M'nông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Người M'nông ở Việt Nam theo tổng điều tra dân số 0l/04/1989 có 67.340 người. Địa bàn cư trú của người M'nông bao gồm những phần đất thuộc Tây- Nam tỉnh Đăk Lăk, tỉnh Lâm Đồng và các huyện miền núi thuộc tỉnh Bình Phước. Ngoài ra, họ còn cư trú ở phía Đông lãnh thổ Campuchia trên những cao nguyên giáp ranh với hai tỉnh Đăk Lăk và Bình Phước của Việt nam. Nhưng tập trung đông nhất là tại các huyện: Đăk Lắk
Nông, Đăk Min, Krông Khô, Krông Pách, EA Súp và M'Đrăk, tỉnh Đăk Lăk.
Dân tộc M'nông thuộc nhóm loại hình nhân chủng Anđônêdien. Có tầm vóc thấp, nước da ngăm đen, môi hơi dày, râu thưa, mắt nâu đen, tóc đen, thẳng. Nhiều người có tóc uốn.
Ngôn ngữ M'nông thuộc nhóm Môn- Khơme miền núi phía Nam. Trong vốn từ vựng M'nông bộc lộ rõ sự ảnh hưởng của tiếng Chăm, qua ngôn ngữ "Đ", Giarai, là những ngôn ngữ thuộc nhóm Malayo- Pôlynêxia, bên cạnh sự ảnh hưởng sâu đậm hơn của ngôn ngữ Môn- Khơme...
Trong quá trình lịch sử phát triển tộc người của mình, do địa bàn cư trú phân tán trên một vùng rừng núi hiểm trở, việc giao lưu giữa các vùng M'nông 'rất khó khăn, hạn chế, đã phân chia cư dân M'nông ra rất nhiều nhóm địa phương. Nhưng các nhóm này vẫn tự nhận một tên gọi chung là M'nông.
Những nhóm địa phương của người M'nông có thể kể đến như:
- M'nông Gar, ở Tây Bắc Lâm Đồng và vùng hồ Lăk thuộc tỉnh Đăk Lăk
- M'nông Chil, cư trú trên địa bàn huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Lâm Hà và huyện Lắk thuộc tỉnh Đăk Lăk...
- M'nông Nông, ở Đăk Nông, Đăk Min tỉnh Đăk Lăk.
- M'nông Préh, ở Đăk Nông, Đăk Min, Krông Nô, Lắk, tỉnh ĐăkLăk
- M'nông Kuênh, ở huyện Krông Pách, tỉnh Đăk Lăk.
- M'nông Prâng, ở Đăk Nông, dăk Min, Lắk và EA Súp, tỉnh ĐăkLăk
- M'nông R'Lâm, ở huyện Lắk, tỉnh Đăk Lăk.
- M'nông Bu đâng, ở Bản Đôn, Đăk Lăk.
- M'nông Bu Nor, ở các huyện Đăk Nông, Đăk Min, tỉnh Đăk Lăk.
- M,nông Din Bri, ở vùng tả ngạn sông EA Krông, tỉnh ĐăkLăk
- M'nông Đíp, ở tỉnh Bình Phước và Đăk Lăk.
- M'nông Bíat, ở tỉnh Bình Phước và bên kia biên giới Campuchia- Việt nam.
- M'nông Bu Dêh, ở vùng giáp ranh giữa tỉnh Bình Phước và tỉnh Dăk Lăk.
- M'nông Si Tô, ở huyện Đăk Nông tỉng Đăk Lăk.
- M'nông káh, ở các huyện Lắk, Đăk Nông, M'Drăk, tỉnh Đăk Lăk.
- M'nông Phê Dâm, ở vùng Quảng Tín, huyện Đăk Nông, tỉnh Đăk Lăk
Ngoài ra, còn â1y nói đến một số nhóm địa phương khác của người M'nông như. M'nông Rơ Đe, M'nông R'ông, M'nông K'Ziêng... cư trú ở Campuchia.
Do có nhiều nhóm địa phương như vậy, nên cộng đồng dân tộc M'nông có nhiều phương ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ M'nông miền Đông và phương ngữ M'nông miền Tây; Sự khác nhau giữa các phương ngữ đó là không đáng kể; Giữa các phương ngữ đó đều dễ dàng nghe và hiểu tiếng nói của nhau.
Người M'nông là cư dân nông nghiệp từ lâu đời. Trong sinh hoạt kinh tế truyền thống, phương thức phát rừng làm rẫy (mir) chiếm vị trí trọng yếu. Cây lương thực chính của đồng bào là lúa tẻ. Số lượng lúa nếp gieo trồng không đáng kể. Ngoài lúa ra, ngô, khoai, sắn cũng được đồng bào trồng thêm trên rẫy để làm lương thực phụ và nhất là dùng cho chăn nuôi heo, gà...
Công cụ làm rẫy của người M'nông Gar, M'nông Chil chủ yếu là: Chà gạc (Viêh), rìu (sùng), gậy chọc lỗ (Rmul), cuốc, Wăng Wít (dụng cụ làm cỏ) và cào...
Việc săn thú phát triển ở vùng M'nông Gar, ở địa phương với nhiều kinh nghiệm săn lùng, săn rình và gài cạm bẫy để bắt thú rừng. Đặc biệt là nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng của người M'nông. Voi rừng săn được, đem về thuần dưỡng biến thành vật nuôi trong gia đình và được dùng làm phương tiện vận chuyển đường rừng rất hữu hiệu. Xưa kia, người M'nông còn dùng voi làm chiến tượng trong chiến tranh bộ lạc...
Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm như: trâu, bò, dê, lợn, gà, vịt ở người M'nông Gar, M'nông Chil chủ yếu là dùng vào các lễ hiến sinh mà mỗi năm các gia đình người M'nông thường phải tổ chức nhiều lần theo chu kỳ nông nghiệp cổ truyền và đời sống của họ...
Nhà của người M'nông Gar, thường có mái buông chùm gần sát mặt đất, có kiến trúc mái cửa vòm như cửa tò vò, trông rất đẹp mắt.
Thông thường, mỗi ngôi nhà của người M'nông Gar, M'nông Chil ở địa phương là nơi cư trú của nhiều hộ gia đình có quan hệ huyết thống về phía mẹ.
Ở người M'nông Gar, M'nông Chil, ngoài cách nấu cơm bằng những nồi đất nung, đồng bào còn có thói quen ăn món cháo chua vào bữa trưa. Khi đi làm rẫy, cháo chua thường được đựng trong vỏ quả bầu khô mang theo... Thức ăn thông thường của đồng bào, là muối ớt., cá khô, thịt thú ăn được và các loại rau rừng...
Rượu cần, là một nhu cầu phổ biến đối với người M'nông. Nam, nữ, trẻ, già ai cũng thích rượu cần và thuốc lá cuốn...
Đồng bào M'nông, có tập quán cưa bằng một số răng cửa đối với thanh niên nam, nữ đang trưởng thành và xâu thủng lỗ tai để mang đồ trang sức. Hoa tai thường là một khúc ngà voi, hay một khúc tre vàng óng hay một thỏi gỗ quý. Dái tai của một số lão ông, lão bà có khi xệ xuống chạm vai và như thế được coi là đẹp, là người sang trọng. Cùng với tập tục cà răng, căng tai là tập quán nhuộm răng đen và ăn trầu giống như người Kinh...
Người M'nông thích mang nhiều đồ trang sức như: vòng cổ, vòng tay, vòng chân, hoa tai, nhẫn bằng đồng hay bằng bạc...
Riêng nữ giới còn thích quàng lên cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc Những chiếc vòng đồng là cái mà hầu như người M'nông nào cũng có. Đó là kỹ vật của các lễ hiến sinh, hay lễ kết nghĩa anh em, bạn bè. Nó còn tượng trưng cho sự giao ước với thần linh thay lời hứa hôn của đôi trai gái theo tập quán cổ truyền của dân tộc?
Xã hội truyền thống của người M'nông còn bảo lưu những dấu ấn khá sâu đậm của chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân. Sau lễ cưới, người con trai thường ở bên nhà vợ. Con cái sinh ra đều theo dòng họ mẹ và quyền thừa kế tài sản đều thuộc về những người con gái trong gia đình.
Trước đây, người M'nông theo tín ngưỡng đa thần, đặc biệt là các vị thần nông nghiệp và các vị chư thần giống như các vị thần của người Cơ Ho, người Mạ. Đạo Thiên chúa và nhất là đạo Tin lành đã thâm nhập và phát triển vào vùng người M'nông.
54 dân tộc Việt Nam Xếp theo nhóm ngôn ngữ |
![]() |
||||||||||||||||||
|