Tôn Dật Tiên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tôn Dật Tiên (chữ Hán: 孫逸仙; hay còn gọi là Tôn Trung Sơn 孫中山; 12 tháng 11, 1866 – 12 tháng 3, 1925) sinh ở tỉnh Quảng Đông trong một gia đình nông dân. Năm 13 tuổi, ông đến học ở Honolulu (Hawaii) vì có người anh buôn bán ở đây.Ông là một lãnh tụ cách mạng Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc lật đổ nhà Thanh và sáng lập Quốc Dân Đảng.
Ngày 11 tháng 1 năm 1911, ông tuyên thệ nhậm chức Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại Nam Kinh. Nhưng một tháng sau, ông nhường chức này cho Viên Thế Khải với điều kiện Viên Thế Khải bắt vua nhà Thanh thoái vị để thành lập chế độ cộng hòa.
Vợ thứ hai của ông là Tống Khánh Linh, sau này cũng làm Chủ tịch danh dự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Con trai ông (với người vợ đầu) là Tôn Khoa sau này làm Thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc.
Ông đã nêu ra chủ thuyết "Tam dân" (dân tộc độc lập,dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc). Ông được dân chúng Trung Quốc gọi là "Quốc phụ" (người cha của đất nước).
[sửa] Tên
Khai sinh: Tôn Đức Minh (孫德明)
Thời niên thiếu: Tôn Đế Tượng (孫帝象)
Đi học: Tôn Văn (孫文)
Lịch sự: Tôn Đại Chi (孫載之)
Hiệu: Nhật Tân (日新); Dật Tiên (逸仙)
Bí danh: Trung Sơn (中山)
Bí danh ở Nhật Bản: Nakayama Sho (中山樵)
Danh xưng: Quốc phụ (國父)
[sửa] Vai trò trong tôn giáo
Cùng với Victor Hugo và Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông được nhận là một trong 3 vị Thánh của đạo Cao Đài.