Lê Nhân Tông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Nhân Tông | |
---|---|
Tên húy | Lê Bang Cơ |
Sinh | 1441 |
Mất | 1459 |
Trị vì | 1442 - 1459 |
Triều đại | Nhà Hậu Lê |
Niên hiệu | Thái Hòa (1443 - 1453) Diên Ninh (1454 - 1459) |
Miếu hiệu | Nhân Tông |
Thụy hiệu | Tuyên Hoàng Đế. |
Lê Nhân Tông (1441-1459) là vua thứ 3 nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, trị vì 17 năm, từ 1442 đến 1459. Lê Nhân Tông tên thật là Lê Bang Cơ, người Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hoá, Việt Nam.
Mục lục |
[sửa] Tiểu sử
Lê Bang Cơ sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu (1441), là con thứ 3 của vua Lê Thái Tông và bà phi Nguyễn Thị Anh - người làng Bố Vệ huyện Đông Sơn, Thanh Hoá. Theo gia phả họ Đinh Danh (dòng họ của công thần Đinh Liệt), ông không phải là con đẻ của Thái Tông. Bà Nguyễn Thị Anh đã mang thai ông với Lê Bang Sơn trước khi vào cung với Lê Thái Tông.
Trước khi Bang Cơ ra đời, vua Lê Thái Tông mới gần 20 tuổi đã có 2 người con trai: Bà Chiêu nghi Dương Thị Bí sinh ra Lệ Đức hầu Nghi Dân; một bà vợ khác sinh ra Cung vương Lê Khắc Xương. Không lâu sau đó một bà vợ khác của Thái Tông là Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao sinh ra Lê Tư Thành (sau là vua Lê Thánh Tông).
[sửa] Sự nghiệp
[sửa] Thái hậu nhiếp chính
Vì mẹ được vua yêu nên Lê Bang Cơ ra đời chưa được nửa năm, ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu (1441) đã được lập làm thái tử, thay cho anh là Nghi Dân lên 2 tuổi bị truất vì bà mẹ của Nghi Dân là Dương Thị Bí đã bị truất ngôi hoàng hậu.
Sau vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng, vua Thái Tông đột ngột qua đời khi mới 20 tuổi, ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442), thái tử Bang Cơ được các đại thần Trịnh Khả, Lê Thụ, Nguyễn Xí lập lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Thái Hoà (1443-1453), tức là Lê Nhân Tông. Lúc đó ông mới lên 2 tuổi, thái hậu Nguyễn Thị buông rèm nghe chính sự. Thái hậu dùng phép sẵn có từ đời trước, được các đại thần đắc lực của tiên triều phò tá nên trong khoảng hơn 10 năm giúp ấu chúa, cả nước bình yên.
Vua Chiêm Thành là Bí Cai 2 lần mang quân vây Hoá châu. Năm 1446, thái hậu sai Trịnh Khả Lê Thụ, Lê Khắc Phục đi đánh, Bí Cai ra hàng, các tướng lập cháu Bí Cai là Tả Quý Lai làm vua Chiêm.
Thái hậu Nguyễn Thị nhiếp chính giết oan hai công thần Trịnh Khả và Lê Khắc Phục năm 1451, nghe gièm pha cách chức Nguyễn Xí năm 1445, tới năm 1448 mới cho phục chức.
[sửa] Ra cầm chính sự
Tháng 11 năm Quý Dậu (1453), vua lên 12 tuổi, có thể tự coi chính sự, Thái hậu trả lại quyền chính cho vua rồi lui về ở cung riêng. Khi tự mình ra coi chính sự, vua đổi niên hiệu là Diên Ninh (1454-1459).
Dưới thời vua Lê Nhân Tông, năm Quý Hợi (1455) lần đầu tiên triều đình sai Phan Phu Tiên soạn Đại Việt Sử ký tục biên, viết tiếp quyển thời Trần từ Trần Thái Tông cho đến khi người Minh về nước.
Vua Nhân Tông tỏ ra là người độ lượng với các công thần khai quốc bị hại trước đây, từ thời ông nội Lê Thái Tổ, vua cha Lê Thái Tông tới mẹ Nguyễn Thị Anh chấp chính. Ngay khi ra cầm chính sự, ông ra nhiều chiếu chỉ biểu dương công lao của họ, hoặc trả lại của cải, ruộng đất cho con cháu họ. Ông khôi phục lại quan tước và ban cho con cháu Trịnh Khả (bị hại năm 1451) 100 mẫu ruộng; cấp 100 mẫu ruộng cho con cháu Lê Sát và Lê Ngân (bị hại năm 1437); trả lại điền sản trước đây cho con cháu Phạm Văn Xảo (bị hại năm 1430) và Trần Nguyên Hãn (bị hại năm 1429). Ông biểu dương công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi (bị hại năm 1442): "Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng". Tuy nhiên, ông vẫn chưa minh oan cho Nguyễn Trãi, điều mà vua em Thánh Tông đã làm sau này.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng điều đó liên quan tới nỗi oan khuất của Nguyễn Trãi trong vụ án Lệ Chi Viên mà chính mẹ ông là thủ phạm hại vua cha Thái Tông để giấu thân thế của ông; lời dị nghị của mọi người ngày càng nhiều khiến ông phần nào nhận ra thân thế của mình. Bản thân Nhân Tông cũng ở vào thế khó xử khi phải phân biệt đúng sai rành mạch.
[sửa] Mẹ con chịu nạn
Xem chi tiết: Lê Nghi Dân, Vụ án Lệ Chi Viên
Mặc dù là một ông vua sáng và nhân từ, nhưng bởi Nhân Tông không phải là con đích của vua cha nên anh cả là Lạng Sơn Vương Nghi Dân vẫn thường có lòng oán hận và muốn đoạt ngôi. Một số ý kiến cho rằng ngày càng có nhiều người dị nghị về nguồn gốc của Nhân Tông (không phải là con của Thái Tông) nên càng thúc đẩy Nghi Dân nổi loạn.
Theo Đại Việt thông sử, Nhân Tông nghĩ Nghi Dân là anh ruột nên nên không có ý đề phòng gì cả. Ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), Nghi Dân đang đêm cùng các thủ hạ bắc thang vào tận trong cung cấm giết vua Nhân Tông. Hôm sau Hoàng thái hậu cũng bị hại. Khi đó vua mới 19 tuổi, trị vì được 17 năm.
Nghi Dân tự xưng làm vua, nhưng chỉ sau 8 tháng lại bị các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt làm binh biến giết chết rồi lập con út của vua Thái Tông lên làm vua, tức là vua Lê Thánh Tông.
[sửa] Bình luận
Bài văn bia tại Mục Lăng do Nguyễn Bá Kỷ sau có ghi nhận xét về Lê Nhân Tông như sau:
- "Vua thần sắc anh tuấn, dung dáng đúng đắn, mỗi khi tan chầu, thân đến kinh diên đọc sách, mặt trời xế bóng về Tây mới thôi. Khi đã thân coi chính sự thì tế thần kỳ, thờ tôn miếu, đối với Thái hậu thì dốc lòng hiếu đễ, đối với anh em thì hết lòng thương yêu, hoà thuận với họ hàng, kính lễ với đại thần, tôn chuộng nho thuật, xét lời gần, nghe lời xa, chăm sóc chính sự, cẩn thận thưởng phạt, trọng việc nông tang chuộng nghề gốc rễ, hết lòng thương dân, không thích xây dựng, không ham săn bắn, không gần thanh sắc, không hám tiền của, hậu đối với người, bạc đối với mình, bên trong yên tĩnh, bên ngoài thuận lòng, răn cấm tướng ngoài không gây hấn khích. Đến khi Chiêm Thành hai lần cướp Hoá Châu thì sai tướng đem quân đi đánh, giết được vua Chiêm là Bí Cai, nước lớn sợ uy, nước nhỏ mến đức. Phàm chính sự đều noi theo phép cũ, đều có phép sẵn, sai đình thần bàn hết tất cả rồi mới thi hành; cho nên chính trị hay giáo hoá tốt, khắp ra bốn biển, trăm họ mến đức, đời được thái bình."
Trái với những hành động tàn sát đối với thân tộc và các tướng lĩnh đáng nghi của Tần Thủy Hoàng khi nghe những lời dị nghị về thân thế của mình để loại trừ các nguy cơ đối với ngôi vị cai trị, Lê Nhân Tông tỏ ra là một vị vua nhân từ, độ lượng, vị tha. Ông không có tính hay nghi kỵ như ông nội Lê Thái Tổ, "không gần thanh sắc" như vua cha Thái Tông và vua em Thánh Tông và cũng không có hùng tâm như 3 người đó; không mạnh mẽ như Lê Nghi Dân; "không ham săn bắn", không ưa tàn sát như Lê Uy Mục, "không thích xây dựng" như Lê Tương Dực sau này. Đã vậy, lại "không hám tiền của, hậu đối với người, bạc đối với mình", Nhân Tông là ông vua hiếm có của nhà Lê sơ. Cá tính của ông không giống ông, cha và con cháu Thái Tổ, cũng không giống sự quyết đoán của mẹ; bởi ông có thái hậu và các đại thần lo liệu sắp đặt mọi việc hay phải chăng bởi quả thực ông không phải là con vua Lê Nguyên Long? Nếu Bang Cơ sớm bị "gạt ra rìa" như anh hai Khắc Xương (vì mẹ thất sủng), có lẽ ông sẽ chọn cuộc sống đạm bạc, giản dị như Khắc Xương.
[sửa] Xem thêm
[sửa] Liên kết ngoài
[sửa] Tham khảo
- Đại Việt Sử ký tục biên
- Đại Việt thông sử
- Các triều đại Việt Nam - Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, NXB Thanh niên, 2001
Tiền nhiệm: Lê Thái Tông |
Vua nhà Hậu Lê 1442-1459 |
Kế nhiệm: Lê Nghi Dân |