Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Loạt bài
Chính trị nước CHXHCN Việt Nam

Hiến pháp
Đảng Cộng sản
Tổng Bí thư
Bộ Chính trị
Ban Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương
Chủ tịch nước
Quốc hội
Chính phủ
Thủ tướng
Tòa án Nhân dân Tối cao
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao

sửa

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thường gọi tắt là Bộ Chính trị, theo điều lệ là cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian giữa hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, nhưng thực tế chính là cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng. Các thành viên trong Bộ Chính trị do Ban Chấp hành Trung ương bầu ra. Bộ Chính trị gồm các ủy viên chính thức và có thể có các ủy viên dự khuyết.

Bộ Chính trị có nhiệm vụ lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương báo cáo công việc đã làm trước hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương.

Trong số ủy viên Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương bầu ra Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ươngTổng Bí thư. Ngoài ra, một ủy viên Bộ Chính trị đảm nhận chức danh Thường trực Ban Bí thư.

Theo cơ cấu trong Đảng, các ủy viên Bộ Chính trị giữ tất cả những cương vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền: Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Phó thủ tướng thường trực, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an. Từ khóa VII (1991-1996) trở đi, Bí thư Thành ủy Hà Nội và Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh luôn luôn có mặt trong Bộ Chính trị. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cũng thường có mặt trong Bộ Chính trị, nhưng không phải trong mọi trường hợp: như các ông Hoàng Minh Giám, Ung Văn Khiêm, Xuân Thủy, Nguyễn Dy Niên không ở trong Bộ Chính trị.

Các ủy viên khác giữ những cương vị chủ chốt của bộ máy đảng: Trưởng Ban Tổ chức trung ương Đảng (đảm nhiệm công tác cán bộ), Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Đảng (kiểm tra tư cách đảng viên, chống tham nhũng). Tuy nhiên những người đứng đầu cơ quan tư pháp (Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao) lại không có mặt trong Bộ Chính trị.

Mục lục

[sửa] Lịch sử

[sửa] Ban Thường vụ Trung ương

Cơ cấu tổ chức Bộ Chính trị xuất hiện từ Đại hội II của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó là Đảng Lao động Việt Nam) họp năm 1951. Tiền thân của nó là Ban Thường vụ Trung ương.

Ban Thường vụ Trung ương đầu tiên xuất hiện từ sau Hội nghị lần thứ 1 (tháng 10 năm 1930).

Ban Thường vụ Trung ương do Đại hội I (1935) bầu ra có 5 người.

Ban Thường vụ Trung ương được bầu ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, khóa I (họp từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941), gồm Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt, đứng đầu là Tổng Bí thư Trường Chinh.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Ban Thường vụ Trung ương gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh,Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, sau bổ sung thêm Nguyễn Lương Bằng.

[sửa] Thường vụ Bộ Chính trị

Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào năm 1996 bỏ cơ cấu Ban Bí thư và tạo ra cơ cấu Thường vụ Bộ Chính trị. Mô hình tổ chức này chỉ tồn tại trong 5 năm, đến Đại hội IX (năm 2001) thì bị bãi bỏ, trở lại mô hình Ban Bí thư.

Bộ Chính trị bầu ra số thành viên thường trực, tạo thành Ban Thường vụ Bộ Chính trị. Thường vụ Bộ Chính trị thay mặt Bộ Chính trị lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của đảng; chuẩn bị các vấn đề trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định; chỉ đạo thực hiện các chủ trương về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng; giải quyết công việc hàng ngày của đảng.

Thường trực Bộ chính trị (1 người) có vai trò tương tự Thường trực Ban Bí thư ở các khóa khác, thay mặt Tổng Bí thư khi cần.

Ban Thường vụ Bộ Chính trị được bầu ra tại Đại hội VIII gồm 5 người: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng. Thường trực Bộ chính trị: Lê Khả Phiêu.

Hội nghị lần thứ 4 khoá VIII họp từ ngày 22 đến 29-12-1997 đã bầu ra Ban Thường vụ Bộ chính trị mới gồm: Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt. Thường trực Bộ chính trị: Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Phú Trọng (từ tháng 8 năm 1999).

[sửa] Danh sách ủy viên Bộ Chính trị các khóa

Danh sách ủy viên Bộ Chính trị thường không xếp theo vần chữ cái (thể hiện sự ngang vai) mà được xếp theo thứ bậc, bắt đầu từ Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương và Tổng Bí thư trở xuống. Tuy nhiên thứ bậc này có thể thay đổi ngay trong một khóa.

[sửa] Khóa I (1941-1951)

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, khóa I (họp từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941) bầu ra Ban Thường vụ Trung ương gồm có: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt, đứng đầu là Tổng Bí thư Trường Chinh.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Ban Thường vụ Trung ương gồm có: Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, sau bổ sung thêm Nguyễn Lương Bằng.

[sửa] Khóa II (1951-1960)

Từ năm 1955 bổ sung Lê Đức Thọ, từ 1956 thêm Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan.
  • 1 ủy viên dự khuyết: Lê Văn Lương (đến năm 1956)

[sửa] Khóa III (1960-1976)

Từ tháng 3-1972 bổ sung Văn Tiến Dũng, từ tháng 6-1972 thêm Trần Quốc Hoàn.

[sửa] Khóa IV (1976-1982)

  • 14 ủy viên chính thức: Lê Duẩn (Tổng Bí thư), Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Chu Huy Mân.
  • 3 ủy viên dự khuyết: Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười
  • Thường trực Ban Bí thư: Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị (1980-1982)

[sửa] Khóa V (1982-1986)

  • 13 ủy viên chính thức: Lê Duẩn (Tổng Bí thư đến khi mất năm 1986), Trường Chinh (Tổng Bí thư sau khi Lê Duẩn mất), Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm.
Từ tháng 6 năm 1985 bổ sung Nguyễn Văn Linh.

[sửa] Khóa VI (1986-1991)

  • 13 ủy viên chính thức: Nguyễn Văn Linh (Tổng Bí thư), Phạm Hùng (mất năm 1988), Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sĩ Nguyên, Trần Xuân Bách (đến tháng 3 năm 1990), Nguyễn Thanh Bình, Mai Chí Thọ.
  • 1 ủy viên dự khuyết: Đào Duy Tùng.
  • Thường trực Ban Bí thư: Đỗ Mười (đến 1988), Nguyễn Thanh Bình (từ 1988).

[sửa] Khóa VII (1991-1996)

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 tháng 11/12 năm 1993 bầu bổ sung 4 ủy viên chính thức: Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Hà Phan (đến năm 1996), Đỗ Quang Thắng.
  • Thường trực Ban Bí thư: Đào Duy Tùng

[sửa] Khóa VIII (1996-2001)

Tháng 12 năm 1997, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt rút khỏi Bộ Chính trị, làm Cố vấn Ban chấp hành Trung ương; bầu bổ sung 4 ủy viên: Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Minh Triết, Phan Diễn, Nguyễn Phú Trọng.
  • 5 ủy viên thường vụ mới: Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt
  • Thường trực Bộ Chính trị: Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Phú Trọng (từ tháng 8 năm 1999)

[sửa] Khóa IX (2001-2006)

  • 15 ủy viên chính thức: Nông Đức Mạnh (Tổng Bí thư), Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Minh Hương (mất năm 2004), Nguyễn Phú Trọng, Phan Diễn, Lê Hồng Anh, Trương Tấn Sang, Phạm Văn Trà, Nguyễn Văn An, Trương Quang Được, Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm.
  • Thường trực Ban Bí thư: Phan Diễn.

[sửa] Khóa X (2006-2011)

[sửa] Chú thích

  1. ^  Phiên họp trù bị bầu ông Nguyễn Đình Tứ vào Bộ Chính trị, sau đó ông mất nhưng không báo tang, đại hội chính thức vẫn bỏ phiếu theo đúng kết quả của phiên trù bị. Tên ông có trong danh sách Bộ Chính trị, sau đó mới báo tang.