Cải cách ruộng đất tại Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là một chương trình phân chia đất đai của địa chủ cho tá điền, do Đảng Lao Động Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực thi vào những năm 1953-1956.

Mục lục

[sửa] Mục đích

Chương trình Cải cách Ruộng đất là một bước trong tiến trình đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa, do Đảng Lao Động Việt Nam tổ chức và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực thi, hệ thống hóa và khai triển trên địa bàn rộng, công việc mà nhiều chính quyền địa phương đã làm từ những năm đầu Cách mạng Tháng Tám:

  1. tịch thu tài sản ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay "Việt gian" bỏ lại, hay bỏ hoang vì chiến tranh,
  2. phân chia cho tá điền,
  3. cắt giảm địa tô,
  4. bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng.

Theo tài liệu Đảng thì các công việc này cũng được Đảng và chính phủ tiếp tục từng bước giải quyết trong kháng chiến chống Pháp, nhưng đến 1953 thì mới được phát triển rộng.

Trong bài trả lời phỏng vấn đài RFA của nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng thì cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1949.

Thứ nhất là từ năm 1949, năm này để khuyến khích nông dân ra sức cày bừa thì nhà cầm quyền Việt Minh ra sắc lệnh để thành lập hội đồng giảm tô. Họ ấn định rằng các chủ đất phải giảm tối thiểu và đồng bộ tiền thuê đất (tô tức là tiền thuê đất) cho tá điền (tức là nông dân cày ruộng). Có nơi giảm đến 35% tiền thuê đất.

Sau đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Việt Minh gọi là Việt gian, tức là những người mà Việt Minh kết tội thông Pháp.

[sửa] Tổ chức

Tháng 11 1953, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhóm họp và thông qua dự luật cải cách ruộng đất 197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính thức ban hành bộ luật này vào ngày 19 tháng 12 năm 1953 để kỷ niệm ngày Toàn Quốc Kháng Chiến, mang tên "Luật Cải cách Ruộng đất". Đồng thời điểm này, Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam và Đại hội Toàn quốc Đảng Lao Động Việt Nam cũng họp và tổ chức chuẩn bị thi hành Cải cách Ruộng đất sâu rộng trên toàn lãnh thổ. Đảng cũng chỉ định một ủy ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất và hoạch định tiến trình cải cách ruộng đất.

[sửa] Ban lãnh đạo

  1. Trưởng ban chỉ đạo: ông Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng)
  2. Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thái Nguyên: ông Hoàng Quốc Việt (Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng)
  3. Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh: ông Lê Văn Lương (Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng)
  4. Giám đốc trực tiếp điều hành chiến dịch: ông Hồ Viết Thắng (Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng).

[sửa] Tiến trình

Chương trình Cải cách Ruộng đất được áp dụng qua bốn bước chính:

Bước 1. Huấn luyện cán bộ. Các cán bộ Đảng tham gia Cải cách Ruộng đất được đưa đi học khóa Chỉnh huấn 1953, và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc. Các chương trình học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của Đảng trong Cải cách Ruộng đất. Tổng số các bộ được điều động vào công tác là 48.818 người.

Bước 2. Chiến dịch Giảm tô. Bước đầu, các đội cán bộ Cải cách Ruộng đất đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau:

  • Phân định thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xã, và tất cả các gia đình trong xã được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ (b) phú nông (c) trung nông cứng (sở hữu 1 con bò, 1 con heo, 1 đàn gà) (d) trung nông vừa (sở hữu 1 con heo, 1 đàn gà) (e) trung nông yếu (sở hữu 1 đàn gà hay không có gì cả) (f) bần nông (g) cố nông.
  • Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội Cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác (a2) Địa chủ thường (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội Cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.
  • Áp dụng thoái tô: Các gia đình có địa chủ bị bắt được đội Cải cách cho biết là tháng 11 năm 1945 chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) có sắc lệnh giảm tô xuống còn 25%, và sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Chú thích: tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Do đó, gia đình nào chưa giảm tô cho nông dân thì phải trả số nợ đó, gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ thì tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Hầu hết gia đình địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt qua bước nầy, vì nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp thì không biết gì về các sắc lệnh nhà nước VNDCCH.
  • Học tập tố khổ: Các gia đình bần nông, cố nông được đội Cải cách cho đi học tập lớp tố khổ, qua đó học viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đã bóc lột họ như thế nào.
  • Công khai đấu tố: Các buổi đấu tố được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu tố từ vài trăm đến vài ngàn người, và thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của đia chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội đia chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức Cải cách Ruộng đất, Đảng cho ra tờ báo lấy tên là "Lá Rừng" (ngụ ý tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử.
  • Xử án địa chủ: Tại các huyện, một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, địa chủ bị xử bắn trước công chúng do đội tự vệ xã hành quyết. Những người không được xử bắn thì bị cô lập trong các làng xã, một số bị thiệt mạng vì bị bỏ đói.
Tổng cộng có tám đợt giảm tô từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 1.875 xã.

Bước 3. Chiến dịch Cải cách Ruộng đất. Nhiều tháng sau khi Chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương trình Cải cách Ruộng đất chính thức bắt đầu, với hình thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn, và các gia đình địa chủ có thành tích kháng chiến, kể cả các gia đình có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong kháng chiến cũng bị đấu tố. Tổng cộng có năm đợt Cải cách Ruộng đất từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 3.314 xã.

Bước 4. Chiến dịch Sửa Sai. Do nhận định chiến dịch Cải cách Ruộng đất giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao Động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai như sau:

  • Tháng Hai 1956, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất.
  • Tháng Ba 1956, Quốc Hội họp lần thứ 4 tường trình bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai.
  • Ngày 18/8/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm và cho biết Trung ương Đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
  • Ngày 24/8/1956, báo Nhân Dân công bố có một số đảng viên trung kiên đã bị hành quyết sai lầm trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất.
  • Tháng Chín năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỹ luật đối với Ban lãnh đạo Chương trình Cải cách Ruộng đất như sau: ông Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư Đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Chấp hành Trung ương Đảng.
  • Ngày 29/10/1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người không tham gia trực tiếp vào sai lầm Chương trình Cải cách Ruộng đất, thay mặt chủ tịch nước đọc bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại nhà hát lớn Hà Nội, kê khai sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.

Theo tổng kê đến tháng 9 năm 1957, thì chiến dịch sửa sai phục hồi khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Nếu đã chết thì vợ con hay thân nhân được bồi thường tài sản. Theo báo Nhân Dân thì chiến dịch sửa sai cũng gây thêm chết chóc khi các đảng viên được phục hồi trả thù những người đã đấu tố họ oan ức, hoặc chưa kịp trả thù thị bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù.

[sửa] Kết quả

Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu bò. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà. Giai cấp địa chủ hoàn toàn bị tiêu diệt tại miền Bắc.

Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số lượng người bị giết trong Chương trình Cải cách Ruộng đất là 100.000 đến 200.000 người. Theo Bernard Fall thì không thể biết chính xác con số, nhưng ít nhất khoảng 50.000 người bị giết và 100.000 người bị bắt giam. Theo ông Nguyễn Minh Cần, có khoảng 20.000 người. Theo Tibor Mende, khoảng 15.000 người bị giết. Theo Tiến sĩ Võ Nhân Trí, dựa trên tài liệu văn khố Trung ương Đảng, thì khoảng 15.000 người bị giết. Theo Tuần báo Time số 1 tháng bảy 1957 thì khoảng 15.000 người bị giết. Ngoài ra một số nhân chứng khác như ông Võ Văn Kiệt, Đại tá Bùi Tín, ông Vũ Thư Hiên, cũng có đưa ra nhận định như đã nêu trong bài cải cách ruộng đất.

Theo giáo sư Lê Xuân Khoa thì Chương trình Cải cách Ruộng đất là một trong ba nguyên nhân chính đưa đến cuộc di tản 1954. Ngoài ra, ông nhận định lượng lúa gạo sản xuất ở đồng bằng sông Hồng bị giảm sút trầm trọng trong những năm cải cách ruộng đất và ngay sau đó.

[sửa] Các đợt cải cách

Đợt Địa Bàn Thời Điểm Số xã đưa vào
Cải cách Ruộng đất
Đợt Thí điểm Thái Nguyên 25/12/1953 đến 22/10/1954 không rõ
Đợt 1 Một số các vùng kiểm soát 1/4/1954 đến 15/01/1955 không rõ
Đợt 2 Thái Nguyên 23/10/1954 đến 15/01/1955 22
Đợt 2 Phú Thọ 23/10/1954 đến 15/01/1955 100
Đợt 2 Bắc Giang 23/10/1954 đến 15/01/1955 22
Đợt 2 Thanh Hóa 23/10/1954 đến 15/01/1955 66
Đợt 3 Vĩnh Phúc 18/02/1955 đến 20/06/1955 65
Đợt 3 Phú Thọ 18/02/1955 đến 20/06/1955 106
Đợt 3 Bắc Giang 18/02/1955 đến 20/06/1955 84
Đợt 3 Sơn Tây 18/02/1955 đến 20/06/1955 22
Đợt 3 Thanh Hóa 18/02/1955 đến 20/06/1955 115
Đợt 3 Nghệ An 18/02/1955 đến 20/06/1955 74
Đợt 4 Vĩnh Phúc 27/06/1955 đến 31/12/1955 111
Đợt 4 Phú Thọ 27/06/1955 đến 31/12/1955 17
Đợt 4 Bắc Giang 27/06/1955 đến 31/12/1955 1
Đợt 4 Bắc Ninh 27/06/1955 đến 31/12/1955 60
Đợt 4 Sơn Tây 27/06/1955 đến 31/12/1955 71
Đợt 4 Thanh Hóa 27/06/1955 đến 31/12/1955 207
Đợt 4 Nghệ An 27/06/1955 đến 31/12/1955 5
Đợt 4 Hà Tĩnh 27/06/1955 đến 31/12/1955 227
Đợt 4 Hà Nam 27/06/1955 đến 31/12/1955 98
Đợt 4 Ninh Bình 27/06/1955 đến 31/12/1955 47
Đợt 5 Bắc Ninh 25/12/1955 đến 30/07/1956 8
Đợt 5 Nghệ An 25/12/1955 đến 30/07/1956 163
Đợt 5 Hà Tĩnh 25/12/1955 đến 30/07/1956 6
Đợt 5 Ninh Bình 25/12/1955 đến 30/07/1956 45
Đợt 5 Quảng Bình 25/12/1955 đến 30/07/1956 118
Đợt 5 Vĩnh Linh 25/12/1955 đến 30/07/1956 21
Đợt 5 Hải Dương 25/12/1955 đến 30/07/1956 217
Đợt 5 Hưng Yên 25/12/1955 đến 30/07/1956 149
Đợt 5 Thái Bình 25/12/1955 đến 30/07/1956 294

[sửa] Tham khảo

  • Lịch Sử Việt Nam, 1954-1965, Cao Văn Lượng chủ biên, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1995.
  • Đại Cương Lịch Sử Việt Nam, 1945-2000 tập III, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2000.
  • Góp phần tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt nam PGS TS Nguyễn Trọng Phúc chủ biên, Nxb Chính Trị Quốc Gia: Viện Lịch sử Đảng, Học Viên Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
  • Việt Nam, 1945-1995 tập I, GS Lê Xuân Khoa, Nxb Tiên Rồng, Maryland, 2004.
  • Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất, Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo, LS Nguyễn Mạnh Tường, diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng Mười 1956 tại Hà Nội.
  • The Viet Minh Regime, Government and Administration in the Democratic Republic of Vietnam, Bernard Fall, Greenwood Press, Connecticut, 1975.
  • From Colonialism to Communism, Mạc Định Hoàng Văn Chí, Nxb F.A. Praeger, New York, 1964.

[sửa] Xem thêm

[sửa] Liên kết ngoài