Phạm Tuân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phạm Tuân (sinh năm 1947) là nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Việt Nam và châu Á bay lên vũ trụ. Cũng có thể nói ông là người đầu tiên từ một nước đang phát triển hay nước thuộc Thế giới thứ ba bay vào không gian. Ông cũng là một trong số ít người nước ngoài được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
[sửa] Tiểu sử
Phạm Tuân sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947 tại xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Không quân Nhân dân Việt Nam năm 1965, tốt nghiệp Trường phi công quân sự ở Liên Xô năm 1967 và trở thành sỹ quan lái máy bay chiến đấu của Trung đoàn Không quân Sao Đỏ, tham gia bắn máy bay Mỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ đó đến năm 1975. Vào đêm 27 tháng 12 năm 1972, theo tài liệu lịch sử chính thức của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông bắn rơi một máy bay B-52 của Mỹ và trở thành người đầu tiên bắn hạ được loại máy bay này từ trên không, nếu không kể một phi công khác tên là Vũ Xuân Thiều đã đâm máy bay của mình vào máy bay B-52 của Mỹ. Chiếc MiG-21 của Phạm Tuân cất cánh hồi 22 giờ 16 phút đêm 27 tháng 12 năm 1972 từ sân bay dã chiến Yên Bái, theo chiến thuật "đi thấp kéo cao", bỏ qua hai tốp F4 để tiếp cận hai chiếc B-52, bắn rơi một chiếc trên vùng trời phía tây Hà Nội rồi trở về hạ cánh xuống sân bay Yên Bái. Do thành tích này, ông được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 3 tháng 9 (1973), khi đang là thượng úy biên đội trưởng thuộc Đại đội 5, trung đoàn 921, Sư đoàn Không quân 371.
Năm 1978 Phạm Tuân được cử đi học tại Học viện Không quân Gagarin (Liên Xô), năm sau chuyển loại sang bay vũ trụ. Phạm Tuân được chọn vào đội bay quốc tế thứ sáu trong chương trình Intercosmos của Liên Xô ngày 1 tháng 4 năm 1979. Cùng được chọn với ông còn có phi công dự phòng Bùi Thanh Liêm, người sau này tử nạn trong một tai nạn máy bay chiến đấu.
Phạm Tuân, cùng với nhà du hành vũ trụ Xô viết Viktor Gorbatko được phóng vào không gian từ sân bay vũ trụ Baikonur trên tàu Soyuz 37 vào ngày 23 tháng 7 năm 1980, tức ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Thân, và trở về Trái Đất ngày 31 tháng 7. Họ thực hiện nhiệm vụ trên trạm không gian Salyut 6 cùng với hai nhà du hành vũ trụ Xô viết khác.
Trong toàn bộ thời gian trên quỹ đạo, Phạm Tuân đã tiến hành các thí nghiệm về hòa tan các mẫu khoáng chất trong tình trạng không trọng lực. Ông cũng tiến hành các thí nghiệm cây trồng trên bèo hoa dâu. Phạm Tuân cũng chụp ảnh Việt Nam từ quỹ đạo Trái đất dùng cho công tác lập bản đồ.
Phạm Tuân ở trong không gian trong vòng 7 ngày, 20 giờ và 42 phút. Ông đã thực hiện tổng cộng 142 vòng quỹ đạo quanh Trái đất.
Với thành tích này, ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động Việt Nam (1980), kèm theo Huân chương Hồ Chí Minh ở tuổi 33, cấp bậc trung tá. Cùng năm đó, ông cũng vinh dự trở thành một trong những người nước ngoài đầu tiên được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, kèm theo Huân chương Lenin. Như vậy ông là người Việt Nam duy nhất ba lần được trao tặng danh hiệu Anh hùng (Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng Lao động của Việt Nam, Anh hùng Liên Xô).
Ông còn được trao giải thưởng quốc tế mang tên Pyotr Đại đế đầu tiên do Quỹ những nhà quản lý giỏi nhất thời đại mới của Nga tổ chức.
Ông đã tốt nghiệp Học viện Không quân Gagarin (Liên Xô) năm 1982.
Năm 1989 ông là Phó Tư lệnh Chính trị Quân chủng Không quân. Ông hiện mang quân hàm Trung tướng (từ 1999) của Không quân Việt Nam, giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng trực thuộc Bộ Quốc phòng (từ 2000), và là đại biểu Quốc hội Việt Nam. Ông có vợ là thượng tá bác sĩ quân y Trần Thị Phương Tiến và hai con.
[sửa] Liên kết ngoài
- Phạm Tuân đã mang sách vào vũ trụ?
- Anh hùng Phạm Tuân nhận Giải thưởng Piot Đại đế
- Ai là người bắn rơi chiếc B52
Thể loại: Nhà du hành vũ trụ Việt Nam | Huân chương Hồ Chí Minh | Huân chương Lenin | Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam | Anh hùng lực lượng vũ trang | Anh hùng Lao động Việt Nam | Anh hùng Liên Xô | Trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam | Đại biểu Quốc hội Việt Nam | Người Thái Bình | Phi công Việt Nam | Sinh 1947