Hồ Sĩ Dương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Hồ Sĩ Dương (1621 - 1681) Người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh lưu - tỉnh Nghệ An. Năm Ất Dậu, niên hiệu Phúc Thái thứ 3 (1643). Ông 23 tuổi đậu gải nguyên, khoa Mậu Tý (1648) thi hộ trường Thanh, đỗ giải nguyên bị phát giác, cách chức thủ khoa đẩy đi lính. Năm Tân Mão (1651) được ân xá, thi đậu giải nguyên (ba lần đậu giải nguyên - đó là hiện tượng hiếm có). Năm Nhâm Thìn (1652)đậu tiến sĩ. Năm Kỷ Hợi - triều đình mở khoa Đông các lấy 5 người, 2 người là đông các, 3 người là hiệu thư. Dự thi là những người đã đậu các kỳ thi đình. Ông chỉ đậu thứ 2 tiến sĩ, không được nằm trong danh sách dự thi. Ông khiếu nại trường hợp của ông: ba lần đậu thủ khoa và kỳ thi tiến sĩ đáng lý bài ông vào hạng nhất. Vua đồng ý cho ông dự thi. Ông cùng ông Hoàng giáp Nguyễn Văn Giai, người Phù Lưu Trường (nay là xã Hậu Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) đậu đông các. Ông được bổ chức lại khoa đô cấp sư trung thăng đông các đại học sĩ, được cử đi giao thiệp tranh cãi biên giới 5 lần đều thắng lợi. Sau đó ông được thăng binh bộ tả thị lạng Thượng tướng quân. Năm 1673 được cử làm chánh sứ. Năm Bính Thìn được sai giám tu quốc sử thượng thư bộ hình kiếm đông các đại học sĩ. Ông được người trong nước và ngoài nước đánh giá cao (Chu Xán, sứ nhà Thanh sang nước ta vào năm Chinh Hòa thứ 4 (1683) có thơ về Việt Nam, có câu: "Y quan văn vật trọng nam cương" lại tự chua rằng "Nhân vật nước này về lý học có Trinh Tuyền, Vũ Duệ, Nguyễn Đăng Cao và Hồ Sĩ Dương, về kinh tế có Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh, Kiến Văn tiểu lục - Lê Quý Đôn, nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội 1977 - Tr 283). Khi ông mất được phong Thiếu bảo duệ quận công. Theo sách "Công dư tiệp ký" của Vũ Phương Đề thì nhờ thầy học là Dương Tồn truyền binh pháp nên có lần đi sứ sang Trung Hoa ông đã đem thao lược giúp nước Tàu đánh tan được giặc, còn ơ nước nhà trong dịp Na chinh ông đã từng lập chiến công khiến cho lân bang phải kinh sợ (Danh nhân Việt Nam - Từ điển Nguyễn Huyền Anh - Nhà xuất bản Khai Trí Sài Gòn)

Tác phẩm ông để lại:

 - Trùng tu Lam Sơn thực lực
 - Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lực
 - Hoan Châu phong thổ ký
 - Hồ thượng thư gia lễ
 Ông vốn là con giám sinh Hồ Hoàng nhưng cha mất sớm, nhà rất nghèo. Bà mẹ là Hoàng Thị Tâm phải làm thuê bán nước ở chợ, tần tảo nuôi ông. Năm 12 tuổi ông đã nổi tiếng thông minh. Lúc đã vào tuổi thanh niên , ông có cô Trương Thị Thành, con gái Trình quận cômng - Trương Đức Thọ ơ Phú Nghĩa đi qua làng, ông đùa nghịch xin trầu. Cô thành không giận, tặng cả hộp trầu. Ông dem lòng yêu mến, bảo mẹ xuống Phú Nghĩa hỏi cưới cô Thành làm vợ. Quan quận bất bình cho là phạm lễ giáo phong kiến vì không môn đăng hộ đối, đuổi con gái về Quỳnh Đôi và ra hạn khi nào ông Dương làm nên sự nghiệp thì trải chiếu hoa từ Quỳnh Đôi xuống Phú Nghĩa mới nhận làm con rễ. Ông quyết chí học tập, sau thành đạt, thực hiện được lời xưa của bố vợ - trải chiếu hoa từ làng Quỳnh xuống làng Hậu đón bố vợ. Người đời sau có câu ca dao về ông :
             " Ngày ngày ghánh nước đảm đang
              Mai sau Đông các nghênh ngang làng Nồi"

Nói đến sự nghiệp của ông, từ xưa dân làng thường nhắc đến mẹ ông và vợ ông, hai người đàn bà có công nuôi dưỡng giúp đỡ ông. Có một câu chuyện rất thú vị về mẹ ông, bà Hoàng Thị Tâm. Lúc ông đậu tiến sĩ, bà đang cấy ngoài ruộng xa, có người chạy ra báo tin mừng với bà và mời bà về. Bà vẫn tiếp tục cấy cho hết buổi và nói với người báo tin: "Con đậu tiến sĩ nhưng mẹ không làm, không cày cấy thì lấy cơm đâu mà ăn!" Bà Trương Thị Thành vợ ông đã xuất tiền nuôi ông ăn học, bà chăm chỉ lao động, kính trọng mẹ chồng, ăn ở tốt với bà con. Lúc ông trơ thành quan to, bà khuyên dem ruộng cúng cho làng, dem tiền gạo cứu tế cho dân nghèo, bà còn đem nghề Mộc ở Phú Nghĩa lên Quỳnh Đôi.