Đặc công

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đặc công là một lực lượng đặc biệt tinh nhuệ được tổ chức, trang bị và huấn luyện đặc biệt, có phương pháp tác chiến linh hoạt, táo bạo, bất ngờ, thường dùng để đánh các mục tiêu hiểm yếu nằm sâu trong đội hình chiến đấu, bố trí chiến dịch và hậu phương của địch.

Mục lục

[sửa] Đặc công của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Trong Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), "đặc công" hay còn gọi là "bộ đội đặc công" được tổ chức thành một binh chủng thuộc quân chủng lục quân.

Binh chủng đặc công chính thức ra đời ngày 19-3-1967. Đây là binh chủng đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đặc công là từ gọi tắt của cách đánh "công tác đặc biệt". Có nhiều loại đặc công như đặc công bộ, đặc công nước, đặc công biệt động đô thị. Trong lịch sử chiến đấu, chiến thuật đặc công đã làm nên những chiến thắng lớn ở những nơi, trước những lực lượng mạnh như sân bay Cát Bi, Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Gia Lâm, Bạch Mai, Phú Thọ Hòa, Hội An, Tua Hai, Núi Thành, Hoài Đức, Bắc Ruộng, Long Bình, Đồng Dù, Thành Tuy Hạ, Nhà Bè, sứ quán Mỹ, Đắc Hà...

Ngày nay Binh chủng đặc công còn được huấn luyện công tác chống khủng bố.

[sửa] Binh chủng Đặc công

Binh chủng Đặc công là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Lục quân QĐNDVN, là Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Ngày thành lập (ngày truyền thống): 19 tháng 3 năm 1967

Tổ chức lực lượng lúc mới thành lập :

  • 9 tiểu đoàn đặc công
  • Trường bổ túc cán bộ
  • 3 cơ quan.

Tư lệnh qua các thời kỳ :

  • Nguyễn Chí Điềm (1967-1976)
  • Nguyễn Chi (1980-1982)
  • Nguyễn Anh Đệ (1983-1985)
  • Nguyễn Tư Cường (1985-1992)
  • Nguyễn Mai Năng (1993-1996)
  • Trần Thanh Phương (Từ 1997…)

Truyền thống: "Đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời, mưu trí, táo bạo, đánh hiểm thắng lớn".

Tuy ngày thành lập, như trên ghi là năm 1967, nhưng từ những năm kháng chiến chống Pháp, cách đánh "công đồn đặc biệt" ở chiến trường Nam Bộ, cách đánh và tổ chức đặc công đã phát triển nhanh chóng, hình thành 3 loại lực lượng

[sửa] Đặc công bộ

Trong kháng chiến chống Pháp, từ sau cuộc tiến công lên Việt Bắc bị thất bại, Pháp xây dựng hàng loạt đồn bót. Trước tình hình mới, bộ đội không thể dừng lại ở những trận tập kích, phục kích tiêu hao, quấy rối, mà phải tiến lên tiêu diệt các cứ điểm nhỏ này. Nhưng để đánh được cứ điểm thì phải dùng cách đánh bất ngờ (kỳ tập). Nếu Pháp phòng thủ mạnh phải có pháo hạng nặng (cường tập), mà bộ đội thì pháo quá ít, đạn pháo khan hiếm.

Cuối cùng một cách đánh mới được đề xuất: tranh thủ đánh bất ngờ, nếu bị lộ thì chuyển sang đánh bằng hỏa lực mạnh. Với cách đánh kỳ tập kết hợp với cường tập, từ Thu Đông 1948 đến đầu 1950, trên chiến trường Bắc Bộ, bộ đội đã tiêu diệt hàng loạt đồn bốt, cứ điểm Pháp.

Ở chiến trường Nam Bộ, Pháp tăng quân, xây dựng hệ thống bót Delatour là sản phẩm của tướng Delatour Desmer, tư quân viễn chinh Pháp ở Nam Bộ. Hàng loạt đồn bót dựng lên xung quanh thị xã, thành phố và trên các đường giao thông quan trọng, nhằm bao vây, chia cắt, ngăn chặn lực lượng vũ trang Việt Minh.

Phong trào du kích phát triển khắp nông thôn, thành thị, nhưng Việt Minh gặp khó khăn do chưa có chiến thuật hữu hiệu và loại vũ khí có đủ sức công phá tường dày của tháp canh. Qua nhiều lần thử nghiệm thắng lợi, đặc biệt là trận đánh đêm 18 rạng 19 tháng 3 năm 1948 tiêu diệt đồn cầu Bà Kiên, đã mở ra một khả năng mới đánh địch trong vị trí cố thủ vũng chắc. Từ thực tế đánh tháp canh, Việt Minh đúc kết được kinh nghiệm thực tiễn, làm tiền đề cho chiến thuật đặc công ra đời.

[sửa] Đặc công nước

Nếu đặc công bộ có lối đánh đặc biệt thì đặc công nước càng đặc biệt, vì đánh dưới nước khó khăn hơn nhiều so với trên bộ, trang bị vũ khí cũng khác biệt hơn. Đặc công nước (còn gọi là đặc công thủy) ra đời do yêu cầu đánh vào đối tượng hải quân của Pháp và những mục tiêu vùng sông nước, do đó xuất hiện gần như song song với đặc công bộ.

Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương, các hoạt động trên sông nước của Pháp chiếm một phần quan trọng trên chiến trường. Lợi dụng lãnh thổ Việt Nam có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, có vùng sông ngòi chằng chịt như miền Tây Nam Bộ, quân Pháp đã bố trí một lực lượng hải quân khá mạnh. Hải quân Pháp tập trung vào 3 hoạt động chủ yếu:

  • Dùng tàu thuyền chiến đấu hỗ trợ cho bộ binh đi càn quét
  • Đánh phá căn cứ, ngăn chặn tiếp tế, vận chuyển của Việt Minh
  • Dùng đường thủy để tiếp hậu cần cho quân Pháp trên đất liền

Vì thế việc đánh Pháp trên mặt trận sông biển có ‎ý‎ nghĩa chiến lược quan trọng. Ở miền Bắc, các vùng ven sông, ven biển khẩn trương xây dựng các đội săn tàu Pháp, sẵn sàng đánh Pháp trên mặt trận sông nước.

Trong chiến dịch Hà-Nam-Ninh (tháng 6 năm 1951), tổ đặc công nước do Nguyễn Quang Vinh (thuộc trung đoàn 36, Đại đoàn 308) chỉ huy dùng thuyền nan chở 300 kg thuốc nổ đánh chìm tàu LCD chở vũ khí của quân Pháp[cần chú thích]. Đây là trận mở đầu cho cách đánh tàu chiến trên chiến trường Bắc Bộ, tạo tiền đề cho việc nghiện cứu sử dụng đặc công đánh các mục tiêu tên sông, biển. Ở miền Nam, đầu năm 1949, đội săn tàu Long Châu Sa dùng thủy lôi tự tạo đánh chìm tàu Glyxin trên sông Sài Thượng, diệt hàng trăm quân đối phương[cần chú thích].

Ở vùng Rừng Sác, tháng 9-1950, các đội đặc công được hình thành từ Trung đoàn 300, hoạt động ở vùng Nhà Bè, Thủ Thiêm xuống Cần Giờ, Soài Rạp. Lực lượng này chiến đấu rất dũng cảm, táo bạo, được gọi là "quân cảm tử", diệt nhiều chỉ huy Pháp, và tay sai. Như vậy trong giai đoạn đầu kháng chiến, cùng với cách đánh của đặc công bộ, cách đánh của đặc công thủy cũng bắt đầu phát triển. Dựa trên những tiến bộ của quá trình nghiên cứu cải tiến vũ khí, các địa phương ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã tổ chức được một lực lượng chuyên, tinh để đánh tàu, thuyền bằng cách đánh đặc công.

[sửa] Đặc công biệt động

Do tính chất của cuộc kháng chiến lâu dài và để phù hợp với phương châm, phương thức hoạt động tác chiến ở thành phố, bên cạnh các lực lượng vũ trang đô thị như Tự vệ thành, Thanh niên xung phong, Quốc gia tự vệ cuộc, Công đoàn xung phong … các tổ chức quân sự chuyên trách lần lượt ra đời.

Sài Gòn, 10 ban công tác thành hoạt động mạnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu trưởng Nguyễn Bình. Ở nhiều thành phố khác như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, các đội công tác đặc biệt và biệt động cũng khẩn trương thành lập làm nhiệm vụ tiêu diệt những phần tử đối phương nguy hiểm và phá hoại cơ sở kinh tế của đối phương.

Các tổ, đội vũ trang biệt động hoạt động ngay trong lòng đối phương, từ đánh nhỏ, lẻ, tiến lên đánh biệt động đặc công táo bạo, linh hoạt.

Nổi lên trong các hoạt động tại Sài Gòn là nữ sinh trường Quân chính Nguyễn Thị Lan (Lan Mê Linh) 17 tuổi đã dùng súng ngắn ám sát chủ bút báo "Phục Hưng" là Hiền Sỹ tháng 3 năm 1946[cần chú thích].

Đặc biệt ngày 8 tháng 6 năm 1946 ban công tác thanh đánh kho đạn của Pháp, thiêu hủy 400 tấn đạn dược, thuốc nổ, làm chết 40 lính Pháp. Đạn nổ liên lục 3 ngày đêm[cần chú thích]. Đầu năm 1947, lực lượng biệt động Hải Phòng phối hợp với bộ đội địa phương tập kích sân bay Cát Bi, diệt một trung đội lính Âu Phi[cần chú thích]. Năm 1948 biệt động Đà Nẵng cùng với bộ đội địa phương, công an xung phong đột nhập, tiêu diệt, trấn áp tay sai của Pháp.

Tại Hà Nội, đêm 18 tháng 1 năm 1950, biệt động phối hợp với Tiểu đoàn 108 tập kích sân bay Bạch Mai, phá hủy 25 xe các loại, thiêu hủy 1.270.000 lít xăng dầu, tiêu diệt nhiều sỹ quan và binh lính đối phương...[cần chú thích]

Không chỉ ở những thành phố lớn, đặc công biệt động phát triển ở hầu hết thành phố, thị xã, vùng Pháp kiểm soát, trở thành một lực lượng thường xuyên đe doạ trực tiếp ngay tại cơ sở đối phương, đồng thời phối hợp với hoạt động chính trị gây cho đối phương nhiều hoang mang.

[sửa] Trong Chiến tranh Việt Nam

Trong Chiến tranh Việt Nam, bộ đội đặc công trên các chiến trường đã đánh hàng chục nghìn trận[cần chú thích]; loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn quân đối phương (gồm cả Mỹ và đồng minh); tiêu diệt và đánh thiệt hại hàng trăm sở chỉ huy các cấp; phá hủy và phá hỏng hàng nghìn máy bay các loại, 1600 khẩu pháo, 30 giàn tên lửa, 9000 xe quân sự, 2,7 triệu tấn bom đạn, 600 triệu lít xăng dầu; đánh chìm, đánh hỏng 400 tàu xuồng chiến đấu.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, bộ đội đặc công đã đánh đồng loạt vào những mục tiêu hiểm yếu, quan trọng của đối phương ở hầu khắp các thành phố, thị xã miền Nam, góp phần làm suy sụp tinh thần nước Mỹ, tạo bước ngoặt quyết định của chiến tranh.

Trong chiến dịch này, lực lượng Biệt động Sài Gòn bị tổn thất khá nặng nề. Thứ nhất là mất gần hết lực lượng "gạo cội", vốn là các cán bộ có trình độ am hiểu chiến trường và có bản lĩnh chiến đấu. Số người bị giết, bị bắt ở các mũi tiến công khá lớn. Tổn thất thứ hai là các cơ sở tại chỗ vốn được dày công xây dựng đã bị bể hàng loạt.

Trong Chiến dịch mùa xuân 1975, đặc công biệt động đã đánh chiếm, giữ vững nhiều cầu và căn cứ quan trọng, bảo đảm cho các binh đoàn chủ lực tiến công, giành thắng lợi nhanh chóng và trọn vẹn.

[sửa] Lực lượng đặc nhiệm của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Lực lượng đặc nhiệm của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng được gọi là đặc công, nhưng có nhiệm vụ đặc biệt (xuất xứ từ "đặc công" là "công tác đặc biệt"). Năm 1965, đơn vị không vận đầu tiên được thành lập, phiên hiệu là Lữ đoàn không vận 305[cần chú thích], đóng ở Sơn Tây. Đơn vị này về sau được chuyển thành Lực lượng đặc nhiệm. Các binh sỹ được tuyển chọn kỹ càng, yêu cầu rất khắt khe như phải trẻ, khỏe mạnh, có lý tưởng, dũng cảm, gan dạ, phải được giới thiệu bởi hai đảng viên khác. Các chiến sỹ được huấn luyện đặc biệt, với nhiệm vụ là truy lùng và tiêu diệt biệt kích Mỹ (SOG)[1].

Họ được chia thành nhiều đơn vị nhỏ, ở mức đại đội và tiểu đoàn. Theo Plaster [2], đến cuối 1971-1972, có tới trên 12 tiểu đoàn đặc nhiệm QĐNDVN đóng ở các điểm nóng Tây Bắc, đường Trường Sơn để đối phó với biệt kích Mỹ, gây ra nhiều khó khăn và thiệt hại cho các toán biệt kích Mỹ. Các lính đặc nhiệm này đánh rất dữ dội và không khoan nhượng, nhiều khi không bắt tù binh, khiến cho biệt kích Mỹ cũng rất ngao ngán khi phải chạm trán với các đơn vị này.[3]

[sửa] Lực lượng đặc nhiệm Việt Nam Cộng Hòa

Phía Việt Nam Cộng hòa cũng có các đơn vị đặc nhiệm, dưới nhiều tên gọi và nhiều đơn vị khác nhau như Biệt kích, Biệt Hải, Biệt Động Quân, Biên Phòng Quân... các đơn vị này rất thiện chiến, tinh thần chiến đấu rất cao, phần nhiều đều là quân tình nguyện, được trả lương cao, trang bị tốt, đối xử đặc biệt, được tổ chức đến cấp tiểu đoàn, lữ đoàn, ngoài nhiệm vụ do sát, đột kích phá hoại đối phương, còn làm nhiệm vụ chiến đấu, thường là mũi nhọn tiến công hoặc đơn vị chặn hậu.

Cũng chiến đấu trong hàng ngũ quân VNCH, nhưng được trực tiếp tuyển mộ, trả lương và chỉ huy bởi người Mỹ, là các binh lính biệt kích người gốc Nùng[4] và người Thượng (Montagnard). Có khoảng 500 người gốc Bắc được huấn luyện và thả dù ra miền Bắc để thu thập tin tức, phá hoại, nhưng tất cả đều bị giết hoặc bắt sống, bị đi tù hàng chục năm. Năm 1973, khi Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến hành trao đổi tù binh với Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa, phía VNDCCH coi những lính biệt kích này là lính đánh thuê, không được xếp loại tù binh chiến tranh nên không được trao trả. Hiện nay chừng 150 người còn sống đã đi định cư ở Hoa Kỳ, nhưng vẫn còn nhiều người còn ở Việt Nam[5].

Nhiều người khác phục vụ trong các đội biệt kích SOG của Mỹ. Tổng cộng lực lượng biệt kích SOG lên đến trên 2.000 lính Mỹ và chừng hơn 8.000 lính đánh thuê[cần chú thích], phần nhiều là người Thượng và người Nùng và một số người Việt. Số quân Mỹ đa phần mang cấp bậc sỹ quan và hạ sỹ quan, đa phần là các binh lính thiện chiến, dày dặn kinh nghiệm, nhiều thành tích chiến trường, được tuyển chọn kỹ lưỡng từ nhiều binh chủng. Số quân đánh thuê bản xứ cũng được huấn luyện và trang bị đặc biệt. Các sỹ quan Việt Nam cộng hòa trong các đơn vị phối thuộc, nhất là các phi công, cũng có nhiều người được đánh giá là kiệt xuất, ông Nguyễn Cao Kỳ khi còn chưa tham gia chính trường cũng đã từng tham gia bay tung biệt kích dù ra bắc[cần chú thích].

Rất nhiều người bị giết trong các điệp vụ biệt kích. Thông thường một toán biệt kích thường bao gồm 2-3 lính Mỹ, và chừng 6-9 lính đánh thuê người Nùng hoặc người Thượng. Ngoài ra người Mỹ còn thành lập nhiều đại đội biệt kích gọi là Hatchet force hay Mike force. Quân đội Việt Nam Cộng hòa cũng có các lực lượng biệt kích tương tự, nhưng không thấy nói đến sự phối hợp giữa quân biệt kích Mỹ và biệt kích Việt Nam cộng hòa, vì lý do an ninh, tất cả các hoạt động của SOG đều do người Mỹ đảm trách. Nhiệm vụ của các toán biệt kích rất nguy hiểm, nhiều toán bị tiêu diệt hoàn toàn, các lực lượng giải cứu cũng phải chấp nhận nhiều thiệt hại khi giải cứu các nhóm biệt kích, bị mất nhiều trực thăng và phi công giỏi.

Cho tới 1972, hoạt động của các nhóm biệt kích trở nên đặc biệt khó khăn, thời gian hoạt động của các toán biệt kích từ khi được trực thăng vận vào hậu phương đối phương dọc đường mòn Hồ Chí Minh giảm đi từ hàng tuần lễ như khi mới bắt đầu chương trình còn vài giờ. Họ nhanh chóng bị phát hiện, bao vây, phải được ứng cứu để rút ra nếu không muốn bị bao vây tiêu diệt hoặc bắt sống. QNDVN và Giải phóng quân (GPQ) ngày càng trở nên hữu hiệu trong các hoạt động chống biệt kích, như sử dụng các đội đặc nhiệm chống biệt kích, phối hợp các lực lượng tại chỗ để truy quét, đặt các quan sát viên ở các vùng khả nghi là bãi đáp trực thăng, cài người xâm nhập vào căn cứ biệt kích, thậm chí dùng đặc công đánh vào căn cứ biệt kích ở ngay Đà Nẵng...

Đặc biệt, khi chiến tranh kết thúc, người Mỹ mới được biết là tin tức hoạt động của các nhóm biệt kích bị lộ từ những nguồn cao nhất. Một trong những tùy viên của tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Cộng hòa đã cung cấp những tin tức chính xác về thời gian, địa điểm hoạt động của các toán biệt kích SOG, nên QDNDVN đã có thể tiến hành các hữu hiệu các biện pháp đối phó.

Một trong những tổn thất nặng nề nhất của SOG là trận Làng Vây tháng hai năm 1968. Chừng một tiểu đoàn Giải phóng quân có xe tăng yểm trợ đã chọc thủng hàng rào phòng ngự Làng Vây do nhiều đại đội biệt kích Thượng trấn giữ, tổng số lên đến hơn 500 người, được 24 cố vấn Mỹ chỉ huy. Căn cứ Làng Vây thất thủ, Giải phóng quân chiếm giữ làng Vây trong nhiều giờ trước khi rút đi, các hoạt động cứu viện của Mỹ quá yếu ớt và quá chậm nên không có tác dụng gì, và lại mất thêm một số thương vong nữa. Lính thủy đánh bộ Mỹ từ căn cứ Khe Sanh cũng từ chối ứng cứu Làng Vây do sợ bị phục kích. Kết quả lực lượng phòng ngự Làng Vây bị tiêu diệt gần như hoàn toàn, người Mỹ cũng bỏ hoang căn cứ Làng Vây từ đó.

Hiện chưa có số liệu thống kê, chỉ biết rằng riêng số lính biệt kích Mỹ có ít nhất hơn 300 người bị giết, trong đó có 57 người mất tích[6], chưa kể đến số phi công bị bắn rơi và nhân lực phụ trợ, hơn thế nữa, đa phần số bị chết và bị thương đều là hạ sỹ quan và sỹ quan. Theo Schultz, thương vong trong các toán SOG lên đến trên 50%, nhiều người bị thương nhiều lần. Theo Plaster, nếu một lính biệt kích SOG đi đến lần thứ 12 mà vẫn chưa bị giết thì đã là một điều đáng ngạc nhiên. Số lính đánh thuê người Nùng và người Thượng chắc chắn còn bị thương vong cao hơn gấp nhiều lần. Tuy nhiên lực lượng SOG do Mỹ chỉ huy cũng đã gây rất nhiều tổn thất cho QDNDVN, và cũng được các sỹ quan trực tiếp đảm nhiệm coi là một thành công[cần chú thích].

[sửa] Chú thích

  1. Richard Schultz Jr, The secret war against Hanoi, p. 241
  2. John Plaster, The secret wars of America's commandos in Vietnam
  3. Richard Schultz, ibid
  4. John Plaster, số lính đánh thuê người Nùng này đa phần là những người di cư sau 1954, do chính quyền VNCH không tin tưởng họ, nên không bắt họ phải đi quân dịch, do đó người Mỹ có được một nguồn nhân lực dồi dào để tuyển mộ. Các sỹ quan SOG cho rằng chất lượng quân Nùng cao hởn lính Việt rất nhiều
  5. Sedgwick Tourison, Secret army, secret war
  6. John Plaster, The secret wars of America's commandos in Vietnam, p. 340

[sửa] Xem thêm