Mikoyan-Gurevich MiG-23
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
MiG-23 | |
---|---|
MiG-23MLD Không quân Xô Viết | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích-chiến đấu |
Hãng sản xuất máy bay | MiG |
Chuyến bay đầu tiên | 10 tháng 06-1967 |
Được giới thiệu | 1970 |
Hết sử dụng | từ năm 1994 thôi không hoạt động trong Không quân Nga |
Hãng sử dụng chính | Không quân Xô Viết |
Số lượng được sản xuất | 5,047 |
Những phương án tương tự | MiG-27 'Flogger-D/-J' |
Mikoyan-Gurevich MiG-23 (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "Flogger") là một loại máy bay có thể thay đổi hình dạng của cánh khi đang bay, hay còn gọi là máy bay chiến đấu cánh cụp - cánh xòe, là một chế tạo độc đáo của cục thiết kế Mikoyan-Gurevich Liên Xô. Được sản xuất với số lượng lớn để xuất khẩu vào những năm 1967-1985. Bay thử lần đầu tiên vào ngày 10-6-1967. Được đưa vào phục vụ năm 1970. MiG-23 thôi hoạt động trong Không quân Nga vào năm 1994. Có khoảng 5,047 chiếc đã được sản xuất. Nó còn có một biến thể khác là MiG-27 'Flogger-D/-J'.
Mục lục |
[sửa] Lịch sử phát triển
Phiên bản máy bay trước MiG-23 là MiG-21 (NATO: "Fishbed"), là một loại máy bay chắc chắn và nhanh nhẹn, nhưng những phiên bản đấu của MiG-21 bị hạn chế bởi không được sử dụng loại rada mạnh, tầm bay tương đối ngắn, và mang được ít vũ khí (không mang được nhiều tên lửa không đối không). MiG-23 được thiết kế nhằm khắc phục những khuyết điểm ấy, nó được gắn những máy móc có sức mạnh lớn, và vượt trội so với loại F-4 Phantom của phương Tây. Loại máy bay chiến đấu mới này có những nét mới hoàn toàn mà chưa có loại máy bay nào có vào thời điểm ấy, nó có hệ thống cảm biến mới S-23 đồng bộ với hệ thống cảnh báo từ xa và tên lửa tầm xa.
Bản thiết kế đầu của MiG-23 được chú ý đến khả năng cất cánh và hạ cánh. Những máy bay phản lực trước đó của Liên Xô đòi hỏi phải có đường băng cất cánh dài, chúng bị hạn chế khả năng phối hợp trong phạm vi lớn và trong chiến thuật. Không quân Liên Xô đòi hỏi phải có loại máy bay mới đòi hỏi đường băng cất cánh ngắn, có tốc độ lớn và khả năng chiến đấu vượt trội dựa trên những thông số bay của MiG-21. Mikoyan đã xem xét đến 2 lựa chọn: máy bay phản lực được cung cấp thêm lực nâng của không khí, và máy bay có thể thay đổi hình dạng của cánh, loại cánh này được phát triển bởi TsAGI.
Mẫu đầu tiên gọi là "23-01" nhưng được biết đến với cái tên MiG-23PD, nó được lắp cánh tam giác giống như MiG-21 nhưng được gắn 2 động cơ phản lực trong thân máy bay. Tuy nhiên nó bộc lộ những khiếm khuyết về hình dạng, những động cơ có những điểm chết khi đã bay lên. Mẫu thứ 2 với tên gọi "23-11", lắp cánh thay đổi được hình dạng (cánh cụp - cánh xòe) có thể xoay góc 16°,45° và 72°, và nó thể hiện kết quả khá tốt. Chuyến bay lần đầu tiên của 23-11 vào ngày 10-6-1967, và 3 mẫu đã được thiết kế cho những chuyến bay và thử nghiệm sau đó. Tất cả các mẫu đều được lắp động cơ Tumansky R-27-300 với lực đẩy 7850 kg. Sau những thử nghiệm, MiG-23 đã được đưa vào sản xuất hàng loạt vào tháng 112-1967.
F-111 General Dynamics và McDonnell Douglas F-4 của Hoa Kỳ đã có ảnh hưởng đến thiết kế của MiG-23. Tuy nhiên người Nga đã thiết kế MiG-23 có một động cơ để đạt tốc độ tối đa. Cả F-111 và MiG-23 đều được thiết kế cho nhiệm vụ chiến đấu, nhưng vì trọng lượng quá nặng của F-111 nên nó không bao giữ vai trò chiến đấu, thay vào đó nó trở thành máy bay ném bom chiến thuật tầm xa. Ngược lại MiG-23 lại có những thông số bay phù hợp để hạ gục máy bay kẻ thù trong những trận hỗn chiến trên không.
Không quân Hoa Kỳ cũng có một số lượng nhỏ MiG-23, nó được biết đến với cái tên YF-113G cho thử nghiệm đánh giá máy bay và đóng vai kẻ địch cho các phi công huấn luyện từ năm 1977 đến năm 1988 trong một trương trình có mật danh "Constant Peg".
[sửa] Thế hệ đầu tiên của MiG-23
[sửa] Flogger-A
- Ye-231 là mẫu đầu tiên được chế tạo cho thử nghiệm. Mẫu thử nghiệm này là cơ sở cho các mẫu máy bay MiG-23/27 và Sukhoi Su-24, nhưng Su-24 có những sửa đổi lớn từ kinh nghiệm của mẫu Ye-231 so vơi MiG-23/27.
- MiG-23 là mẫu được sản xuất sau, nó thiếu những điểm đặc biệt cứng trên cánh máy bay, nó được vũ trang bằng súng. Mẫu này đã thể hiện rõ gianh giới giữa MiG-23/MiG-27 và Su-24 so với mẫu đầu tiên Ye-231.
- MiG-23S là biến thể đầu tiên được sản xuất. Có khoảng 60 chiếc được sản xuất giữa 1969-1970. Nó được sử dụng cho cả 2 nhiệm vụ chiến đấu và thử nghiệm. MiG-23S được lắp động cơ phản lực R-27F2-300 với lực đẩy tối đa là 9980 kg, rada gây nhiễu Sapfir-23, hệ thống điều khiển vũ khí S-21 với rada RP-22SM, về cơ bản vũ khí giống MiG-21MF/bis. 2 súng 23 mm GSh-23L với 200 viên đạn dưới thân máy bay. Nó chưa bao giờ được đưa vào chiến đấu do gặp một số vấn đề với hệ thống cánh.
- MiG-23SM Là biến thể thứ 2 được sản xuất, nó còn được biết đến với tên MiG-23 mẫu 1971. Nó có nhiều thay đổi lớn so với MiG-23S: có hệ thống vũ khí S-23 hoàn thiện, rada Sapfir-23L với tên lửa Vympel R-23R (NATO: AA-7 'Apex'). Nó còn được gắn động cơ cải tiến R-27F2M-300 (sau này có tên R-29-300) với lực đấy lên tới 12,000 kg. Loại cánh "mẫu số 2" tăng thêm diện tích cánh và có góc quét lớn hơn. Phần cánh mỏng bị loại bỏ và góc quét tăng thêm 2.5 độ. Vị trí cánh có thể thay đổi 18.5°, 47.5° và 74.5°. Bộ phận đuôi giữa thăng bằng được di chuyển về sau, và thùng nhiên liệu phụ được thêm vào phần sau thân máy bay, nó còn có một mẫu biến thể 2 chỗ. Có khoảng 80 mẫu được chế tạo. Tất cả những mẫu sau đều chứng tỏ được sự tin cậy, những loại rada Sapfir lại tỏ ra chưa chín muồi.
[sửa] Flogger-B
- MiG-23M: biến thể này bay lần đầu vào tháng 6-1972. Nó là phiên bản đầu tiên được sản xuất với số lượng lớn của loại MiG-23. Cánh được làm nhẹ hơn nhưng vẫn chắc chắn. Động cơ R-29-300 (R-29A) đã được nâng cấp với lực đẩy là 12,500 kg. Phiên bản này cuối cùng cũng được sử dụng hệ thống cảm biến đồng bộ, hiện đại: rada cải tiến Sapfir-23D (NATO: 'High Lark'), một cảm biến hồng ngoại dò tìm theo dõi (IRST) TP-23 và một súng ngắm tự động ASP-23D. Rada "High Lark" có khả năng phát hiện mục tiêu từ khoảng cách 45 km.
- MiG-23MF ("Flogger-B"): là phiên bản xuất khẩu của MiG-23M cho các nước thuộc khối hiệp ước Vác-xa-va, nhưng nó cũng còn được bán cho cả những nước khác. Trên thực tế nó có 2 phiên bản. Phiên bản thứ nhất được bán cho các nước trong khối Vác-xa-va, về bản chất nó giống với MiG-23M của Liên Xô, với một thay đổi nhỏ trong hệ thống tách sóng nhằm phân biệt bạn hoặc thù (IFF) và trang bị hệ thống truyền thông tin cao cấp hơn. Phiên bản thứ 2 được bán cho các nước ở ngoài khối hiệp ước Vác-xa-va, phiên bản này có một sự khác biệt về hệ thống IFF, hệ thống liên lạc (vẫn truyền thông tin theo cách thông thường với hệ thống truyền dữ liệu kết nối), sử dụng rada cũ hơn, thiếu hệ thống phòng thủ điện tử (ECCM). MiG-23MF được ưa chuộng hơn phiên bản MiG-23MS và có một số lượng lớn được xuất khẩu, đặc biệt là ở Trung Đông.
Hệ thống tia hồng ngoại có thể dò tìm mục tiêu trong khoảng 30 km để ném bom, nhưng nó lại không nổi trội về phát hiện mục tiêu trong không chiến. Nó được trang bị hệ thống truyền dữ liệu Lasur-SMA. Trang bị vũ khí tiêu chuẩn gồm có 2 tên lửa dẫn đường bằng rada hoặc tia hồng ngoại Vympel R-23 BVR (NATO: AA-7 'Apex') và 2 tên lửa dẫn đường bằng hồng ngoại tầm ngắn Molniya R-60 (NATO: AA-8 'Aphid'). Sau năm 1974, thêm 2 giá lắp tên lửa R-60 được thêm vào, nâng tổng số tên lửa R-60 lên thành 4 quả. Bom, rocket và tên lửa được trang bị cho tấn công mặt đất. Sau đó nó còn được cải tiến để thêm vào loại tên lửa không đối đất dẫn đường bằng sóng radio Zvezda Kh-23 (NATO: AS-7 'Kerry'). Nhiều chiếc MiG-23 của Liên Xô còn được cải tiến để mang vũ khí hạt nhân chiến thuật. Khoảng 1,300 chiếc MiG-23M và MiG-23MF đã được sản xuất cho không quân Liên Xô và Quân chủng phòng không Liên Xô (PVO Strany) giữa những năm 1972-1978. Nó đóng vai trò là loại máy bay chiến đấu quan trọng trong giữa những năm 1970.
[sửa] Flogger-C
- MiG-23U: là biến thể 2 chỗ dành cho huấn luyện. Nó là lọai cải tiến từ MiG-23S, nhưng được làm dài buồng lái với một chỗ nữa cho phi công huấn luyện. Thùng xăng phía trước được thay thế để có thêm chỗ trong buồng lái, thay vào đó, một thùng xăng mới được gắn vào sau thân máy bay. MIG-23U có hệ thống cũ khí S-21, mặc dù rada vẫn là loại cũ. So với loại MiG-23M thì cánh và động cơ đều được cải tiến. Việc sản xuất bắt đầu ở Irkutsk năm 1971 và cuối cùng MiG-23U được cải tiến thành MiG-23UB.
- MiG-23UB: nó rất giống với MiG-23U, nhưng động cơ R-29 đã được thay thế cho R-27 của MiG-23U. Việc sản xuất diễn ra cho đến trước năm 1985 (cho phiên bản xuất khẩu). Tổng cộng có 769 chiếc được sản xuất, bao gồm cả những mẫu cải tiến từ MiG-23U
[sửa] Flogger-E
- MiG-23MP: nó khá giống với MiG-23MS, nhưng chỉ sản xuất vài chiếc và không bao giờ xuất khẩu. Nó thực sự là khuôn mẫu của MiG-23MS ngoại trừ thêm vào chất điện môi trên giá đỡ vũ khí, nó liên kết với hệ thống tấn công mặt đất làm cho sức mạnh của mẫu MiG-23MP tăng lên.
- MiG-23MS: nó là phiên bản xuất khẩu, nó được cải tiến từ loại MiG-23M để bán cho các nước thuộc thế giới thứ 3. Nó khác với MiG-23M về một số mặt như hệ thống vũ khí tiêu chuẩn S-21, với một rada RP-22SM (NATO: 'Jay Bird'), và hệ thống IRST (cảm biến hồng ngoại dò tìm theo dõi). Phiên bản này sử dụng tên lửa không đối không R-3S (NATO: AA-2a 'Atoll'), R-60 (NATO: AA-8 'Aphid') điều khiển bằng sóng radio và tên lửa R-3R NATO: AA-2d 'Atoll') được dẫn đường từ rada mặt đất. Hệ thống điện tử áp dụng trên máy bay rất cơ bản. Phiên bản này được sản xuất giữa những năm 1973-1978 và được xuất khẩu phần lớn đến Bắc Phi và Trung Đông.
[sửa] Thế hệ thứ 2 của MiG-23
[sửa] Flogger-G
- MiG-23P: đây là một phiên bản chuyên không chiến đánh chặn đươch phát triển cho PVO Strany. Nó có khung và động cơ giống với MiG-23ML, nhưng bộ phận thăng bằng được làm ngắn bớt so với những phiên bản khác. Hệ thống điện tử đồng bộ được cải tiến nhằm đáp ứng những đòi hỏi của PVO và thực hiện nhiệm vụ. Rada đã được cải tiến từ loại Sapfir-23P, nó có thể sử dụng kết hợp với hệ thống súng trên máy bay để có kết quả tốt nhất trong các cuộc không chiến khi mà sự đe dọa ngày càng tăng với việc sử dụng các loại tên lửa hiện đại. Hệ thống IRST không được gắn vào phiên bản này. Hệ thống lái tự động bao gồm cả một loại máy tính điện tử mới, được kết nối với hệ thống truyền dữ liệu Lasur-M. Nó còn được bắt được sóng radio của đối phương từ những trạm thông tin điều khiển mặt đất để đánh chặn mục tiêu một cách nhanh nhất; mọi phi công có thể điều khiển dễ dàng động cơ và vũ khí. MiG-23P là máy bay đánh chặn với số lượng lớn phục vụ trong PVO những năm 1980. Khoảng 500 chiếc đã được sản xuất giữa những năm 1978-1981. MiG-23P không được xuất khẩu.
- MiG-23bis: nó giống với MiG-23P nhưng hệ thống IRST đã được sử dụng trên phiên bản này và rada nặng nề đã được loại đi, bởi vì mọi thông tin cung cấp được hiển thị trên màn hình tinh thể lỏng (HUD).
- MiG-23ML: đây là phiên bản Flogger có ý định sử dụng tên lửa tấn công tốc độ cao. Phiên bản sản xuất đầu tiên có hiện tượng rạn nứt dưới giá đỡ vũ khí. Kết quả lớn nhất từ loại MiG-23ML (L - trọng lượng lớn) là khung máy bay đã được hoàn thiện, và nó là cơ sở của những loại máy bay mới sau này. Trọng lượng rỗng của máy bay giảm xuống 1250 kg, vì bỏ bớt đi thùng nhiên liệu phụ trong thân máy bay. Bộ phận hạ cánh được thiết kế lại. Khung máy bay chịu được gia tốc trọng trường tối đa là 8.5 g, so với 8 g của phiên bản MiG-23M/MF 'Flogger-B'. Động cơ mới R-35F-300 cung cấp lực đẩy là 8550 kg và 13,000 kg với nhiên liệu phụ. Hệ thống điện tử cải tiến đã góp phần nâng cao hiệu suất của máy bay. Hệ thống tiêu chuẩn S-23ML gồm cả rada Sapfir-23ML và hệ thống TP-23ML IRST. Rada mới đáng tin cậy và nó có thể dò tìm mục tiêu trong phạm vi 65 km. Radio mới và hệ thống đường truyền dữ liệu mới được lắp đặt. Phiên bản này bay lần đầu vào năm 1976 và bắt đầu sản xuất năm 1978.
- MiG-23MLA: đâu là biến thể được sản xuất sau của dòng "ML" được ký hiệu là "MLA". Về dáng vẻ bên ngoài thì MLA giống hệt ML. Bên trong, MLA được gắnheej thống rada phòng thủ điện tử EMC, nó vừa có thể thăm dò mặt đất và gây nhiễu đối với rada của đối phương. Nó có hệ htoongs hiển thị ngắm bắn mới ASP-17ML HUD, và tên lửa cải tiến Vympel R-24R/T. Giữa những năm 1978-1982, khoảng 1100 chiếc ML/MLA đã được sản xuất cho không quân Xô viết và xuất khẩu. MiG-23MF nó có sự khác biệt với phiên bản MiG-23ML để xuất khẩu: MiG-23MF được xuất khẩu cho những nước trong khối hiệp ước Vác-xa-va, còn MiG-23ML sử dụng rada phiên bản cũ để xuất khẩu cho những nước đồng minh của Liên Xô thuộc thế giới thứ 3.
[sửa] Flogger-K
- MiG-23MLD: MiG-23MLD là phiên bản chiến đấu cuối cùng của MiG-23. Điểm chính trong việc nâng cấp là cải thiện hiệu suất trong tác chiến, đặc biệt là khả năng tấn công với biên độ lớn (AoA). Hệ thống lái được cải thiện tăng khả năng điều khiển và an toàn hơn trong tấn công với tốc độ cao. Sự cải tiến quan trọng nhất là hệ thống điện tử được lắp đặt trên máy bay: Sapfir-23MLA-II có những thay đổi vượt bậc trong phát hiện, bắn hạ và chiến đấu trong khoảng không hẹp. Rada cảnh báo từ xa SPO-15L, hệ thống gây nhiễu bằng các mảnh kim loại và bắn pháo hiệu được lắp đặt. Đặc biệt là loại tên lửa tầm ngắn mới và hiệu quả Vympel R-73 (NATO: AA-11 'Archer'). Không có một chiếc "MLD" nào được cung cấp cho VVS, vì đã có loại máy bay hiện đại hơn là MiG-29 được bắt đầu sản xuất. Thay vì sản xuất loại MiG-23MLD, thì những chiếc ML/MLA đã được nâng cấp lên thành loại MLD. Khoảng 560 chiếc đã được nâng cấp giữa những năm 1982-1985.
[sửa] Phiên bản tấn công mặt đất
[sửa] Flogger-F
- MiG-23B: Một đòi hỏi về một loại máy bay vừa có thể chiến đấu vừa có thể ném bom đã được đưa ra vào cuối những năm 1960, MiG-23 ra đời đã được lựa chọn là mẫu thích hợp nhất để tiến hành thử nghiệm đòi hỏi trên. Mẫu đầu tiên của đề án có ký hiệu là "32-34", nó bay thử lần đầu tiên vào ngày 20-8-1970. MiG-23B đã được thiết kế lại phần khung máy bay phía trước, nhưng nó lại có những bộ phận khác giống với MiG-23S. Ghế ngồi của phi công được cải tiến, kính chắn được thay bằng loại kính chống đạn. Phần mũi được làm nhọn và có hình nón. Phiên bản này không có rada, thay vào đó là hệ thống quan sát tấn công mặt đất Sokol-23, nó tương tự như một máy tính, hệ thống đo khoảng cách bằng tia lade và bom định hướng PBK-3. Hệ thống lái đồng bộ và lái tự động đã được cải tiến nhằm tăng khẳ năng chính xác khi thả bom. Phiên bản này giữ lại súng GSh-23L, và giá treo vũ khí tăng thêm tối đa 3000 kg. Sự tồn tại được bảo đảm bằng việc cải tiến với hệ thống điện tử và khí trơ trong thùng nhiên liệu nhằm ngăn ngừa cháy nổ. Mẫu đầu tiên là MiG-23S với loại cánh mẫu, những đến những mẫu sau thì được lắp loại cánh lớn hơn. Quan trọng nhất là động cơ phản lực AL-21F-3 với lực đẩy cực đại lên tới 11,500 kg thay thế cho phiên bản động cơ R-29. Việc sản xuất phiên bản này được giới hạn, do động cơ AL-21 được ưu tiên cung cấp cho sản xuất Sukhoi Su-17 và Sukhoi Su-24. Chỉ có 3 mẫu MiG-23B và 24 chiếc được sản xuất trong năm 1971-1972.
- MiG-23BN: đây là phiên bản cuối cùng trong biến thể chiến đấu - ném bom. Nó khá giống với MiG-23B, nhưng sử dụng động cơ R-29-300 giống với những phiên bản Floggers khác. Nó được lắp mẫu cánh loại 3. Nó cũng có một số thay đổi nhỏ không quan trọng trong hệ thống điện tử và trang bị, và một số thay đổi là làm tăng thời gian bay lâu hơn. Phiên bản này đã tỏ ra ưu việt và khá phổ biến, nó được xuất khẩu rộng rãi. Việc sản xuất bắt đầu vào năm 1973 cho đến năm 1985, với ít nhất có 500 chiếc đã được chế tạo. Phần lớn trong đó được xuất khẩu, chỉ một số ít được phục vụ trong không quân Liên Xô.
[sửa] Flogger-H
- MiG-23BK: phiên bản này giống với MiG-23BN. Nó chỉ được xuất khẩu cho các nước trong khối Vác-xa-va. Phiên bản này được lắp rada cảnh báo từ xa, hệ thống lái PrNK-23 và tấn công.
- MiG-23BM: đây là MiG-23BK cải tiến, với hệ thống PrNK-23M thay thế cho PrNK-23, và hệ thống máy tính digital thay thế cho máy tính analog.
- MiG-23BM thí nghiệm: phiên bản này tập hợp toàn bộ những ưu việt của những phiên bản trước cho một chiếc máy bay tấn công. Sau đó nó được thiết kế lại và thiết kế cuối cùng có tên gọi Mikoyan-Gurevich MiG-27 (NATO: 'Flogger-D') nó được coi là một loại máy bay tách riêng khi đi vào hoạt động. MiG-23BM thí nghiệm được coi là người tiền nhiệm của MiG-27. Nó không giống với mẫu MiG-23BM và những phiên bản MiG-23 khác.
[sửa] Các phiên bản trong đề án và nâng cấp
MiG-23R là một phiên bản trinh sát trong đề án; nhưng nó không bao giờ được hoàn thành. MiG-23MLGD, MLG và MLS là những phiên bản chiến đấu cải tiến cao cấp hơn với rada và hệ thống tác chiến điện tử mới, đến chừng mực nào đó thì những phiên bản này khá giống với MiG-29. Chúng bị lãng quên khi người ta dành sự ưu tiên cho chương trình [MiG-29]]. MiG-23K là một phiên bản cho tàu sân bay được cải tiến từ MiG-23ML, MiG-23A là phiên bản đa chức năng phát triển từ MiG-23K. Đã có kế hoạch phát triển MiG-23A thành 2 biến thể khác nhau: MiG-23AI, MiG-23AB và MiG-23AR. MiG-23AI là máy bay chiến đấu, MiG-23AB là biến thể tấn công và MiG-23AR là biến thể trinh sát. Tuy nhiên, chúng đã không được hoàn thành do những phiên bản MiG-23K và MiG-23A đã bị hủy bỏ.
Ngoài ra còn có phiên bản MiG-23 khác là MiG-23MLK, phiên bản này định sử dụng 2 động cơ mới R-33 hay 1 động cơ R-100, và MiG-23MD về cơ bản là MiG-23M với hệ thống rada Saphir-23MLA-2. MiG-23ML-1 là một phiên bản khác với những lựa chọn khác nhau về động cơ; nó được chọn sử dụng một động cơ là loại R-100 hoặc R-69F, nếu dùng 2 động cơ thì sẽ sử dụng 2 động cơ loại R-33. Nó có kế hoạch trang bị loại tên lửa không đối không mới loại R-146.
Vào cuối những năm 1990, Cục thiết kế Mikoyan, tiếp theo sau sự thành công của phiên bản cải tiến MiG-21, đã đưa ra phiên bản cải tiến MiG-23-98 được đánh giá khá thành công với một rada mới, hệ thống phòng thủ đồng bộ, hệ thống điện tử mới, cải tiến buồng lái, hệ thống ngắm bắn mới, và nâng cấp để MiG-23 có thể mang được tên lửa đời mới Vympel R-27 (NATO: AA-10 'Alamo') và Vympel R-77 (NATO: AA-12 'Adder'). Giá thành mỗi chiếc được nâng cấp khoảng 1 triệu USD. Sau đó có thêm một số cải tiến nữa được đưa ra là cải tiến loại rada hiện đang trang bị là Sapfir-23 để có thể kết hợp với những loại tên lửa mới và hệ thống điện tử.
Nhưng sau đó những cải tiến này chỉ dành được sự chú ý từ một số nước. Năm 2005, Angola đã cải tiến rada Saphir trên những chiếc MiG-23ML; rada cải tiến cho phép những chiếc MiG-23 của Angola có thể sử dụng những loại vũ khí không đối không và không đối đất mới. Loại rada cải tiến này trông khá giống với rada cải tiến trên phiên bản MiG-23-98-2. Năm 2006, Ấn Độ đã chọn động cơ AL-21 để thay thế cho động cơ R-29B-300 cho những chiếc MiG-23BN và MiG-27 thuộc các phi đội của không quân Ấn Độ. Loại động cơ mới này là một cải tiến gần đây cho MiG-23 của Lyulka.
Tổng cộng có khoảng 5000 chiếc MiG-23 được sản xuất bao gồm phiên bản chiến đấu, tấn công và huấn luyện (không kể đến MiG-27), trong đó có 3630 chiếc là phiên bản tấn công.
MiG-23 và Mikoyan-Gurevich MiG-25 là những máy bay phản lực đầu tiên thử nghiệm hệ thống cảnh báo trong buồng lái, hệ thống này sử dụng giọng nói của phụ nữ thu âm sẵn trong bộ nhớ, nó thông báo cho phi công biết các tham số chuyến bay. Giọng của phụ nữ được chọn co đặc trưng là trong và dễ phân biệt giữa sự truyền đạt thông tin từ mặt đất và từ các máy bay khác trong hệ thống truyền tin, từ lâu giọng nam đã được lựa chọn để truyền thông tin từ mặt đất trong Không quân Sô Viết. Sau này những máy bay của Phương Tây cũng áp dụng hệ thống này, và nó trở thành hệ thống tiêu chuẩn cho các máy bay phản lực trên toàn thế giới.
[sửa] Giá thành
MiG-23 có một thuận lợi để xuất khẩu là có giá thành khá rẻ vào những năm 1980. Ví dụ, MiG-23MS có giá khoảng 3.6 - 6.6 triệu USD phụ thuộc vào khách hàng. Trong khi đó một chiếc F-16 Fighting Falcon cùng thời điểm đó có giá 14 triệu USD, và đối thủ cạnh tranh chính của MiG-23 từ phương Tây là Kfir C2 có giá là 4.5 triệu USD
[sửa] Lịch sử hoạt động
Các nhà lịch sử hàng không của Phương Tây và Nga thường tranh cãi về hiệu quả của MiG-23 trong những trận không chiến, tất nhiên là do quan điểm của họ về ngành công nghiệp hàng không của mỗi nước. Họ thường đánh giá dựa vào chiều dài lịch sử các cuộc xung đột của riêng từng nước, từng khu vực.
Chiếc MiG-23 đầu tiên được nhìn thấy trong không chiến là một phiên bản xuất khẩu. Vào ngày 11-6-1982, 2 phi công lái MiG-23MS tên là Heyrat và Zabi đã bắn hạ 1 chiếc phản lực F-4 của Israeli bằng 2 tên lửa AA-2 'Atolls'. Vào năm 1982 trong cuộc chiến Lebanon , theo một bản báo cáo cáo Israeli (được học giả Phương Tây công nhận) trong suốt cuộc chiến, đã có 85 máy bay chiến đấu của Syri đã bị bắn hạ trong khi không có một chiếc nào của Israeli bị bắn hạ ???, và trong số đó có 30 chiếc là MiG-23 ???.
Theo những nguồn tin của Liên Xô/Nga, thì người Syrian mất 6 chiếc MiG-23MF và 4 phiên bản xuất khẩu là MiG-23MS trong suốt cuộc chiến tháng 6 tại thung lũng Bekaa, và 14 chiếc MiG-23 thuộc phiên bản tấn công mặt đất MiG-23BN. Cũng trong thời gian đó thì những chiếc MiG-23 đã hạ ít nhất là 5 chiếc F-16, 2 F-4E và 1 chiếc BQM-34 trinh sát không người lái.
Vào ngày 7-6-1982, 3 chiếc MiG-23MF (phi công lái là Hallyak, Said, và Merza) tấn công một nhóm F-16. Đại úy Merza đã phát hiện ra những chiếc F-16 ở khoảng cách 25km và đã bắn rơi 2 chiếc F-16 với tên lửa R-23 (AA-7 'Apex') (một chiếc ở cách 9 km, chiếc còn lại trong khoảng 8 km) trước khi bản thân Merza bị bắn hạ. Ngày 8-6-1982, 2 chiếc MiG-23MF khác lại gặp một nhóm F-16. MiG-23 đã dò ra 1 chiếc F-16 từ 21 km và bắn hạ nó bằng tên lửa R-23 từ khoảng cách 7 km. Và phi công Syrian lại bị bắn hạ bằng tên lửa AIM-9 Sidewinder. Ngày 9-6-1982, 2 chiếc MiG-23 phi công lái là Dib và Said, tấn công một nhóm F-16. Dib đã bắn hạ một chiếc F-16 từ xa 6 km bằng tên lửa R-23.
Những nguồn tin từ Liên Xô/Nga cho biết 3 chiếc F-15 và 1 chiếc F-4 bị bắn hạ trong tháng 10-1983 bằng những chiếc MiG-23ML mới và không chiếc MiG-23 nào bị bắn hạ. Nhưng những học giả phương Tây phủ nhận tin này và cho rằng đã có 2 chiếc MiG-23ML bị F-15 của Israeli bắn hạ.
MiG-23 cũng có mặt trong chiến tranh Iran - Iraq. Vài chiếc MiG-23ML của Cuba và Mirage F1 của Nam Phi đã chạm chán trong chiến tranh Angola, một chiếc F1 đã bị bắn hạ bởi tên lửa R-60 (NATO: AA-8 'Aphid') từ một chiếc MiG-23ML của Cuba. Những chiếc MiG-23MLD của Liên Xô và F-16 của Pakistan đã xung đột một vài lần trong cuộc chiến Liên Xô - Afghanistan, 1 chiếc F-16 đã bị hạ năm 1987 bởi MiG-23MLD. Nhưng Pakistan lại nhất quyết cho rằng chiếc F-16 bị bắn hạ bởi chính những chiếc F-16 cùng phi đội. Một năm sau, MiG-23MLD của Liên Xô dùng tên lửa R-24 (NATO: AA-7 'Apex') đã hạ 2 chiếc AH-1J Cobra của Iran khi xâm nhập vào không phận của Afghan.
2 chiếc MiG-23MS của Liby đã bị bắn hạ bởi những chiếc F-14 trong sự kiện Vịnh Sidra năm 1989. Trong suốt chiến tranh vùng vịnh, những chiếc F-15 của không quân Mỹ đã hạ 8 chiếc MiG-23 của Iraq.
Vào năm 1970, sau một cuộc tổ chức lại xã hội bởi những người đứng đầu Ai Cập, Ai Cập đã cung cấp cho Hoa Kỳ một số máy bay MiG-23MS của mình và Hoa Kỳ cũng nhận được MiG-23 từ Trung Quốc trong một cuộc trao đổi vũ khí. Những chiếc MiG-23MS đã giúp Trung Quốc phát triển loại Shenyang J-8II, loại máy bay này của Trung Quốc có vài chi tiết vay mượn của MiG-23, đó là bộ phận giữ thăng bằng và khe hút không khí. Tại Mỹ, những chiếc MiG-23MS và những phiên bản khác thu được sau khi nước Đức hợp nhất đã giúp cho các nhà khoa học đánh giá được chương trình vũ khí của quân đội Liên Xô. Phi công Hà Lan Leon Van Maurer, người có hơn 1200 giờ bay với F-16, đã bay với chiếc MiG-23ML Flogger-G tại căn cứ không quân ở Đức và Hoa Kỳ trong các trận chiến giả khi MiG-23ML được trang bị vũ khí của Liên Xô. Leon Van Maurer đã nhận xét MiG-23ML tỏ ra ưu việt hơn hẳn những phiên bản đầu của F-16 trong thao tác bay thẳng đứng, và hệ thống BVR (Beyond Visual Range).
Người Israel đã thử nghiệm một chiếc MiG-23MLD thu được của Syri và nhận thấy rằng nó có tốc độ nhanh hơn những chiếc F-16 và F/A-18.
Sau khi tìm hiểu một chiếc MiG-23 khác, người Mỹ và Israel kết luận rằng, MiG-23 ngoài một màn hình hiển thị HUD, nó còn có một HUD khác hiển thị như một rada điều khiển, cho phép phi công quan sát không giới hạn và làm việc đơn giản hơn với hệ thống rada của mình. Nét đặc trưng này cũng được lắp trên MiG-29, mặc dù trên máy bay có một màn hình CRT (màn hình ống phóng tia ca-tốt) có tác dụng như hệ thống kia. Người Israel rất ấn tượng với hệ thống này, nhưng một phi công F-16 của Mỹ lại chê bai hệ thống này là "nó dễ gây kẹt hỏng bản đồ hiển thị trên màn hình HUD".
Ngoài sự đào ngũ của một phi công Syri lái MiG-23 tới Hy Lạp năm 1981, còn có một phi công Cuba đã lái chiếc MiG-23BN tới Mỹ năm 1991. Trong cả 2 trường hợp, những chiếc máy bay đều bị trả lại chậm trễ cho Syri và Cuba.
Để phân biệt bề ngoài của máy bay với khe hút không khí lớn bên thân, máy bay đã được đặt biệt danh là "Cheburashka" bởi phi công Sô Viết sau khi có một bộ phim hoạt hình của Nga có một nhân vật hư cấu có đôi tai lớn trên đầu. Nhưng biệt danh này không được gán cho MiG-23 mà nó được gán cho Antonov An-72/74, mặc dù ngày nay cái tên ấy thỉnh thoảng được dùng để gọi một số máy bay có hình dạng tương tự, ví dụ như A-10 Thunderbolt II.
Năm 1990, khoảng 1500 chiếc MiG-23 thuộc nhiều phiên bản đang phục vụ trong Không quân Xô Viết VVS và Quân chủng phòng không Xô Viết PVO. Với sự tan rã của Liên Xô, Không quân Nga bắt đầu cắt giảm số lượng máy bay chiến đấu của mình, và những chiếc MiG-23 và MiG-27 đã được cắt giảm khỏi biên chế. Và phiên bản cuối cùng của MiG-23 còn phục vụ cho đến năm 1998 là MiG-23P.
Khi Đông và Tây Đức hợp nhất, không một chiếc MiG-23 nào được sử dụng trong Luftwaffe (Không quân Đức), nhưng 12 chiếc MiG-23 từ Đông Đức đã được chuyển cho phía Mỹ. Khi Tiệp Khắc tách thành Cộng hòa Séc và Slovakia, Séc đã được quyền sử dụng toàn bộ số MiG-23 của Tiệp Khắc, nhưng chúng cũng về hưu vào năm 1998. Hungary cho những chiếc MiG-23 của mình về hưu năm 1996, Ba Lan năm 1999, Romania năm 2000 và Bulgaria năm 2004. Nhiều chiếc MiG-23 của Liby và Cuba cũng không bay trong những năm gần đây. Và một số chiếc MiG-23 đã được dùng làm vật trưng bày.
[sửa] Các nước sử dụng
[sửa] Các nước vẫn đang sử dụng
Albania: khoảng 6 chiếc MiG-23 được thông báo phục vụ trong Không quân Albania từ những năm đầu thập kỷ 80, chúng được mua lại từ Đông Đức nhưng điều này vẫn đang tranh luận.
Algérie: 29 MiG-23BN/MS/UB đang hoạt động.
Angola: 32 MiG-23M/UB đang hoạt động.
Cuba: 69 MiG-23MF/ML/UB đang hoạt động.
Ethiopia: 32 MiG-23BN/UB đang hoạt động.
Ấn Độ: 108 MiG-23ML/BN/UB đang hoạt động.
Kazakhstan: 100 MiG-23M/UB đang hoạt động.
Libya: 130 MiG-23MS/BN/UB đang hoạt động.
Bắc Triều Tiên: 56 MiG-23ML/UB đang hoạt động.
Syria: 146 MiG-23MS/MF/ML/MLD/BN/UB đang hoạt động.
Turkmenistan: 230 MiG-23M/UB đang hoạt động.
Yemen: 25 MiG-23BN/UB đang hoạt động.
Zimbabwe: 3 MiG-23M/UB đang hoạt động.
Còn những chiếc MiG-23 của Belarussia không biết chắc về tình trạng hoạt động.
[sửa] Các nước không còn sử dụng
Afghanistan: MiG-23BN/UB có thể đã phục vụ trong không quân Afghan từ năm 1984. Nhưng không chắc đấy có phải là máy bay Liên Xô sơn cờ của Afghan.
Bulgaria: tổng cộng cso 90 chiếc MiG-23 phục vụ trong không quân của nước này từ năm 1976 cho đến khi rút khỏi hoạt động vào năm 2002. Chính xác là: 33 MiG-23BN, 12 MiG-23MF, 1 MiG-23ML, 8 MiG-23MLA, 21 MiG-23MLD và 15 MiG-23UB.
Cộng hòa Séc: những chiếc MIG-23 đã cho về hưu vào năm 1994 (phiên bản BN, MF) và năm 1998 (phiên bản ML, UB).
Tiệp Khắc: MiG-23 được chuyển lại cho Cộng hòa Séc.
Cộng hòa Dân chủ Đức: MiG-23 được sát nhập vào không quân Đức, sau đó được chuyển cho Mỹ.
Ai Cập: 6 chiếc MiG-23BN/MF/U được đổi cho Trung Quốc trong một sự trao đổi vũ khí; Trung Quốc sử dụng chúng với mục đích đánh giá.
Hungary:
Iraq:
Israel: một chiếc MiG-23 của Syria đã đào thoát sang Israel.
Ba Lan: 36 MiG-23MF ghế đơn và 6 chiếc MiG-23UB huấn luyện phục vụ trong Không quân Ba Lan giữa những năm 1979 - 1982. Chúng được rút khỏi hoạt động vào tháng 9-1999.
Romania: không còn hoạt động.
Nga: không còn hoạt động.
Hoa Kỳ: chúng được dùng để trưng bày và nghiên cứu.
Liên Xô:
Sudan: không còn hoạt động.
Ukraina: không còn hoạt động.
Không quân Nhân dân Việt Nam không sử dụng MiG-23. Những chiếc MiG-23 ở Việt Nam là máy bay Xô Viết đóng tại căn cứ quân cảng Vịnh Cam Ranh trong suốt những năm 1980.
[sửa] Thông số kỹ thuật (MiG-23MLD Flogger-L)
[sửa] Thông số riêng
- Phi đoàn: 1
- Dài: 16.70 m (56 ft 9.5)
- Sải cánh: cánh xòe 13.97 m (45 ft 10 in)
- Cao: 4.82 m (15 ft 9.75 in)
- Diện tích cánh: xòe 37.35 m², cụp 34.16 m (402.05 ft² / 367.71 ft²)
- Trọng lượng rỗng: 9,595 kg (21,153 lb)
- Trọng lượng cất cánh: 15,700 kg (34,612 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 18,030 kg (39,749 lb)
- Động cơ: 1x Khatchaturov R-35-300, lực đẩy 83.6 kN, 127 kN với nhiên liệu phụ (18,850 lbf / 28,700 lbf)
[sửa] Hiệu suất bay
- Vận tốc cực đại: Mach 2.35, 2,500 km/h trên đất liền; Mach 1.14, 1,350 km/h trên biển (1,553 mph / 840 mph)
- Tầm bay: 1,150 km với 6 tên lửa AAM, 2,820 km với trang bị tiêu chuẩn (570 mi / 1,750 mi)
- Trần bay: 18,500 m (60,695 ft)
- Vận tốc lên cao: 240 m/s (47,245 ft/min)
- Lực ép lên cánh: 420 kg/m² (78.6 lb/ft²)
- Lực nâng: 0.88
Theo chỉ dẫn về MiG-23ML thì nó có thể duy trì liên tục tốc độ quay là 14.1 deg/s và tối đa là 16.7 deg/s. MiG-23ML tăng từ vận tốc 600 km/h (373 mph) lên 900 km/h (559 mph) trong 12 s ở độ cao 1 km. MiG-23 tăng từ 630 km/h (391 mph) lên 1300 km/h (808 mph) trong 30 s ở 1 km và trên độ cao 10-12 km tăng từ vận tốc Mach 1 lên Mach 2 trong 160 s.
[sửa] Trang bị
- 1x pháo Gryazev-Shipunov GSh-23L 23 mm với 200 viên đạn
- Có 6 giá treo có thể mang được 3,000 kg (6,610 lb) vũ khí, gồm:
- Ngoài ra, những biến thể cải tiến có thể mang được:
Trang bị của MiG-23 được tăng lên khi hệ thống điện tử được cải tiến và những phiên bản mới được phát triển. Trong những phiên bản đầu tiên, chúng được trang bị hệ thống vũ khí của MiG-21, nó bị giới hạn chỉ dùng được tên lửa R-3 (AA-2 'Atoll'). R-60 (AA-8 'Aphid') được dùng thay thế cho R-3 trong cuôi những năm 1970, và phiên bản MiG-23M đã mang tên lửa R-23/R-24 (AA-7 'Apex'). Đến phiên bản thứ 3 của Flogger đã sử dụng được tên lửa R-73 (AA-11 'Archer'), nhưng loại tên lửa này không được xuất khẩu cho đến khi MiG-29 được bắt đầu xuất khẩu. MiG-23 được dùng để bay thử và bắn tên lửa không đối không AA-10, AA-11 và AA-12. Trang bị cho phiên bản tấn công mặt đất gồm có rocket 57 mm, bom điều khiển lên tới 500 kg, súng và tên lửa điều khiển bằng sóng vô tuyến Kh-23 (AS-7 'Kerry'). Ngoài ra còn có thể mang 4 thùng nhiên liệu phụ.
[sửa] Liên kết ngoài
- MiG-23 on FAS.org
- MiG-23 FLOGGER at Global Security.org
- MiG-23 Flogger at Global Aircraft
- Angola awards life-extension contract for MiG-23ML fleet-05/04...
- МиГ-23 против F-15 и F-16
- МиГ-23 на Ближнем Востоке
- Ангольское противостояние
- MIG-23 Flogger at Russian Military Analysis
- Земское обозрение "Боевой состав ВВС СНГ"
- Cuban MiG-23
- Cuban MiG-23 in Angola
[sửa] Nội dung liên quan
[sửa] Máy bay có cùng sự phát triển
[sửa] Máy bay có tính năng tương đương
McDonnell Douglas F-4 Phantom II – Mirage F1 – Shenyang J-8 – Sukhoi Su-24
[sửa] Danh sách tiếp theo
MiG-17 - MiG-19 - MiG-21 - MiG-23 - MiG-25 - MiG-27 - MiG-29 - MiG-31
Các loại máy bay do hãng Mikoyan sản xuất | |
---|---|
Máy bay tiêm kích: | MiG-1 - MiG-3 - MiG-5 - MiG-7 - MiG-9 - MiG-15 - MiG-17 - MiG-19 - MiG-21 - MiG-23 - MiG-25 - MiG-29 - MiG-31 - MiG-33 - MiG-35 |
Máy bay thí nghiệm: | I-210 - I-211 - I-230 - I-220 - I-231 - I-222 - I-224 - I-225 - I-250 - MiG-8 - I-270 - I-320 - I-350 - I-360 - SN - I-370 - Ye-2 - Ye-4 - Ye-5 - Ye-50 - I-7U - SM-12 - I-75 - Ye-152A - Ye152P - Ye-8 - MiG-23PD - MiG-110 - MiG-AT - Dự án MiG 1.44/1.42 - Dự án MiG LFI - MiG-105 |
Hãng máy bay Nga: | Antonov - Ilyushin - Mikoyan - Sukhoi - Tupolev - Yakovlev |