Phan Văn Trị

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cụ Phan Văn Trị sinh năm Canh Dần 1830 tại thôn Hưng Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, Trấn Vĩnh Thanh (nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre).

Vùng đất sinh ra Cử Trị, đặc biệt là từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, khi cuộc di dân của nông dân nghèo khổ từ miền Bắc và miền Trung đến định cư ở vùng Cù Lao hoang vu đầy lau sậy để khai phá thành đồng phì nhiêu và vườn cây tươi tốt như ngày nay. Trong quá trình lưu tán, những người nông dân chất phác này qua thử thách chịu đựng và đấu tranh với mọi khó khăn gian khổ bằng sức sáng tạo và đoàn kết thủy chung, căm ghét lừa lọc phản trắc. Những phẩm chất tốt đẹp đó đã hun đúc lên phẩm cách Phan Văn Trị, ông đã đi qua thời niên thiếu êm đềm với bao ước vọng như dòng Hàm Luông hiền hòa tươi mát quanh năm chở nặng phù sa bồi đắp cho quê hương ông. Khoảng từ 1847-1848, Phan Văn Trị đến làng Hành Thông, Gia Định (nay là Gò Vấp, thành phố Hồ Chí minh) trú ngụ tại nhà người thân để học hành chờ ngày thi cử. Khoa thi Kỷ Dậu 1849, Phan Văn Trị đỗ cử nhân năm ấy vừa tròn 19 tuổi. Đó là những điều kiện đã có để Cử Trị có thể ra làm quan. Nhưng xã hội nước ta lúc đó đang ở thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng, đời sống nhân dân quá tối tăm vì bị bóc lột đến tận xương tủy. Trước cảnh ngộ đất nước lúc ấy Phan Văn Trị đã đứng về phía nhân dân. Năm 1851-1852, Phan Thanh Giản cùng Nguyễn Tri Phương vào trấn vùng phía Nam, Phan Thanh Giản đến thăm người bạn cố tri là Phan Dĩ Thử ở Hanh Thông, Gia Định. Tại đây đã diễn ra cuộc đối thoại bộ lộ quan điểm đối lập với triều đình của chánh Cử nhân trẻ với kinh lược phó sứ Phan Thanh Giản, đến nỗi Phan Thanh Giản phải nói "Nhữ hà trách triều đình chi thậm" (sao ngươi trách triều đình lắm thế".

Những năm 1856-1857, Phan Văn Trị đã cùng với Tôn Thọ Tường đã sáng lập nhóm Bạch Mai thị xã ở Gia Định. Đó là nhóm tụ hội thơ Phú của các vị khoa bảng: Tiến sĩ Phan Hiển Đạo, thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, cử nhân Huỳnh Mẫn Đạt, tú tài Nguyễn Đình Chiểu... đó cũng là lúc thực dân Pháp đang lăm le xâm lược nước ta. Sự kiện ngày 11/2/1859, Pháp chiếm cửa biển Cần Giờ và một tuần sau (18/2/1859) chúng chiếm Sài Gòn. Nỗi đau mất nước của dân ta có từ đây, các sĩ phu yêu nước như Đồ Chiểu - Cử Trị... đã bộc lộ trong bài thơ "Chạy giặc" của Đồ Chiểu:


"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây, Một bàn cơ thế phút sa tay".

Khi đó, Phan Văn Trị lánh nạn về làng Bình Canh, Tân An (nay thuộc xã Tân Bình Thạnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Tại đây, ông đã mở trường dạy dọc và bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Đây cũng là nơi gần trung tâm cuộc khởi nghĩa của Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, đồng thời là nơi hội tụ của các vị khoa bảng đương thời.

Cuối tháng 2/1861 coi như Sài Gòn thất thủ hoàn toàn. Tiếp theo, ngày 14/12/1861 thì Gò Công, Cần Giuộc, Tân An đã rơi vào tay Giặc.

Trước cảnh đó, Cử Trị cùng các sĩ phu đã khởi xướng phong trào "tị địa" phong trào đó không có nghĩa là chạy trốn giặc, mà thực chất là bất hợp tác mọi mặt với giặc, tập hợp lực lượng và cổ vũ phong trào yêu nước lúc đó. Phong trào này được sƯ phu Nam Kỳ ủng hộ nên Pháp gặp khó khăn trong lúc đặt ách thống trị của chúng ở Nam Kỳ.

Đầu năm 1862, Cử Trị về Vĩnh Long thì 5/6/1862 hàng ước Nhân Tuất đã để 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) lọt vào tay Giặc. Quặn đau nỗi mất nước, Cử Trị đã gửi gắm trong câu thơ:


"Tò te kèm thổi tiếng năm ba, Nghe lọt vào tai, dụ xót xa!".

Mỉa mai lũ bán nước nhà Nguyễn, Cử Trị biểu lộ nỗi lòng mình trong bãi thơ "Mất Vĩnh Long".


"Tan nhà cám nỗi câu ly hận, Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa! Gió bụi đời cơn xiêu ngã cỏ, Ngậm cười hết nói nỗi quan ta".

Giữa năm 1867 mảnh đất cuối cùng ở phía Nam tổ quốc đã lọt vào tay giặc Pháp. Năm 1868 Phan Văn Trị phải dời Vĩnh Long về làng Nhơn Ái, Phong Điền, Cần Thơ trú ngụ và sống bằng nghề dạy học. Để bảo vệ Cần Thơ, Giặc Pháp phải đối phó với cuộc khởi nghĩa của Đinh Sâm nổ ra tại Láng Hầm (cạnh Phong Điền). Hoảng sợ trước tinh thần đấu tranh của nghĩa quân, Pháp đã thẳng tay đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Tưởng nhớ tới các liệt sĩ hy sinh trong trận Láng Hầm, Phan VănTrị đã làm hai câu thơ xúc động:


"Võ kiếm xung thiên, Ba láng giang đầu lưu hận huyết. Văn tinh lạc địa, Trà Niềng thôn lý đãi sầu nhan"

Tạm dịch:


"Kiếm võ ngút trời, Ba láng sông sâu tràn hận huyết. Sao văn sa đất, Trà Niêng thôn xóm thảy sầu mang".

Trong quá trình thực dân Pháp ổn định ách thống trị ở Nam kỳ thì cũng là lúc bọn tay sai lộ mặt nghênh ngang ôm chân bọn xâm lược. Có thể nói Tôn Thọ Tường là điển hình cho bọn tay sai, nó được Pháp cất nhắc đến chức Đốc Phủ sứ. Tôn thọ từng đã làm thơ để tự bào chữa cho thân phận tay sai và cũng nhằm chống lại phong trào của các sƯ phu yêu nước. Qua các bài "Tư thứ quy tao", "Tôn phu nhân quy thục" và 10 bài thơ liên vận, Tôn Thọ Tường không ngờ đối thủ trực diện của y lại là Phan Văn Trị. Tôn Thọ Tường đã nhận được những câu thơ nói thẳng vào mặt Đốc Phủ Sứ là "Thân danh chẳng kể thiệt thằng hoang". Ngòi bút sắc bén của Cử Trị đã đâm trúng tâm can Tường, gây cho Tường hoang mang dao động và đành tự thú:


"Phải sao chịu vậy thôi thì chớ, Nhắm mắt đưa chân nỗi đạo hằng".

Đối với giặc và tay sai của chúng, cụ Cử Trị thẳng tay chống đối. Còn đối với dân, cụ sống đầy tình nghĩa, là tấm gương giản dị thanh cao.

Phan Văn Trị vừa dạy học, vừa tích cực giao thiệp với các sĩ phu có lòng ái quốc, cụ động viên học trò học thêm chữ quốc ngữ và cắt tóc ngắn phù hợp với trào lưu tiến bộ lúc đó.

Đức độ và tài năng của Cử Trị đã làm cho nhiều người cảm phục. Cai tổng Định Bảo là Lê Quang Chiên rất phục nhân cách cử trị nên đã giới thiệu người em gái con cô con cậu của gia đình mình là Đinh Thị Thanh kết duyên cùng Cử Trị. Sau này, do cảm hóa khéo của Cử Trị, Cai tổng Chiên đã bỏ chức cai tổng, đứng về phía sĩ phu yêu nước để lên án Tôn Thọ Tường.

Năm 1910, nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị đã tạ thế tại Nhơn Ái. Phong Điền trong ngôi nhà lá đơn sơ như tấn lòng thanh bạch của cụ.

Hiện nay phần mộ của Phan Văn Trị cách UBND xã Nhơn Ái 1 km các bờ rạch Cái Tắc là 59 mét, trong khu vườn nhà ông Lê Trí Dũng, thuộc ấp Nhơn Lộc I, xã Nhơn Ái, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ.

Theo đề án thiết kế sẽ xây mộ Cử Trị bằng xi măng, tam cấp, có văn bia công đức. Xung quanh mộ chỉ là vườn cây xanh có chiều rộng 15m, dài 40m.

Tư liệu hiện có là tên tuổi, quê quán của Cử Trị trong cuốn "Quốc Triều lương Khoa lục" của Cao Xuân Dục, hiện có tại kho tư liệu Viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh, ký hiệu VP 14, hộp 137.

Phan Văn Trị là một trong những nhà thơ được nhân dân Nam Bộ yêu mến. Sáng tác thơ của ông hầu hết bằng ngôn ngữ dân tộc, mang tính chất bình dân và đại chúng rõ rệt, chứa đựng nội dung yêu nước, thương dân, căm ghét kẻ gian tà v.v...

Tuy sự nghiệp văn chương của Cử Trị không để lại những tác phẩm lớn, nhưng thơ văn của ông đã đóng góp vào mặt trận tinh thần của nhân dân trong quá trình đấu tranh với lũ cướp nước và lũ bán nước trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.