Khoa học về sự học
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tiến sĩ Madeleine Roy và Tiến sĩ Jean-Marc Denommé
Năm 1985 trong báo cáo của Ủy ban Canada gửi cho Unessco, Alain . M. Thomas (1), giáo sư Đại học Toronto đã đề xuất ý kiến cho rằng các nghiên cứu việc học, tại thời điểm đó vẫn chỉ được coi như một chuyên ngành phụ thuộc vào môn tâm lí, phải trở thành một chuyên ngành độc lập với tên gọi «Khoa học về sự học» (mathétique). Từ nguyên trong tiếng Hylạp của tên này muốn nói đến «khoa học» và «nghệ thuật học tập» (μáνθaειν= học). Do đó lí thuyết và thực tiễn học tập sử dụng nhiều kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác, nhất là khoa học thần kinh nhận thức.
Thật vậy khoa học về sự học là nghệ thuật và là khoa học của việc học nhằm ứng dụng các kết quả của khoa học thần kinh nhận thức trong giáo dục. Khoa học thần kinh nhận thức nghiên cứu sự tổ chức và sự vận hành của tổ chức thần kinh trong việc lĩnh hội kiến thức, trong khi đó khoa học về sự họcsử dụng các kết quả này để một mặt là chỉ ra quy trình học dẫn dắt người học đến kiến thức và mặt khác đề xuất cách thức tiến hành việc dạy cho người dạy sử dụng với mục đích giúp đỡ người học trong việc lĩnh hội kiến thức.
Nói một cách khác, ngành khoa học mới khoa học về sự học xem xét hệ thống thần kinh là đối tượng nghiên cứu ưu tiên và là cơ sở khoa học vững chắc để nghiên cứu việc học trong lĩnh vực giáo dục. Bên cạnh mục đích phát triển một lí thuyết phong phú liên quan đến các hoạt động học trên cơ sở các kết quả của khoa học thần kinh nhận thức, khoa học về sự họccòn có mục đích đưa ra một số định hướng cho các nhà hoạt động giáo dục, những người mong muốn có một quy trình dạy tương ứng với các kết quả nghiên mới nhất về quy trình học. Hai mục đích lí thuyết và thực tiễn này của khoa học về sự học tiếp nối với mong muốn của René Thom «mọi chuyên ngành khoa học phải mang lại ý nghĩa cho con người khi nghiên cứu và sử dụng chúng» (2).
Khoa học về sự họclà một trong số các ngành khoa học mới về việc học được xây dựng theo cách tiếp cận liên môn (3). Ngành khoa học này thiết lập một sự kết nối giữa các ngành khoa học, đôi khi rất khác nhau, như tâm lí học, vật lí học, hóa học, sinh học, thần kinh học, xã hội học, ngôn ngữ học, tin học, triết học. Chính sự đóng góp của tất cả các ngành khoa học này sẽ cung cấp một cách nhìn sáng rõ hơn về việc học và hệ quả là về việc dạy.
Do quan tâm đến việc học và việc dạy, một điều hoàn toàn chính đáng là khoa học về sự học sẽ tiến hành các nghiên cứu theo quan điểm mới được khuyến nghị bởi OCDE (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, nd): «nghiên cứu cơ bản mang tính ứng dụng» (4). Cách thức nghiên cứu này sẽ xuất phát từ các vấn đề cụ thể, các đổi mới, các dự án, các câu hỏi đặt ra bởi các nhà giáo dục. Sau khi tìm hiểu kĩ càng các kết quả thiết lập bởi khoa học thần kinh nhận thức, các nghiên cứu này sẽ đề xuất các giải pháp, các chứng minh cho các dự án, các câu trả lời cho các câu hỏi đặt ra bởi giáo viên. Điều này cũng đồng thời nâng cao cơ sở của các kiến thức về thực tiễn giáo dục. Sau đó các nghiên cứu này sẽ khuyến khích áp dụng kết quả nghiên cứu trong thực tế và kiểm chứng cơ sở khoa học của nó. Việc ứng dụng các kết quả này sẽ dẫn đến các thay đổi tất yếu trong các quy trình hay các hành xử của người học và người dạy.
Tóm lại khoa học về sự họcnhằm xây dựng lại các nền tảng cho thực tiễn giáo dục dựa vào một lí thuyết vững chắc về việc học như mong muốn của OCDE (5).
TS. Tôn Quang Cường giới thiệu
(1). L’Appretissage dans la société, Apprendre: un nouveau paradigme, Page documentaire 51, Ottawa, Tháng 5 1985, Tr. 15 – 35 (2) Modèles mathématiques de la morphogénèse. Ed.10-18, NXB Union Générale, Paris, 1974, Tr. 197. (3) Cách tiếp cận liên môn này đã được khuyến nghị bởi H. Koizumi trong OCDE, Comprendre le Cerveau, (vers une nouvelle science de l’apprentissage), Paris, 2002, Tr. 97. (4) OCDE, De nouveaux défis pour la recherche en éducation, Paris 2003, Tr. 12. (5) Comprendre le Cerveau, (vers une nouvelle science de l’apprentissage), Paris, 2002, Tr. 30.