Sukhoi Su-30
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sukhoi Su-30 "Flanker-C" | |
---|---|
Kiểu | Máy bay chiến đấu đa năng |
Hãng sản xuất máy bay | Sukhoi |
Chuyến bay đầu tiên | 1989 |
Được giới thiệu | 1993 |
Hãng sử dụng chính | Không quân Nga Không quân Ấn Độ Không quân Trung Quốc Không quân Malaysia Không quân Indonexia Không quân Việt Nam |
Chi phí máy bay | 33 - 45 triệu USD |
Được phát triển từ | Sukhoi Su-27 |
Sukhoi Su-30 (tên ký hiệu của NATO: "Flanker-C") là máy báy quân sự linh hoạt được phát triển bởi Công ty hàng không Sukhoi của Nga vào năm 1996. Nó là loại máy bay chiến đấu đa chức năng tốc độ siêu âm trên không nhưng nó cũng có thể đảm nhiệm vai trò là một máy bay tiêm kích tấn công yểm trợ trên không. Máy bay này có thể so sánh với loại máy bay F/A-18E/F Super Hornet - Siêu ong bắp cày và F-15E Strike Eagle - Đại bàng tấn công của Hoa Kỳ.
Đây là một phiên bản hiện đại hóa của Su-27UB và có vài phiên bản khác. Series Su-30K và series Su-30MK đều có những thành công trong thương mại. Sự khác nhau về tên gọi là do các phiên bản được sản xuất bởi 2 công ty con đang có sự cạnh tranh - KNAAPO và Công ty Irkut, cả 2 đều nằm dưới sự điều khiển của tập đoàn Sukhoi. KNAAPO sản xuất Su-30MKK và Su-30MK2, chúng được thiết kế và bán cho Trung Quốc và Việt Nam. Phiên bản Su-30 hiện đại nhất trong trang bị thuộc về series Su-30MK của Irkut, mà bao gồm cả Su-30MKI, một máy bay chuyên dụng được phát triển cho Không quân Ấn Độ và những thiết kế từ Su-30MKI, Su-30MKM và Su-30MKA được xuất khẩu cho riêng Malaysia và Algeria (M-Malaysia và A-Algeria). Series Su-30MK là máy bay chiến đấu tầm xa, đa chức năng. Có vài sự khác nhau giữa máy bay chiến đấu của KNAAPO và Irkutsk, và những thiết kế sau đó được xem xét tổng hợp lại để trở thành thiết kế máy bay của Nga trong trang bị ngày nay.
Mục lục |
[sửa] Phát triển đầu tiên máy bay đánh chặn tầm xa Su-27PU
Trong khi phiên bản gốc Su-27 có tầm hoạt động khá tốt, nó vẫn vị coi là không có đủ tầm hoạt động để thực hiện các nhiệm vụ phòng không của PVO Strany (từ viết ngắn cho "Protivovozdushnaya Oborona" — "Air Defence" - "Phòng Không"), các hoạt động phòng không bao trùm lên toàn bộ lãnh thổ rộng lớn của Liên Xô. Do đó, Su-27PU được phát triển vào năm 1989 như một máy bay đánh chặn tầm xa và máy bay chỉ huy trên không. Phiên bản huấn luyện chiến đấu Su-27UB 2 chỗ được lựa chọn như một nền tảng cơ sở cho Su-27PU, vì nó có hiệu suất và đặc tính của một chiếc Su-27 một chỗ, và khi thực hiện các nhiêm vụ tầm xa đòi hỏi phải có 2 phi công, điều này giúp cho hiệu suất tác chiến của máy bay tăng lên.
- Để Su-27UB thích nghi trong vai trò mới, máy bay được trang bị hệ thống tiếp nhiên liệu trên không có thể mở ra thu lại, để tăng thêm tầm hoạt động, cần tiếp nhiên liệu nằm ở bên trái mũi máy bay, để lắp thêm hệ thống này thì hệ thống IRST đã phải chuyển sang cạnh phải của máy bay.
- Hệ thống điện tử được thay đổi, được dùng riêng cho truyền đạt thông tin và dẫn đường để hình thành mệnh lệnh bay của máy bay đánh chặn Su-27 một chỗ. Buồng lái phía sau được trang bị màn hình hiển thị CRT khổ lớn, cung cấp thông tin hướng dẫn với các thông tin chiến thuật về mục tiêu và máy bay đang điều khiển. Hệ thống dẫn đường và fly-by-wire đã được nâng cấp. Nó trang bị một radar nâng cấp NIIP N001, cung cấp thông tin cho sự tấn công mặt đất, tìm đường và khả năng theo dõi tấn công nhiều mục tiêu cùng lúc trên không.
- Sukhoi đưa ra Su-27PU được sử dụng như một "máy bay chiến đấu điều khiển", một loại AWACS mini, với người lái sau sẽ sử dụng radar và hệ thống ketes nối dữ liệu đẻ kiểm soát những máy bay chiến đấu khác. Tuy nhiên PVO không quan tâm đến việc mua SU-27PU.
- 5 chiếc Su-27PU đã được chế tạo, với tên gọi mới là "Su-30" cuối cùng được trang bị trong biên chế của PVO với vai trò máy bay huấn luyện.
[sửa] Su-30MK máy bay đa chức năng hai chỗ
Một phiên bản Su-30M đa chức năng 2 chỗ đã được đề nghị chuyển cho Không quân Nga sử dụng và có thể một vài chiếc khác cũng đã được sản xuất giữa những năm 1990 để đánh giá.
- Sukhoi đã được đề nghị một phiên bản xuất khẩu là Su-30MK, "MK" có nghĩa là "Modernizirovannyi Kommercheskiy" (Modernized Commercial - Thương mại hóa). Sukhoi đã mang một chiếc Su-30MK thao diễn đến Triển lãm hàng không Paris vào năm 1993.
- Một chiếc Su-30MK tối ưu hóa khả năng thao diễn, cũng đã được sản xuất lại từ chiếc Su-27PU sản xuất trước đó, nó xuất hiện vào năm 1994.
[sửa] Máy bay chiến đấu đa chức năng linh hoạt
Su-30Mk có khả năng thực hiện các nhiệm vụ đa dạng khác nhau, trong bất kỳ điều kiện thời tiết, môi trường khắc nghiệt, bất kể ngày hay đêm.
Đây là máy bay đa chức năng được trang bị đầy đủ phù hợp với toàn bộ một chuỗi những kịch bản chiến thuật và hoạt động chiến đấu, nó được thay đổi từ nhiệm vụ không chiến (bao gồm ưu thế trên không, phòng không, tuần tra trên không và hộ tống), thành tấn công mặt đất, chống hệ thống phòng không của địch (SEAD), ngăn chặn trên không, hỗ trợ mặt đất và tấn công mục tiêu biển. Đồng thời, Su-30MK có thể thực hiện chống gây nhiễu điện tử ECCM và cảnh báo sớm trên không, cũng như ra lệnh và điều khiển một nhóm thực hiện nhiệm vụ chung.
[sửa] Góc tấn công
Hình dạng khí động học của Su-30MK cho phép nó dễ dàng thay đổi các động tác khi bay. Để tăng hiệu suất nâng và khả năng bay thao diễn của máy bay, cánh mũi đã được trang bị. Nó có thể tự động điều chỉnh độ lệch để đảm bảo khả năng kiểm soát chuyến bay tại những góc tấn công lớn. Tuy nhiên, cánh mũi chỉ được trang bị trên một số phiên bản của Su-30 như Su-30MKI.
[sửa] Động tác bay rắn hổ mang Pugachev
Hình dạng khí động học tổng hợp, được kết hợp với khả năng kiểm soát điều chỉnh hướng phụt của động cơ, đã mang đến những khả năng thao diễn bau chưa từng có và những đặc trưng cất cánh và hạ cánh độc nhất vô nhị. Trang bị với hệ thống lái số fly-by-wire, Su-30MK có khả năng thực hiện vài động tác thao diễn mà chỉ có thể thực hiện được trên những máy bay chiến đấu hiện đại của Nga. Bao gồm động tác rắn hổ mang Pugachev và biểu diễn quay tròn, máy bay quay 360° trong khi đang bay lên hoặc lao xuống trên một mặt phẳng mà không bị mất độ cao. Trong động tác thao diễn bay bổ nhào quay tròn có điều khiển, máy bay thực hiện vài vòng quay đầy đủ trong mặt phẳng ngang, với tốc độ gần về không, lúc này động cơ bị tắt, sau đó nó được khởi động lại để lấy lại độ cao cho máy bay.
[sửa] Động cơ
Động cơ của máy bay là 2 động cơ phản lực cánh quạt đốt lần 2 Saturn AL-31FP. Cung cấp lực đẩy sau khi đốt nhiên liệu lần 2 là 245 kN (25,000 kgf), đạt vận tốc Mach 2, nó có tốc độ 1,350 km/h tại độ cao thấp, và vận tốc lên cao là 230 m/s.
Nó có thể mang thông thương 5,270 kg nhiên liệu trong các thùng chứa (không tính nhiên liệu trong các thùng chứa phụ), Su-30Mk có khả năng thực hiện liên tục nhiệm vụ trong 4.5 giờ trong phạm vi 3,000 km. Trong khi bay, nếu được tiếp nhiên liệu trên không thì nó có thể duy trì 10 giờ bay nhiệm vụ với tầm bay là 8,000 km trên độ cao tuần tra từ 11 đến 13 km.
Khả năng bay xa đã tăng đáng kể những chon lựa nhiệm vụ. Những sứ mện có thể thay đổi từ tuần tra, hộ tống thành đánh chặn tầm xa và những cuộc tấn công không đối đất.
[sửa] Hệ thống điều khiển hướng phụt động cơ 2D
Các miệng ống phụt của động cơ có thể uốn xuống hoặc bẻ lên, thay đổi hướng chênh lệch ±15° (với những trục quay được định vị tại vị trí góc 32° ở mỗi động cơ) cho phép điều khiển lực đẩy theo mọi hướng. Phụ thuộc và động tác thao diễn sẽ được thực hiện, những góc lệch có thể được điều khiển để tạo lực đẩy như ý muốn, những miệng ống động cơ có thể được đồng bộ hóa với hoặc khác với những thao tác của cánh đuôi nằm ngang của máy bay. Tuy nhiên chỉ có phiên bản Su-30MKI có hệ thống điều khiển hướng phụt động cơ 2D (2D TVC - 2D Thrust Vectoring Control).
[sửa] Phi hành đoàn
Phi hành đoàn 2 người đã làm tăng đáng kể những khả năng chiến đấu, do phân công hơp lý công việc giữa các phi công. Trong khi phi công đầu tiên lái máy bay, điều khiển vũ khí và thực hiện các động tác thao diễn dogfight, phi công thứ 2 sử dụng các thiết bị điện tử để xác định mục tiêu cho các vũ khí dẫn đường không đối không và không đối đất tầm xa, theo dõi màn hình chiến thuật để đảm bảo nhận thức về vị trí của máy bay, thực hiện lệnh và điều khiển trong khi thực hiện nhiệm vụ theo nhóm.
[sửa] Hệ thống điện tử
- Radar: nó có thể lựa chọn 1 trong số các loại radar xung Doppler sau N001VE, Phazotron N010 Zhuk-27, N011M BARS (radar quét mảng điện tử bị động). Có khả năng phát hiện và theo dõi mục tiêu lên đến 15 mục tiêu trên không, trong khi có thể đồng thời tấn công 4 mục tiêu trong số đó. Radar N011M BARS có thể dò tìm các mục tiêu lớn trên biển trong khoảng cách lên đến 400 km (248.5 mi), và các mục tiêu nhỏ trong khoảng cách 120 km (74.5 mi).
- Hệ thống điện tử khác bao gồm một hệ thống ngắn bắn và dẫn đường tích hợp, với một hệ thống dẫ đường con quay laser; hệ thống hiển thị trên mũ phi công HUD, màn hình LCD hiển thị đa chức năng với khả năng hiển thị trộn lẫn hình ảnh; và một hệ thống GPS (tương thích GLONASS/NAVSTAR).
- Hệ thống tia hồng ngoại và laser để dò tìm và điều khiển vũ khí tấn công các mục tiêu kích thước nhỏ. Máy bay được cung cấp phương tiện chống gây nhiễu điện tử ECCM và đối phó với các thiết bị điện tử quang học.
- Máy bay có chế độ lái tự động trong mọi giai đoạn bay, gồm bay thấp trong mọi địa hình, bay riêng và theo nhóm chống lại mục tiêu trên không - mặt đất - trên biển. Hệ thống điều khiển tự động được kết nối với hệ thống dẫn đường để đảm bảo máy bay bay đúng đường, tự động tiếp cận địch, tìm được đường về căn cứ và hạ cánh tự động.
[sửa] Các phiên bản khác nhau của Su-30
OKB Sukhoi đang theo đuổi những phiên bản mới của gia đình Su-27 và đã đưa ra hàng loạt tên gọi rắc rối trong tiếp thị. Một quan sát viên Phương Tây bình luận trên OKB Sukhoi vào năm 1995 như sau: "Họ sản xuất nhiều tên gọi mới hơn là các máy bay trong năm nay".
Danh sách các phiên bản của Su-30:
- Su-27PU: Máy bay đánh chặn tầm xa được phát triển từ máy bay huấn luyện 2 chỗ Su-27UB. Sau đó được đổi tên thành Su-30.
- Su-30: Máy bay thử nghiệm với cánh mũi.
- Su-30K: Phiên bản thương mại của Su-30. 50 chiếc đã được bán cho Ấn Độ và sau đó được nâng cấp thành Su-30MKI.
- Su-30KI: Một phiên bản đề nghị của Sukhoi nâng cấp máy bay một chỗ Su-27S của Không quân Nga. Cũng có một phiên bản xuất khẩu trong kế hoạch cho Indonesia, chỉ là một chiếc máy bay ghế đơn trong gia đình Su-30.
- Su-30KN: Phiên bản nâng cấp chiến đấu 2 chỗ của Su-27UB, Su-30 và Su-30K.
- Su-30M: Về bản chất là Su-27PU nâng cấp, đây là máy bay đa chức năng đúng theo tính năng đầu tiên trong gia đình Su-27.
- Su-30MK: Phiên bản thương mại của Su-30M, được xuất hiện vào năm 1993.
- Su-30M2: Su-30Mk nâng cấp với cánh mũi và TVC.
- Su-30MKA: Phiển bản xuất khẩu cho Algeria.
- Su-30MKI: Phiên bản xuất khẩu cho Ấn Độ với TVC, cánh mũi.
- Su-30MKK: Phiên bản xuất khẩu cho Trung Quốc.
- Su-30MKM: Phiên bản chuyên dụng cho Malaysia tương tự như MKI, nhưng chủ yếu sẽ được trang bị hệ thống điện tử của Pháp và Nga. Nó sẽ được trang bị màn hình hiển thị đa chức năng trên mũ của phi công từ Thales Group và SAGEM của Pháp, cũng như radar BARS NIIP N011M.
- Su-30MKV: Phiển bản xuất khẩu cho Venezuela có nhiều điểm giống với Su-30MK2. Có 2 chiếc được tham gia vào Lễ duyệt binh ở Caracas vòa tháng 7-2006, những chiếc máy bay này được KNAAPO sản xuất và có số hiệu là 0460 và 1259. Tin mới nhất xác nhận rằng những chiếc Su-30 được Venuela mua là Su-30MK2.
- Su-30MK2: Su-30MKK nâng cấp hệ thống điện tử cho phép hỗ trợ tên lửa chống tàu.
- Su-30MK2V: phiên bản Su-30MK2 xuất khẩu cho Việt Nam với những cải tiến phụ.
- Su-30MK3: Su-30MKK với radar Zhuk MSE và hỗ trợ tên lửa chống tàu Kh-59MK.
[sửa] Hoạt động
Algeria:
Ấn Độ: Sau những năm đàm phán, Ấn Độ đã quyết định mua 40 chiếc Su-30 và đã có được giấy phép từ Sukhoi và Nga để sản xuất bỏ sung 140 chiếc Su-30MKI. Công ty của Ấn Độ Hindustan Aeronautics Limited (HAL) là một công ty lớn sản xuất Su-30 trên thế giới. Ấn Độ cũng hy vọng dần dần sẽ có được tổng số 230 chiếc Su-30.
Belarus:
Kazakhstan:
Malaysia: Vào tháng 5-2003, Không quân Hoàng Gia Malaysia đã ký hợp đồng mua 18 chiếc máy bay chiến đấu phản lực Su-30MKM với giá trị lên đến 1 tỷ USD. Su-30MKM sẽ được giao trong đợt đầu vào giữa năm 2007. Trong một phần của hợp đồng, Nga sẽ huấn luyện và đưa các phi hành gia Malaysia lến trạm ISS.
Mexico: Hải quân Mexico thông báo sẽ mua khoảng 8 chiếc "Flanker", bao gồm 6 Su-27 và 2 Su-30.
Nga:
Ukraine:
Uzbekistan:
Indonesia: Không quân Indonesia đã ký một hợp đồng mua hơn 10 chiếc Sukhoi Su-27 và Su-30MK2.
Trung Quốc: Trung Quốc là nước sử dụng Su-27 nhiều nhất sau Nga, với khoảng 150 chiếc Su-27SK và Su-27UB đã được giao và chế tạo dưới giấy phép do Nga cung cấp (J-11) từ đầu những năm 1990. Su-30 là một thiết kế đã dành được những sự quan tâm lớn từ các lãnh đạo của Trung Quốc, và Su-30MKK được thiết kế đặc biệt của Sukhoi cho nhu cầu của PLAAF (Không quân quân giải phóng nhân dân Trung Hoa). Vào năm 1999 sau chuyến công du của các lãnh đạo Trung Quốc đến Nga, một thỏa thuận đã được ký để mua 38 chiếc Su-30MKK (tiếng Nga: Modernizirovannyi Kommercheskiy Kitaya; Modernized Commercial China - Phiên bản thương mại hóa dành cho Trung Quốc) với giá trị lên đến 1.5 tỷ USD, chiếc đầu tiên được giao vào 20 tháng 12-2000. Đến cuối năm 2001, toàn bộ máy bay đã được cung cấp.
- Một lô hàng thứ 2 cũng gồm 38 chiếc đã được đặt mua vào năm 2001, và những chuyến hàng bàn giao đã được hoàn thành vào năm 2003. Vào tháng 1-2003, Trung QUốc đã đặt mua 24 chiếc Su-30MK2 cải tiến, và những chiếc máy bay này được cung cấp cho các đơn vị không quân thuộc Hải quân. Theo sau những đơn hàng, dù phiên bản cải tiến xa hơn Su-30MK3 cũng có thể được mua. Tuy nhiên, với những thành công của máy bay tấn công tiết kiệm của Trung Quốc sản xuất là JH-7A, và J-11B (máy bay cải tiến từ Su-27SK với những cảm biến mới và có thể mang vũ khí tấn công chính xác), trong tương lại có thể các đơn đặt hàng Su-30MKK sẽ không còn nữa.
Venezuela: Vào 14 tháng 6-2006, chính phủ Venezuela thông báo sẽ mua 24 chiếc Su-30MK2 cho Không quân Venezuela. 2 chiếc Su-30MK2 đầu tiên đã được bàn giao và bay biểu diến trong lễ duyệt binh vào tháng 12-2006 ở Caracas, trong khi 4 chiếc khác sẽ được giao vào các tháng sau, Venezuela hy vọng 10 chiếc máy bay sẽ được giao vào năm 2007 và 10 chiếc còn lại sẽ được giao vào năm 2008.
Việt Nam: Việt Nam hiện nay cũng đang đặt mua Su-30MK2V, người ta suy đoán có thể Không quân Nhân Dân Việt Nam đã có khoảng từ 6 đến 8 chiếc Su-30MK2V.
[sửa] Thông số kỹ thuật (Su-27PU/Su-30)
[sửa] Đặc điểm riêng
- Phi đoàn: 2
- Chiều dài: 21.935m (72 ft 9 in)
- Sải cánh: 14.7m (48 ft)
- Chiều cao: 6.357m (21 ft 5 in)
- Diện tích cánh: 62,04 m²
- Trọng lượng rỗng: 17,700 kg
- Trọng lượng cất cánh: 24,000 kg
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 33,000 kg
- Động cơ: 2× Saturn AL-31FL công suất 16,754 lbf (74.5 kN) và 27,550 lbf (122.58 kN) khi đốt nhiên liệu lần 2 mỗi động cơ
[sửa] Hiệu suất bay
- Vận tốc cực đại: 2150 km/h (2.35 Mach)
- Vận tốc tuần tra: 1,300 km/h
- Tầm bay: 1,620 nm (3,000 km)
- Trần bay: 57,410 ft (17,500m)
- Vận tốc lên cao: 45,275 ft/min (230 m/s)
[sửa] Vũ khí
Su-27PU co 8 giá treo vũ khí, tron khi Su-30MK có 12 giá treo vũ khí: 2 giá treo ở đầu cánh 3 giá treo dưới mỗi cánh, dưới mỗi động cơ có 1, và 2 giá treo tại điểm tiếp giáp giữa động cơ và cánh. Mọi phiên bản co thể mang 8 tấn vũ khí.
- 1× pháo Gryazev-Shipunov GSh-30-1 30 mm 150 viên đạn
- Tên lửa không đối không: 6× R-27ER1 (AA-10C), 2× R-27ET1 (AA-10D), 6× R-73E (AA-11), 6× RVV-AE (AA-12)
- Tên lửa không đối đất: 6× Kh-31P/Kh-31A tên lửa chống [radar]], 6× Kh-29T/L tên lửa dẫn đường bằng laser, 2× Kh-59ME
- Bom: 6× KAB 500KR, 3× KAB-1500KR, 8× FAB-500T, 28× OFAB-250-270
[sửa] Liên kết ngoài
- http://www.knaapo.ru/eng/
- Sukhoi
- FAS.org
- GlobalSecurity.org
- Milavia.net
- Airforce-Technology
- Sukhoi Flankers - The Shifting Balance of Regional Air Power
- Su-27 Series at Greg Goebel's AIR VECTORS
- Veniks Aviation
- Fighter Tactics Academy
- Sukhoi Su-30 Videos
- Su-30 Videos
- Asia's Advanced Flankers
[sửa] Nội dung liên quan
[sửa] Máy bay có cùng sự phát triển
[sửa] Máy bay có tính năng tương đương
- Shenyang J-11
- Dassault Rafale
- F-15E Strike Eagle
- F/A-18E/F Super Hornet
- Mikoyan MiG-29
- Panavia Tornado
[sửa] Danh sách tiếp theo
Su-25 - Su-26 - Su-27 - Sukhoi Su-30 - Su-30MKI - Su-30MKK - Su-32 - Su-33 - Su-34
[sửa] Xem thêm
Các loại máy bay do hãng Sukhoi sản xuất | |
---|---|
Máy bay tiêm kích: | Su-9 (II) - Su-11 (II) - Su-15 (II) - Su-27 - Su-30 - Su-33 - Su-35 - Su-47 |
Máy bay tấn công: | Su-2 - Su-4 - Su-7 (II) - Su-17 (II) - Su-20 - Su-22 - Su-24 - Su-25 - Su-34 - Su-39 |
Máy bay trinh sát: | Su-12 Máy bay huấn luyện: UTB - Su-26 - Su-28 - Su-29 - Su-31 Máy bay vận tải: Su-38 - Su-80 - S-21 - Superjet 100 |
Máy bay thí nghiệm: | Su-1-Su-3-Su-5-Su-6-Su-7 (I)-Su-8-Su-9 (I)-Su-10-Su-11 (I)-Su-13-Su-15 (I)-Su-17 (I)-Su-37-S-37-P-1-T-3-T-4-PAK FA |
Hãng sản xuất máy bay Nga: | Antonov - Ilyushin - Mikoyan - Sukhoi - Tupolev - Yakovlev |