Chiến dịch Linebacker II

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chiến dịch Linebacker II

Máy bay ném bom chiến lược B-52 đang ném bom rải thảm
Ngày: Từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972
Địa điểm: Miền Bắc Việt Nam: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Hà Bắc.
Kết quả: Nối lại đàm phán tại Paris, dẫn đến ký kết Hiệp định Paris với nội dung về cơ bản không khác với bản đã ký tắt vào tháng 10 năm 1972 - bản mà Hoa Kỳ đã từ chối ký kết.
Tham chiến
Không lực Hoa Kỳ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
Chỉ huy
John Dale Ryan, John W. Vogt Jr Văn Tiến Dũng, Lê Văn Tri.
Lực lượng
200 chiếc B-52,
14 liên đội không quân gồm hơn 1000 máy bay các loại từ 3 căn cứ không quân và 6 tàu sân bay
Lực lượng phòng không và không quân quân đội nhân dân và dân quân.
Thương vong
Tranh cãi: từ 15 đến 34 chiếc B-52 bị bắn rơi,
Từ 12 đến 47 máy bay khác bị hạ,
43 phi công thiệt mạng, 41 tù binh (số liệu phía Hoa Kỳ)
Từ 1.318 đến 1.624 thường dân thiệt mạng,
thương vong quân đội không rõ

Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong chiến tranh Việt Nam, từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972 sau khi hội nghị Paris bế tắc và đổ vỡ. Chiến dịch này là sự nối tiếp của chiến dịch ném bom Linebacker diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1972, ngoại trừ điểm khác biệt lớn là lần này trọng tâm sẽ là các cuộc tấn công dồn dập bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 thay vì các máy bay chiến thuật và mục đích là dùng sức mạnh và biện pháp không hạn chế đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Việt nam Dân chủ Cộng hoà. Tại chiến dịch này Hoa Kỳ đã sử dụng lực lượng không quân chiến lược với B-52 làm nòng cốt ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là những cuộc ném bom dữ dội nhất trong chiến tranh Việt Nam và là một trong những cuộc tập kích có cường độ cao nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh.

Cuộc ném bom tuy có gây những tổn thất nặng nề cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của lãnh đạo nước này về vấn đề cơ bản của hiệp định hoà bình, đồng thời nó gây một làn sóng bất bình lớn của nhân dân Mỹ, dư luận và chính giới của các nước trên thế giới trong đó có cả các đồng minh lâu dài của Hoa Kỳ, uy tín của Chính phủ Hoa kỳ bị xuống thấp nghiêm trọng. Bị phản đối trong nước, bị cô lập trên trường quốc tế, gặp phải sự chống trả hiệu quả gây thiệt hại lớn cho lực lượng không quân chiến lược, lại không thể buộc đối phương thay đổi lập trường, Tổng thống Richard Nixon đã phải ra lệnh chấm dứt chiến dịch vào ngày 30 tháng 12, đề nghị nối lại đàm phán tại Paris và cuối cùng nhanh chóng ký kết hiệp định Paris trên cơ sở dự thảo mà phía Mỹ trước đó đã từ chối ký kết. Và sau chiến dịch ném bom khí thế và lòng tự hào trong Quân đội và người dân miền Bắc Việt Nam lên rất cao: đã đánh thắng được "thần tượng B-52", đó là những cơ sở để phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi chiến dịch này là một thắng lợi to lớn của mình.

Chiến dịch này còn có một ý nghĩa tâm lý nặng nề cho giới quân sự Hoa Kỳ: đây là chiến dịch mà phía Mỹ đã chủ động lựa chọn mục tiêu, thời điểm, phương thức chiến đấu và đặc biệt là sử dụng sở trường của mình để chống lại sở đoản của đối phương (trình độ khoa học công nghệ) một cuộc đấu mà đối phương sẽ không thể sử dụng yếu tố "du kích" – một cách hình tượng: phía Mỹ thách đấu và được quyền lựa chọn vũ khí và đã thất bại.

Chiến dịch này cũng cho thấy điểm yếu của vũ khí máy bay chiến lược của Hoa Kỳ: một trong những vũ khí chiến lược dùng để chống chọi đối thủ tiềm tàng xứng tầm là Liên Xô cho một cuộc chiến tranh công nghệ cao đã thể hiện điểm yếu ngay khi đối phương có trình độ kinh tế, quân sự, khoa học – công nghệ rất thấp kém và vũ khí chống trả chưa phải là loại bí mật cao cấp nhất của đối phương. Ngay sau chiến tranh Việt Nam vì lý do này Hoa Kỳ đã phải nỗ lực rất cao trong chạy đua vũ trang trong lĩnh vực máy bay ném bom mà ngày nay đã có kết quả là các máy bay ném bom B-1 và B-2 Spirit tàng hình.

Ở Việt Nam sự kiện này thường dược gọi là "12 ngày đêm" và báo chí, truyền thông hay dùng hình tượng "Điện Biên Phủ trên không" để nhấn mạnh ý nghĩa thắng lợi cuối cùng và to lớn của sự kiện.

Mục lục

[sửa] Lý do

Lý do chính thức do Tổng thống Nixon đưa ra khi hạ lệnh cho không lực tiến hành chiến dịch Linebacker II là để bắt Bắc Việt Nam "đàm phán nghiêm chỉnh" khi Bắc Việt nam phản đối dự thảo hiệp định hoà bình của phía Hoa Kỳ sau khi Hoa Kỳ đứng về phía Việt Nam Cộng hoà từ chối dự thảo đã được ký tắt giữa đại diện Mỹ và Việt Nam dân chủ Cộng hoà và phía Mỹ đòi thay đổi lại nội dung cốt lõi nhất của dự thảo hiệp định về quy chế của Quân đội Bắc Việt Nam tại chiến trường miền Nam Việt Nam.

Về lý do quân sự, chính trị thì cuộc ném bom này là rất không cần thiết và có hại vì khi đó Hoa Kỳ đã quyết tâm rút khỏi chiến tranh. Hoa Kỳ biết rõ rằng không thể nào bắt Bắc Việt Nam nhượng bộ một vấn đề cốt lõi mà họ đã đánh nhau gần 20 năm chỉ bằng một cuộc ném bom dù ác liệt đến đâu. Nó chỉ làm dư luận Mỹ và thế giới bất bình với chính phủ Hoa Kỳ. Đây thực chất chỉ là cách để thể hiện trách nhiệm nghĩa vụ cuối cùng đối với đồng minh Việt Nam Cộng hoà: khi dự thảo hiệp định đã được ký tắt với Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã phản đối kịch liệt và không chấp nhận, Hoa Kỳ quyết định dùng nấc thang quân sự mạnh tay nhất này để chứng tỏ họ đã cố gắng hết mức cho quyền lợi của đồng minh.

[sửa] Diễn biến

Theo số liệu của Mỹ [1], trong chiến dịch phía Mỹ đã huy động gần 200 máy bay B-52 (50% số lượng loại máy bay này của Mỹ) và khoảng 1.000 máy bay chiến thuật (trên 30% số máy bay chiến thuật của Mỹ). Các lực lượng trực tiếp tham gia tiến công là:

  • Không đoàn 7 (Seventh air force): trong đó có các liên đội không quân chiến lược B-52 (Strategic Wing) số 43 và 72 đóng tại căn cứ không quân Anderson trên đảo Guam gồm 153 chiếc và liên đội không quân chiến lược số 307 gồm 54 máy bay B-52 đóng tại căn cứ Utapao (Thái Lan); 6 liên đội không quân chiến thuật (Tactical Fighter Wing) gồm 455 máy bay đóng căn cứ tại các căn cứ không quân Ubon Korat và Takhli trên đất Thái Lan, 2 liên đội 124 máy bay đóng tại miền Nam Việt Nam (Đà Nẵng).
  • Không đoàn đặc nhiệm 77 (task force 77) là các máy bay trên các tàu sân bay của Hải quân gồm 6 liên đội với 420 máy bay trên các tàu sân bay:
USS America: liên đội số 8 (Carrier Air Wing 8) là các máy bay F-4, A-6, A-7.
USS Enterprise: liên đội 14 (F-4, A-6, A-7)
USS Midway: liên đội 5 (F-4, A-7)
USS Oriskany: liên đội 19 (F-8, A-7)
USS Ranger: liên đội 2 (F-4, A-6, A-7)
USS Saratoga: liên đội 3 (F-4, -6, A-7)

Trong chiến dịch có tổng cộng 741 lượt B-52 vào ném bom Bắc Việt Nam trong đó có 725 lượt thực sự ném bom, trong thời gian đó vẫn có 212 lượt B-52 đi ném bom ở miền Nam Việt Nam. Hỗ trợ cho các máy bay ném bom là 3920 lượt máy bay chiến thuật của Không quân, Hải quân. Tổng cộng đã có 15.000 tấn bom đã được thả xuống những nơi được Mỹ coi là 18 mục tiêu công nghiệp và 14 mục tiêu quân sự (trong đó có 8 địa điểm có tên lửa SAM).

Cuộc tập kích của không quân Mỹ diễn ra liên tục trong ngày với trọng tâm là các cuộc ném bom của B-52 vào ban đêm, Một lực lượng lớn máy bay B-52, mỗi chiếc mang tối đa 66 quả bom 750-pound (340 kg) hoặc 108 quả bom 500-pound (227 kg) thực hiện các cuộc tấn công hủy diệt hàng đêm tại Hà NộiHải Phòng. còn ban ngày các bay chiến thuật thay nhau liên tục đánh phá ác liệt các sân bay của không quân tiêm kích Bắc Việt Nam, các trận địa tên lửa và các trạm radar phòng không.

Hoa Kỳ đã dùng một biện pháp cực đoan, tàn bạo mà các chuẩn mực chiến tranh thông thường không cho phép: dùng máy bay B52 rải thảm bom huỷ diệt vào một loạt các khu vực dân cư của các thành phố lớn để đánh vào ý chí của dân chúng và đã gây ra thương vong lớn cho dân cư. Thiệt hại về cơ sở hạ tầng tại Bắc Việt Nam là rất nặng nề. Ở Hà Nội, tại phố Khâm Thiên bom trải thảm đã phá sập cả dãy phố và sát hại nhiều dân thường. Bệnh viện Bạch Mai, cơ sở y tế lớn nhất Việt nam đã bị phá huỷ hoàn toàn cùng với các bệnh nhân và bác sĩ, y tá bên trong. Thương vong về dân thường tại Hà Nội được thống kê là 1318 người [2]. Chiến dịch này đã phá hoại nặng nề nhiều cơ sở vật chất, kinh tế, giao thông, công nghiệp và quân sự của Bắc Việt Nam nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của lãnh đạo Bắc Việt Nam.

Về mặt quân sự, Hoa Kỳ đã đánh giá thấp lực lượng phòng không của đối phương. Không lực Hoa Kỳ quá tin tưởng vào các biện pháp kỹ thuật gây nhiễu điện tử để bịt mắt radar và tên lửa phòng không của đối phương. Để đáp lại, các lực lượng tên lửa phòng không của Bắc Việt Nam đã giải quyết vấn đề bằng những biện pháp chiến thuật sáng tạo và hợp lý, họ đã bắn các máy bay B-52 theo xác suất và đã thành công vượt xa mức trông đợi. Cũng trong chiến dịch này, lần đầu pháo đài bay B-52 bất khả chiến bại bị hạ bởi một máy bay tiêm kích MIG-21, do Phạm Tuân điều khiển. Trong toàn chiến dịch, quân đội Bắc Việt đã bắn gần hết lượng tên lửa SAM dự trữ của mình.

Trong đó ngày 20-12 chứng kiến nỗ lực phòng thủ mãnh liệt nhất của Bắc Việt Nam chống lại các máy bay B-52, đó là ngày B-52 phải chịu tổn thất cao nhất trong toàn chiến dịch. Trong đêm đó, lực lượng phòng không Bắc Việt Nam đã đã phóng hơn 200 tên lửa SAM trong suốt 3 đợt tấn công. Lưới lửa được tổ chức và điều khiển rất khôn ngoan. Đôi khi quân Bắc Việt Nam không tấn công biên đội đầu tiên trên vùng trời mục tiêu mà dùng nó để xác định đường bay và các điểm lượn vòng, tiếp đó các biên đội sau phải chịu hỏa lực mạnh ở gần các điểm thả bom, nơi mà họ phải bay ổn định, và trên đường rút khỏi mục tiêu. Trong đêm đó, 4 máy bay B-52 G và 2 máy bay B-52 B bị bắn rơi, một máy bay B-52 D bị bắn hỏng.

Thiệt hại của Không quân Mỹ theo phía Mỹ công bố là 10 chiếc B-52 đã bị bắn rơi trên lãnh thổ Bắc Việt Nam, 4 chiếc khác rơi tại Lào hoặc Thái Lan, 1 chiếc rơi ngay tại căn cứ quân sự. 26 phi công B-52 được cứu thoát, 33 người khác bị chết hoặc mất tích, 33 bị bắt làm tù binh chiến tranh. Đồng thời không quân chiến thuật Mỹ mất 12 máy bay (hai F-111, ba F-4, hai A-7, hai A-6, một EB-66, một trực thăng cứu hộ HH-53, và một máy bay RA-5C), 10 phi công chiến thuật bị chết, 8 bị bắt, và 11 được cứu thoát. Trong số 27 máy bay cả B-52 và chiến thuật bị bắn rơi, 17 trường hợp do trúng tên lửa SAM, 3 trường hợp do bị máy bay MiG tấn công vào ban ngày, 3 do pháo phòng không, và 3 trường hợp không rõ nguyên nhân.

Theo số liệu của Bắc Việt Nam [3], tổng cộng trong 12 ngày đêm có 81 máy bay bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B.52 (có 16 chiếc rơi tại chỗ), 5 chiếc F.111 (có 2 chiếc rơi tại chỗ).

Sách báo Việt Nam gọi chiến dịch Linebacker II này là trận Điện Biên Phủ trên không, như một cách nêu bật thắng lợi của lực lượng phòng không Bắc Việt Nam trong chiến dịch.

[sửa] Sự phản đối của quốc tế

Chiến dịch ném bom bị phản đối rất mạnh mẽ trên khắp thế giới, nhân dân các nước gây áp lực để yêu cầu chính phủ của mình chính thức lên án các cuộc ném bom. Trung QuốcLiên Xô đều đặn thể hiện sự bất bình trước việc tái ném bom, nhưng họ đã không có một động thái nào khác. Thực tế, các chỉ trích mạnh mẽ hơn lại là ở các nước phương Tây. Tại Paris, báo Le Monde so sánh với cuộc ném bom hủy diệt Guernica do Phát-xít Đức thực hiện trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Tờ báo lớn nhất của Anh, the Daily Mirror, bình luận: "Việc Mỹ quay lại ném bom Bắc Việt Nam đã làm cho cả thế giới lùi lại vì ghê sợ" (The American resumption of bombing of North Vietnam has made the world recoil in revulsion). Các chính phủ Anh, ItalyThụy Điển đã lên tiếng. Một trong những phản ứng dữ dội nhất là của thủ tướng Thụy Điển, Olof Palme, ông đã lên án cuộc ném bom là một tội ác chống lại loài người trên qui mô đạo đức của sự tàn bạo của phát xít tại trại tập trung Treblinka[4]. Palme còn đích thân đến một cửa hàng tổng hợp để thu thập chữ ký cho một kiến nghị toàn quốc đòi chấm dứt ném bom - để gửi tới Nixon.

Ngày 30 tháng 12 năm 1972, tổng thống Nixon ra lệnh chấm dứt ném bom (với lý do duy nhất được phát ngôn viên của ông đưa ra là "có dấu hiện rõ ràng rằng đàm phán nghiêm túc có thể được nối lại") và hội đàm lại để ký kết hiệp định. Có hai xu hướng bình luận về sự kiện này. Một xu hướng cho rằng đó là do áp lực của dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, và thất bại trong việc buộc Hà Nội nhượng bộ. Xu hướng khác [5] lại cho rằng đó là do chiến dịch đã đạt được mục tiêu là chính phủ Bắc Việt Nam đã tỏ ý muốn quay lại đàm phán. Tuy nhiên, thực tế là chính phía Mỹ bỏ họp trước và chính phía Mỹ đề nghị nhóm họp lại và điều quan trọng là Hiệp định Paris có phương án cuối cùng về cơ bản không khác mấy so với phương án đã được ký tắt trước khi đàm phán bị đình trệ và chiến dịch Linebacker II được Nixon ra lệnh tiến hành.

[sửa] Chú thích

  1. LINEBACKER II, Walter J. Boyne, November 1997, Vol. 80, No. 11, Air Force Magazine Online
  2. "North Vietnam Says 1,318 Dead in the Raids on Hanoi," New York Times, tháng 5, 1973, tr. 3.
  3. Thượng tá Trần Việt Anh (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam), "Điện Biên Phủ trên không", http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=37&sub=50&article=21499
  4. Nixon's Blitz Leads Back to the Table, Jan. 8, 1973, TIME
  5. LINEBACKER II, Walter J. Boyne, November 1997, Vol. 80, No. 11, Air Force Magazine Online

[sửa] Liên kết ngoài

Một số bài báo đăng trên tạp chí TIME vào các thời điểm quanh chiến dịch Linebacker II:

  • Chronology: How Peace Went off the Rails bài đăng ngày 01-01-1973, trình tự các sự kiện xung quanh đàm phán tại Paris cho đến khi đợt ném bom được bắt đầu.
  • More Bombs Than Ever bài đăng ngày 01-01-1973 về diễn biến đợt ném bom.
  • Outrage and Relief bài đăng ngày 8-01-1973, liệt kê bình luận của báo chí và các chính khách trước và sau khi đợt ném bom chấm dứt.
  • Paris Peace in Nine Chapters bài đăng ngày 05-02-1973. Nội dung hiệp định Paris và so sánh với phiên bản trước cuộc ném bom.
Ngôn ngữ khác