bờ Kaza ấy
- Tôi vừa nhìn thấy
- Sương mù đang trôi
(bài 3615)
Còn đây là bài thơ của tiểu thư Sakanoe, em gái Tabito và là cô của Yakamochi, làm theo thể sedoka:
- Dòng sông Saho
- Cỏ mọc tràn bờ
- Ai ơi đừng cắt cỏ
- Cho bờ còn hoang vu
- Để khi mùa xuân đến
- Ta còn nơi hẹn hò
(bài 529)
Đề tài về tình yêu và thiên nhiên ở trên không lấn át những đề tài khác: tình cảm mẹ con, tình bạn, tâm trạng của người lính xa nhà, sự hoài vọng tuổi xuân, nỗi đau khi nằm trên giường bệnh, cảm hứng trước bầu rượu của thi nhân, v.v. được tập hợp thành từng cụm đề tài của Vạn diệp tập, thậm chí đứng thành từng cuốn: Những bài ca phương Đông (quyển 14), Những bài ca lính thú, Những bài ca xưa, Mười ba bài tụng ca về rượu, Thơ xướng họa v.v.
[sửa] Đánh giá
Với tất cả sự đồ sộ của khối lượng, sự bao quát lớn lao các tầng lớp sáng tác "từ quốc vương cho đến người đốn củi" và sự phong phú tuyệt vời về đề tài, công trình Vạn diệp tập không chỉ là kiệt tác của thời đại Nara mà còn xứng đáng là ngọn hải đăng của thơ ca Nhật Bản, không chỉ là tổng tập của thi ca Nhật Bản cổ đại mà còn xứng đáng là công trình độc nhất vô nhị không có bất cứ một công trình nào về sau được coi là tương đương với nó.
[sửa] Tham khảo
- Vạn diệp tập của Khương Việt Hà trên 101 vẻ đẹp văn chương Việt Nam và thế giới, NXB Văn hóa Thông tin, H. 2006.
- N.I.Konrat, Văn học Nhật Bản từ cổ đến cận đại, chương 2: Manyoshu, Trịnh Bá Đĩnh dịch, NXB Đà Nẵng, ĐN.1999.
- Nhật Chiêu, Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục. H. 1998.
- Phần lớn thơ trong bài này đều do Nhật Chiêu, nhà nghiên cứu văn học Nhật Bản tại Khoa Văn Đại học KHXH và NV Tp. Hồ Chí Minh dịch từ nguyên bản tiếng Nhật.