Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phòng không-Không quân Việt Nam là một trong ba quân chủng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vùng trời trên lãnh thổ Việt Nam.

Cơ quan chỉ huy là Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân.

Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Hữu Đức (thay Trung tướng Nguyễn Văn Thân ngày 7/2/2007)
Chính ủy: Thiếu tướng Phương Minh Hòa, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X.
Phó Chính ủy: Thiếu tướng Đỗ Bá Phụ

Mục lục

[sửa] Các binh chủng

Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam có hai thành phần chính là Bộ đội Phòng không và Bộ đội Không quân.

Bộ đội Phòng không có các binh chủng:

  • Binh chủng Tên lửa Phòng không. Thành lập ngày 24 tháng 3 năm 1967. Ngày truyền thống: 24 tháng 7 năm 1965 (ngày ra quân bắn rơi một tốp một tốp 3 chiếc máy bay F-4C của Mỹ).
    • Sư đoàn: 361, 363, 367.
  • Binh chủng Ra-đa Phòng không. Được xây dựng từ năm 1956. Ngày truyền thống: 1 tháng 3 năm 1959 (ngày phát sóng ra đa lần đầu tiên)
  • Binh chủng Pháo Phòng không

Bộ đội Không quân có các binh chủng:

Xem bài chính về Không quân Nhân dân Việt Nam
    • Sư đoàn 371 (Đoàn B71 hay Đoàn Thăng Long), thành lập ngày 24 tháng 3 năm 1967.
    • Sư đoàn 372 (Đoàn B72)
  • Binh chủng Không quân tiêm kích-bom
  • Binh chủng Không quân vận tải
  • Binh chủng Không quân trinh sát

[sửa] Các cơ quan và đơn vị trực thuộc

  • Bộ Tham mưu
  • Cục Chính trị
    • Bảo tàng Không quân. Địa chỉ: 86 đường Trường Chinh, Hà Nội. Hoạt động từ ngày 3 tháng 4 năm 1985.
    • Bảo tàng Phòng không. Địa chỉ: 176 đường Trường Chinh, Hà Nội. Ra đời ngày 25 tháng 12 năm 1959 với tên gọi Nhà truyền thống Bộ Tư lệnh Phòng không, mở cửa tại 176 đường Trường Chinh từ ngày 1 tháng 4 năm 1979.
  • Cục Hậu cần
  • Cục Kỹ thuật
  • Cục Phòng không Lục quân. Là cơ quan tham mưu giúp Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam và Bộ Quốc phòng chỉ đạo tác chiến, huấn luyện, xây dựng lực lượng phòng không 3 thứ quân. Thành lập ngày 5 tháng 6 năm 1968 với tên gọi Phòng Cao xạ dã chiến; đến ngày 10 tháng 7 năm 1979 đổi thành Cục Phòng không dã chiến; từ 25 tháng 8 năm 1988 mang tên gọi như hiện nay.
    Cục trưởng: Thiếu tướng Nguyễn Văn Chương
  • Học viện Phòng không-Không quân. Thành lập năm 1986.
    Trụ sở chính: Sơn Tây, Hà Tây;
    Cơ sở 2: Đường Trường Chinh, Hà Nội.
  • Viện Kỹ thuật Phòng không- Không quân. Trụ sở: Đường Hoàng Văn Thái, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
  • Trường Sĩ quan Không quân (chuyên đào tạo phi công). Trụ sở: Thành phố Nha Trang, Khánh Hòa
  • Tổng Công ty Bay Dịch vụ Việt Nam
  • Công ty Xây dựng Công trình Hàng không
  • Công ty sửa chữa máy bay A32
  • Công ty Sửa chữa máy bay A41
  • Công ty sửa chữa máy bay A42
  • Công ty Thiết bị điện tử A45

[sửa] Lịch sử

Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 10 năm 1963 trên cơ sở sáp nhập Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân. Trước đó, Bộ Tư lệnh Phòng không được thành lập theo Nghị định 047/NĐ ngày 21 tháng 3 năm 1958 và Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu được thành lập ngày 24 tháng 1 năm 1959.

Ngày 21 tháng 3 năm 1958, thành lập Trung đoàn ra đa cảnh giới đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam với tên gọi Trung đoàn đối không cần vụ 260. Đến tháng 9 năm 1960 đổi thành Trung đoàn ra đa tình báo 300, từ tháng 5 năm 1961 mang tên Trung đoàn ra đa 291 (còn gọi là "Đoàn Ba Bể"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 365.

Ngày 22 tháng 6 năm 1958, thành lập Trung đoàn pháo phòng không 230 ("Đoàn Thống Nhất"), trang bị pháo 57 mm đầu tiên của quân đội. Nay thuộc Sư đoàn phòng không 367.

Ngày 25 tháng 4 năm 1959, thành lập Trung đoàn pháo phòng không 280 ("Đoàn Hồng Lĩnh"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 361.

Ngày 1 tháng 5 năm 1959, thành lập Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên: Trung đoàn 919.

Ngày 3 tháng 2 năm 1964, thành lập Trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên số hiệu 921 ("Đoàn Sao Đỏ") với 32 chiếc máy bay chiến đấu MiG-17, 4 chiếc máy bay MiG-15. Từ tháng 4 năm 1965 chuyển sang máy bay MiG-21.

Ngày 7 tháng 1 năm 1965, thành lập Trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên: Trung đoàn 236 ("Đoàn Sông Đà"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 361.

Ngày 3 tháng 4 năm 1965, Không quân Nhân dân Việt Nam đánh thắng trận đầu, bắn rơi 2 máy bay F-8 của Mỹ.

Ngày 22 tháng 4 năm 1965, thành lập Trung đoàn tên lửa tầm trung 238 ("Đoàn Hạ Long"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 363.

Ngày 19 tháng 5 năm 1965, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Nội (từ tháng 3 năm 1967 đổi là Sư đoàn phòng không 361) và Bộ Tư lệnh Phòng không Hải Phòng (từ tháng 3 năm 1967 đổi là Sư đoàn phòng không 363).

Ngày 4 tháng 8 năm 1965, thành lập Trung đoàn Không quân tiêm kích 923 ("Đoàn Yên Thế"), gồm 2 đại đội, 17 phi công, sử dụng máy bay MiG-17.

Ngày 13 tháng 11 năm 1965, thành lập Trung đoàn tên lửa 257 ("Đoàn Cờ Đỏ"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 361.

Ngày 20 tháng 4 năm 1966, thành lập Trung đoàn ra đa 293, thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không.

Ngày 30 tháng 5 năm 1966, thành lập 3 trung đoàn tên lửa phòng không 261 ("Đoàn Thành Loa"), 263, 267, thuộc Bộ Tư lệnh Quân chủng. Nay thuộc Sư đoàn phòng không 367.

Ngày 15 tháng 6 năm 1966, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Quân khu 4.

Ngày 21 tháng 6 năm 1966, thành lập Sư đoàn phòng không 367. Tiền thân là trung đoàn pháo cao xạ 367, thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1953, chuyển thành Đại đoàn pháo cao xạ 367 ngày 21 tháng 9 năm 1954, trước đây thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh, sau này tách ra đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Phòng không (1958).

Ngày 23 tháng 6 năm 1966, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Bắc, đến 16 tháng 3 năm 1967 đổi tên thành Sư đoàn phòng không 365.

Ngày 23 tháng 3 năm 1967, thành lập các Binh chủng Ra-đa, Tên lửa Phòng không và Không quân.

Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ tư lệnh không quân được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 1 năm 1968, thành lập Sư đoàn phòng không 375 thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 4.

Ngày 27 tháng 5 năm 1968, thành lập Sư đoàn phòng không 377.

Tháng 3 năm 1972, thành lập Trung đoàn không quân thứ 3, Trung đoàn 927 ("Đoàn Lam Sơn").

Ngày 29 tháng 3 năm 1973, thành lập Sư đoàn phòng không 673 tại Trị-Thiên.

[sửa] Tách thành hai Quân chủng (1977-1999)

Trong thời gian từ 16 tháng 5 năm 1977 đến 3 tháng 3 năm 1999, Quân chủng Phòng không-Không quân tách ra thành hai Quân chủng Phòng không và Không quân riêng biệt.

[sửa] Chỉ huy và lãnh đạo qua các thời kỳ

[sửa] Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân

  • Phùng Thế Tài (1963-1967), Thượng tướng
  • Đặng Tính (1967-1969), kiêm Chính ủy, Đại tá
  • Lê Văn Tri (1969-1977), Trung tướng

Thời kỳ 1977-1999 tách thành 2 quân chủng.

  • Nguyễn Văn Thân (?-2007), Trung tướng
  • Lê Hữu Đức (từ 2007), Thiếu tướng

[sửa] Chính ủy Quân chủng Phòng không-Không quân

  • Đặng Tính (1967-1969), Đại tá
  • Hoàng Phương (1971-1977), Trung tướng

Thời kỳ 1977-1999 tách thành 2 quân chủng.

  • Phương Minh Hòa, Thiếu tướng

[sửa] Tư lệnh Quân chủng Phòng không

  • Hoàng Văn Khánh (1977-1982), Trung tướng

[sửa] Chính ủy Quân chủng Phòng không

  • Nguyễn Xuân Mậu (1977-?), Trung tướng

[sửa] Tư lệnh Quân chủng Không quân

  • 1977-1986: Trung tướng Đào Đình Luyện, kiêm Chính ủy (đến 1980)
  • 1986-1989: Thiếu tướng Trần Hanh
  • 1989-1996: Trung tướng Phạm Thanh Ngân
  • 1996-1997: Thiếu tướng Nguyễn Văn Cốc (Quyền Tư lệnh)
  • 1997-1999: Thiếu tướng Nguyễn Đức Soát

[sửa] Chính ủy Quân chủng Không quân

  • 1977-1980: Đại tá Đào Đình Luyện
  • 1980-1987: Thiếu tướng Chu Duy Kính
  • 1987-1989: Thiếu tướng Phạm Thanh Ngân
  • 1989-1996: Thiếu tướng Phạm Tuân
  • 1996-1999: Thiếu tướng Hán Vĩnh Tưởng