Chiến dịch Lam Sơn 719
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến dịch Lam Sơn 719 / Chiến dịch đường 9 - Nam Lào | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Việt Nam | |||||||
![]() Chiến dịch Lam Sơn 719 |
|||||||
|
|||||||
Tham chiến | |||||||
![]() ![]() |
![]() |
||||||
Chỉ huy | |||||||
Hoàng Xuân Lãm | Lê Trọng Tấn | ||||||
Lực lượng | |||||||
VNCH: 27.000 quân Mỹ: 10.000 quân yểm trợ |
25.000-30.000 quân | ||||||
Thương vong | |||||||
VNCH: 8.483 chết 12.420 bị thương 691 mất tích/bị bắt Mỹ: 176 chết 1.942 bị thương 42 mất tích |
Theo VNCH: 13.636 chết và bị thương, 69 bị bắt. Theo VNDCCH: 2.163 chết, 6.176 bị thương. |
Chiến dịch Lam Sơn 719 (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay Chiến dịch đường 9 - Nam Lào (cách gọi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam, do Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) thực hiện với sự yểm trợ của không quân và pháo binh Mỹ. Mục tiêu của chiến dịch là phá vỡ hệ thống hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) tại Lào và cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh tại thị trấn Sê-pôn nằm cách biên giới Việt-Lào 42km về phía Tây.
Chiến sự bùng nổ ở Hạ Lào không giống như bất cứ trận chiến nào trước đó trong Chiến tranh Việt Nam. Đây là lần đầu tiên QĐNDVN bỏ chiến thuật cũ và tiến hành phản công theo kiểu chiến tranh truyền thống, lần đầu tiên QĐNDVN mở các đợt tấn công lớn bằng bộ binh với yểm trợ của thiết giáp và pháo binh hạng nặng để đè bẹp các vị trí của QLVNCH tại các cánh sườn của tiền đội chính. Sự hiệp đồng tác chiến của hỏa lực phòng không đã làm cho yểm trợ không quân chiến thuật và tăng viện bằng không quân của Mỹ trở nên khó khăn và chịu nhiều thiệt hại.
Mục lục |
[sửa] Lực lượng tham chiến
Lực lượng của Việt Nam Cộng hòa và Mỹ trong cuộc hành quân này gồm có:
Quân lực Việt Nam Cộng hòa:
- 3 sư đoàn: Sư đoàn Dù (gồm 3 lữ đoàn 1,2,3), Sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến, Sư đoàn 1 Bộ binh
- 3 lữ đoàn: Liên đoàn 1 Biệt động quân, trung đoàn 4 và trung đoàn 5 - sư đoàn bộ binh số 2
- 4 trung đoàn và 2 chi đoàn thiết giáp: trung đoàn 17,11,7, 4 (trang bị xe tăng M-41)
- 13 tiểu đoàn pháo binh
Quân Mỹ:
- 12 tiểu đoàn bộ binh: 5 tiểu đoàn thuộc sư đoàn dù 101, 4 tiểu đoàn lữ 1 sư đoàn 5 bộ binh cơ giới, 3 tiểu đoàn thuộc sư đoàn Americal
- 8 tiểu đoàn pháo binh (cỡ pháo từ 155 đến 203 mm)
- 1200 máy bay: 800 trực thăng, 300 máy bay phản lực, 50 máy bay vận tải cỡ lớn và 50 máy bay chiến lược B-52.
Quân đội Nhân dân Việt Nam, với chỉ huy là Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Nam Lào (mật danh là "Bộ tư lệnh 702").
- Các sư đoàn bộ binh: 2, 304, 308, 320, và 324.
- Ba tiểu đoàn tăng, thiết giáp: 297, 397, 198, với 88 xe tăng T-34, T-54, PT-76.
- Một số tiểu đoàn đặc công.
- Ba trung đoàn pháo binh cơ giới: 368, 38, 45.
- Trung đoàn pháo mang vác 84.
- Ba trung đoàn pháo phòng không: 230, 241, 591.
- Ba trung đoàn công binh: 219, 83, 7
- Bảo vệ hậu phương chiến lược, trực tiếp của chiến dịch là Sư đoàn phòng không 367 gồm 3 trung đoàn pháo phòng không 282, 284, 224 và hai trung đoàn tên lửa 238, 237.
- Các lực lượng tại chỗ của B5, B4 và Đoàn 559.
[sửa] Chiến lược
Mục tiêu của QLVNCH là: xâm chiếm phần lãnh thổ Lào quanh đường 9, kéo dài từ biên giới tới Sê-pôn; tiêu diệt lực lượng đối phương đóng trong vùng; phá hủy tất cả các kho xăng dầu và hậu cần; kiểm soát mọi sự thâm nhập dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam.
Đối với QLVNCH, chiến thuật cơ bản của Lam Sơn 719 là đánh-và-rút. Trên kế hoạch, điều này là khả thi do yểm trợ về không quân và khả năng di chuyển bằng máy bay. Để gây thiệt hại về người cho QĐNDVN, QLVNCH sẽ tiến công và thiết lập các cứ điểm mạnh, kéo đối phương vào các vùng trống, tạo điều kiện cho hỏa lực mạnh hơn của không quân và pháo binh Mỹ.
Mục tiêu đầu tiên của chiến dịch là thị trấn Sê-pôn, nơi có khoảng 15.000 quân của QĐNDVN đang đóng giữ, trong đó có các sư đoàn 308 và 320.
[sửa] Diễn biến
Đầu tháng 2 năm 1971, 16 000 (sau tăng lên 20 000) quân VNCH vượt biên giới với Lào đi theo đường 9 và hướng về trung tâm hậu cần của QĐNDVN tại Sê-pôn. Chiến dịch Lam Sơn 719, cuộc tấn công vào hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh và cuộc thử nghiệm lớn chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đã bắt đầu.[1] Theo luật, quân đội Mỹ (ngoại trừ các đơn vị không quân, pháo binh, và trực thăng) không được phép tham gia cuộc xâm lấn.[2] QLVNCH đã tấn công, tiến đến các vị trị đã định trong kế hoạch. Nhưng không chốt giữ được lâu để thực hiện mục đích ngăn cản sự tiếp tế. Quân giải phóng đã dự đoán trước được hướng tiến công nên đã chủ động thực hiện phòng ngự - phản công, gây thiệt hại lớn và ngăn chặn được ý đồ chia cắt của QLVNCH.
[sửa] Đợt 1 (31/1 - 7/2)
Đây là giai đoạn bên tấn công chuẩn bị hậu cần, chuyển quân. Sở chỉ huy chiến dịch (Quân đoàn 1 QLVNCH) chuyển từ Đà Nẵng tới Đông Hà, chuẩn bị hậu cần để tiếp nhận lực lượng tăng cường từ Sài Gòn. QLVNCH thực hiện các hoạt động nghi binh như thể sắp vượt giới tuyến 17 đánh ra Bắc. Cuối cùng, sở chỉ huy chuyển về đặt tại Khe Sanh.
Đầu tháng 2 năm 1971, trên hướng phối hợp đông đường 9 gồm các huyện Do Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa do Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị chỉ huy, từ ngày 1 đến 5 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 27), Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) tiến công chế áp quân QLVNCH ở khu vực Tân Lâm, Sa Mưu; Tiểu đoàn 3 độc lập tập kích quân QLVNCH ở tây Ðầu Mầu, Tiểu đoàn 15 đánh cắt giao thông từ Bồng Kho đi Rào Quán. Trong hai ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) bắn 200 viên đạn pháo các loại vào căn cứ Ðông Hà và Sở chỉ huy tiền phương Sư Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH ở điểm cao 241... Trên hướng tây đường 9 bao gồm các khu vực Ðồng Hến, Pha Lan, Mường Phìn (Lào), Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) phối hợp với Quân Giải phóng nhân dân Lào, trong hai ngày (25 và 26 tháng 1 năm 1971) đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn đặc nhiệm (thuộc Binh đoàn GM 33) ở Pha Lan.
Ngày 6 tháng 2, Bộ Quốc phòng VNDCCH ra quyết định thành lập Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Nam Lào với mật danh "bộ tư lệnh 702". Một lực lượng lớn gồm bộ binh, pháo binh và thiết giáp, phòng không tên lửa được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh mặt trận sẵn sàng đợi lệnh.
[sửa] Đợt 2 (8/2 - 11/3)
8 giờ ngày 8 tháng 2 năm 1971, Tống thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mở cuộc tiến công nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Chính quyền Sài Gòn tuyên bố: "Sẽ đón các nhà báo quốc tế tại Sê Pôn"...[cần dẫn chứng].
Hàng chục trận địa pháo với hàng trăm khẩu từ 105 mm tới 175 mm đã được bố trí dọc biên giới Việt - Lào trên một chính diện 30 km; hàng chục tốp máy bay phản lực các loại đánh phá dữ dội dọc hai bên Ðường 9 - Nam Lào, mở màn cho cuộc hành quân Lam Sơn - 719. Từ đầu tháng 2, lực lượng VNCH chia làm 3 hướng: cánh quân chính gồm Lữ đoàn 1 Dù và Lữ đoàn 1 thiết giáp vượt qua Lao Bảo tiến về phía Bản Đông nằm sát đường 9. Lữ đoàn 3 Dù dùng trực thăng đổ bộ xuống các cứ điểm 30 và 31. Hai cánh còn lại gồm trung đoàn 1 và trung đoàn 3 Sư đoàn 1 Bộ binh, được đổ xuống các điểm cao phía Nam và phía Bắc đường 9.
Sáng 9 tháng 2, Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) tăng cường cho Sư đoàn 308 liên tiếp đánh bại 5 đợt tiến công của chiến đoàn đặc nhiệm dù tại chốt 351 cầu Cha Kỵ, diệt gần hai đại đội. Cùng ngày, tại đường 16, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 88 (Sư đoàn 308) đánh thiệt hại nặng Ðại đội 2 (Tiểu đoàn 21 Biệt động quân) bảo vệ an toàn trận địa pháo Làng Sen.
Chiều 10 tháng 2, khi mũi tiến công chủ yếu của QLVNCH đặt chân lên Bản Ðông, Quân giải phóng lập tức vây hãm từ nhiều phía, không để cho cánh quân này theo đường 9 tiến lên Sê Pôn.
Ðêm 11 tháng 2, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 88) và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 64) tập kích Tiểu đoàn 2 dù ở bắc Sê Num.
Từ ngày 11 đến 13 tháng 2, Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320) liên tiếp đánh thắng hai trận ở khu vực điểm cao 456 và đồi Không tên, tiêu diệt 3 đại đội của Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 6 (Lữ đoàn dù 3) chốt giữ căn cứ 31 (điểm cao 543) bắc Bản Ðông 7 km. Cùng thời gian này, trên hướng nam và tây Bản Ðông, các mũi tiến công của QLVNCH đều bị chặn đánh quyết liệt.
Trung tuần tháng 2 năm 1971, sau khi chiến dịch mất tính bất ngờ, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Mặt trận Ðường 9 - Nam Lào (Quân giải phóng) chỉ thị cho các đơn vị trong Binh đoàn 70 trên hướng chủ yếu của chiến dịch chuyển sang tiến công. Tại hướng bắc Ðường 9 - Nam Lào, Sư đoàn 308 sử dụng Trung đoàn 102 do Trung đoàn trưởng Hoàng Ngọc Tý và Chính ủy Nguyễn Hữu Ích chỉ huy cùng các lực lượng tăng cường tiến công điểm cao 500 - một trong hai vị trí then chốt bảo vệ phía bắc Chiến dịch Lam Sơn - 719 do Tiểu đoàn 39 (Liên đoàn 21 biệt động quân) chiếm giữ. Sau bốn ngày chiến đấu (từ 16 đến 20 tháng 2), Trung đoàn 102 bất chấp các đợt đánh phá mang tính hủy diệt của máy bay (chủ yếu là máy bay B-52), pháo binh và các đợt phản kích của bộ binh, tiến công liên tục và tiêu diệt Tiểu đoàn 39 biệt động quân, bắn rơi 10 máy bay (có 6 máy bay lên thẳng).
Ngày 21 tháng 2, Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320 QĐNDVN) bao vây tiến công căn cứ 31 (điểm cao 543) - vị trí then chốt 2 ở phía bắc. Bằng chiến thuật vây lấn, từ ngày 21 đến 24 tháng 2, các đơn vị của Trung đoàn 64 do Trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến và Chính ủy Ðặng Văn Trượng chỉ huy đã lần lượt tiêu diệt các trận địa hỏa lực và trận địa phòng ngự vòng ngoài, cắt đường bộ từ Bản Ðông lên căn cứ 31. Trưa 25 tháng 2, bằng trận tiến công hiệp đồng binh chủng, Trung đoàn 64 đã làm chủ căn cứ 31, tiêu diệt Tiểu đoàn 3 dù, bắt sống đại tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ Ban tham mưu lữ đoàn. Lữ đoàn 1 Dù và Lữ đoàn 1 Thiết giáp tại các căn cứ 30 và Bản Đông (A Luoi) khi đó cũng đang bị Quân giải phóng tấn công nên đã không thể hỗ trợ.
Từ ngày 26 đến 28 tháng 2, được sự hỗ trợ đắc lực của các đơn vị tại chỗ của Ðoàn 559, phối hợp với Sư đoàn 308 và Sư đoàn 320 hoạt động ở hướng bắc, các Sư đoàn 304, 324, 2 ở hướng nam và tây nam đường 9 chuyển từ chốt chặt sang tiến công, đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Sư đoàn lính thủy đánh bộ QLVNCH, phá tan các đợt "nhảy cóc" lùng sục đánh phá kho tàng.
Các chiến thắng phá tung cánh cung hướng bắc và chiến thắng ở hướng nam đường 9 đã tạo điều kiện thuận lợi cho Quân giải phóng triển khai lực lượng tiến công đội hình cơ bản của QLVNCH từ Lao Bảo đến Bản Ðông.
Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1971, mặc dù đã sa vào thế bị động lúng túng, nhưng Bộ chỉ huy QLVNCH vẫn quyết định đưa thê đội 2 gồm Lữ đoàn dù 2, Trung đoàn 147 và 258 lính thủy đánh bộ tham chiến nhằm đánh chiếm Sê Pôn, "mục tiêu cuối cùng của cuộc hành quân". Nhưng mọi cố gắng đều thất bại ở cửa ngõ Sê Pôn. Đến đây tình hình bắt đầu xoay chuyển.
Ngày 2 tháng 3, cho rằng thời cơ đã đến, Quân ủy Trung ương Quân giải phóng đã chỉ thị cho Ðảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận 702 "Tập trung tiêu diệt địch trong khu vực Bản Ðông" với thời gian càng nhanh càng tốt. Sư đoàn 308 và các Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320), Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) được lệnh tập trung bao vây tiến công tập đoàn cứ điểm Bản Ðông. Sư đoàn 2 (Quân khu 5) hoạt động ở hướng nam bao vây kìm chân hai trung đoàn của Sư đoàn 1 bộ binh VNCH, ngăn không cho chi viện Bản Ðông. Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) và một số tiểu đoàn của Mặt trận chốt giữ đường 9 giữa Bản Ðông và Lao Bảo, quyết chặn không cho đối phương chạy thoát.
Phối hợp với lực lượng tại Mặt trận Ðường 9 - Bắc Quảng Trị ở hướng đông, từ ngày 5 đến 10 tháng 3, Quân giải phóng trên hướng chủ yếu liên tục đánh các lực lượng tiếp viện của QLVNCH để giải tỏa cho Bản Ðông, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 1 (Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH), chia cắt đội hình QLVNCH ở Ðường 9 - Bản Ðông và các đơn vị bảo vệ hướng nam.
[sửa] Đợt 3 (12 - 23/3)
Trên đà thắng, từ ngày 12 đến 17 tháng 3, các Trung đoàn 36 (Sư đoàn 308), 64 (Sư đoàn 320), 66 (Sư đoàn 304) và các đơn vị hỏa lực xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ của Quân giải phóng đã tiến công dồn dập tập đoàn cứ điểm Bản Ðông do 1 lữ đoàn dù và 2 thiết đoàn đóng giữ.
Ngày 18 tháng 3, do đã bị thiệt hại quá nặng, QLVNCH bắt đầu rút khỏi Bản Ðông. QĐNDVN nhanh chóng chuyển sang truy quét đối phương. Cách duy nhất mà QLVNCH có thể thoát ra khỏi Lào là nhờ vào hỏa lực mạnh của không quân Mỹ. Những giờ phút bi thảm nhất của đạo quân ngụy chủ lực tinh nhuệ, thực hiện cuộc hành quân Lam Sơn - 719 đã diễn ra. Trên Ðường 9 - Nam Lào, đoạn từ Bản Ðông về Lao Bảo, hơn 100 xe tăng, xe thiết giáp bị chặn đánh. Hàng trăm binh sĩ ngụy vứt bỏ súng đạn, chạy cắt rừng hòng thoát thân đã bị bắt làm tù binh. Ngày 20 tháng 3, QLVNCH đã hoàn toàn rút khỏi khu vực Bản Ðông - nơi đã được chọn làm khu vực đánh trận then chốt.
Đến ngày 25 tháng 3, chiến sự hoàn toàn chấm dứt. Những đơn vị cuối cùng của QLVNCH đã qua được biên giới với đối phương đuổi sát phía sau.
[sửa] Kết quả
Tuy một đợt tấn công bằng trực thăng đã chiếm được được Sê-pôn, nhưng đó là một thắng lợi phải trả bằng giá đắt, vì QLVNCH chỉ giữ thị trấn trong một thời gian ngắn ngủi trước khi phải rút lui do các cuộc tấn công vào đội hình chính.
Đây là cuộc hành quân thiệt hại nặng nề nhất đối với QLVNCH. Nếu xét phương diện một thử nghiệm của Việt Nam hóa chiến tranh, Lam Sơn 719 đã là một thất bại nặng nề. Khoảng một nửa lực lượng xâm lấn đã bị thương vong.[3] Lực lượng tinh nhuệ Biệt động quân và lính dù đã bị thiệt hại nặng, đây là các đơn vị dự bị chiến lược tốt nhất của Việt Nam Cộng hòa. Nếu xét về phương diện phá hoại hậu cần, chiến dịch này đã phá hủy được một số kho tàng và cơ sở vật chất của QĐNDVN. Theo đánh giá của Mỹ, chiến dịch này làm kế hoạch tấn công các tỉnh phía Nam giới tuyến của Quân giải phóng bị chậm lại một năm. Nhưng về cơ bản, hệ thống tiếp tế của phía Cộng sản đã không bị hại. Đầu năm 1972, lực lượng QĐNDVN đã lại tung ra một trận tổng tiến công nữa - Chiến dịch mùa hè năm 1972.
[sửa] Tổn thất
- Quân đội Việt Nam Cộng Hòa: hơn 8.000 chết, 14.500 bị thương (50% lực lượng). 6 trung đoàn, lữ đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh bị loại khỏi vòng chiến đấu; ba sư đoàn dự bị chiến lược gồm Sư đoàn dù, Sư đoàn lính thủy đánh bộ, Sư đoàn 1 bị đánh thiệt hại nặng.
- Quân đội Mỹ: 450 chết, 108 trực thăng bị bắn rơi (chiếm 10% số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong cả Chiến tranh Việt Nam) và 618 chiếc khác bị bắn hỏng.[4]
- Quân giải phóng: Theo số liệu của QĐNDVN, thương vong là 2.163 chết, 6.176 bị thương. Còn theo số liệu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa (ước tính qua không ảnh) là 13.636 chết và bị thương.
[sửa] Nguyên nhân thất bại của liên quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa
Cuộc hành quân này đã thất bại vì những lý do sau:
- Cuộc hành quân không bảo đảm tính bất ngờ.
- Các căn cứ của Cộng sản là những nơi họ đã lâu năm thông thuộc địa bàn và có bố phòng rất kỹ lưỡng. Ngay quân đội Hoa Kỳ với sức mạnh tổng lực như thế đã không thể làm gì nổi. Trong thời kỳ tìm-diệt, các chiến dịch Atteleboro và Junction City đều đã thất bại. Do đó đưa quân vào đây là sa vào thế trận đã bày sẵn. Hơn nữa, vùng Hạ Lào là nơi tập trung rất nhiều binh lực hiện đại của quân Giải phóng Miền Nam, còn mạnh hơn rất nhiều các khu căn cứ khác mà Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn chưa có đủ sức mạnh, kinh nghiệm và bản lĩnh để đương đầu.
- Khi hoạch định kế hoạch, người ta chú ý nhiều đến khía cạnh phô trương sức mạnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đánh được vào "đất thánh Cộng sản" chứ ý nghĩa quân sự thì ít. ("Chỉ cốt sao đến được Sê Pôn rồi về" – Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.) Chính vì để phô trương nên ban đầu khi gặp khó khăn rất lớn đã không chấm dứt chiến dịch mà cố gắng tiến nhọc nhằn đến Sê Pôn rồi phải cố sức mở đường máu với thiệt hại lớn mới về thoát dù chỉ là vài chục km cách biên giới.
- Sự phối hợp của quân Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa không tốt. Không quân Mỹ chỉ ném bom B52 dọn đường theo yêu cầu, còn nhiệm vụ phối hợp hoả lực chiến thuật cho bộ binh tác chiến gần như không làm được.
- Lực lượng máy bay trực thăng vào khu vực đậm đặc phòng không hiện đại đã chờ sẵn của đường mòn Hồ Chí Minh đã bị thiệt hại quá nặng nên không thể hoàn thành nhiệm vụ.
[sửa] Chú thích
- ▲ Tài liệu đầy đủ nhất về cuộc tiến công này là cuốn Lam Son 719 của đại tướng Nguyễn Duy Hinh. Washington DC: US Army Center of Military History, 1979. Xem thêm John Prados, The Blood Road, New York: John Wiley and Sons, 1998, tr. 317-361.
- ▲ Keith W. Nolan, Into Laos, Novato CA: Presidio Press, 1986.
- ▲ Nolan, p. 359.
- ▲ Nolan, Keith W. Into Laos: The Story of Dewey Canyon II/Lam Son 719, Vietnam 1971. Novato CA: Presidio Press, 1986. p. 358.
[sửa] Tham khảo
- Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào Ðại tá Trần Tiến Hoạt (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)
- Bowman John S. The Vietnam War Day by Day New York: Mallard Books, 1989.
- Fulgham, David, Terrence Maitland, et al. South Vietnam On Trial: Mid-1970 to 1972. Boston: Boston Publishing Company, 1984.
- Major General Nguyen Duy Hinh, Operation Lam Sơn 719. Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1979. toàn văn bằng tiếng Anh
- Nalty, Bernard C. Air War Over South Vietnam: 1968-1975. Washington DC: Air Force History and Museums Program, 2000.
- Nolan William K. Into Laos: The Story of Dewey Canyon II/Lam Son 719. Novato CA: Presidio Press, 1986.
- Tilford, Earl H. Setup: What the Air Force Did in Vietnam and Why. Maxwell Air Force Base AL: Air University Press, 1991.
- Van Stolkweg, South Vietnam Takes the Offensive-Lam Son 719. The Hague, Netherlands: Interdoc, 1991.
- “Indochina: The Soft-Sell Invasion”, Time, 1971-02-22. Địa chỉ URL được truy cập 2004-04-05.
- “Indochina: Tough Days on the Trail”, Time, 1971-03-08. Địa chỉ URL được truy cập 2004-04-05.
- “Showdown in Laos”, Time, 1971-03-15. Địa chỉ URL được truy cập 2004-04-05.
- “Was It Worth It?”, Time, 1971-03-09. Địa chỉ URL được truy cập 2004-04-05.
- “The Invasion Ends”, Time, 1971-04-05. Địa chỉ URL được truy cập 2004-04-05.
- “The Wan Edge of an Abyss”, Time, 1971-04-12. Địa chỉ URL được truy cập 2004-04-05.
[sửa] Liên kết ngoài
Tiếng Anh: