Trạm vũ trụ Quốc tế
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trạm Vũ trụ Quốc tế (tiếng Anh: International Space Station, viết tắt là ISS) là trạm quỹ đạo quốc tế, được sử dụng như phòng thí nghiệm vũ trụ đa chức năng. Đề nghị đầu tiên đặt tên trạm là "Аlpha" bị Nga bác bỏ vì ký tự Hi Lạp α thường được dành cho những cái đầu tiên, trong khi Trạm Vũ trụ Quốc tế đầu tiên lại có tên là Hòa bình. Khi Roskosmos (Роскосмос, Cơ quan Vũ trụ Liên bang, Nga) đề nghị tên "Аtlant" thì lại bị Hoa Kỳ bác bỏ vì sự nhầm lẫn với tàu con thoi Аtlantis.
Mục lục |
[sửa] Tham số quỹ đạo
- Độ nghiêng: 51,646° (với Xích Đạo của Trái Đất)
- Viễn điểm: 355 km
- Cận điểm: 349 km
- Chu kỳ quỹ đạo: 91,57 phút
[sửa] Lịch sử
Năm 1984 Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan thông báo về việc bắt đầu các công việc xây dựng trạm quỹ đạo của Hoa Kỳ. Một trạm điều khiển khổng lồ đã được quy hoạch, các môđun của nó sẽ lần lượt được đưa lên quỹ đạo bằng tàu con thoi. Nhưng đến đầu những năm 1990 mới phát hiện rằng trị giá của dự án quá lớn và chỉ có sự hợp tác quốc tế mới cho phép xây dựng trạm.
Vì đã xây dựng và đưa lên vũ trụ trạm quỹ đạo đầu tiên trên thế giới (trạm Chào mừng), nên Liên Xô có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và khai thác các trạm vũ trụ quỹ đạo thấp, đã có kế hoạch từ đầu những năm 1990 về việc xây dựng trạm "Hòa bình-2", nhưng do những khó khăn kinh tế nên dự án đã tạm ngưng.
Ngày 17 tháng 6 năm 1992, Nga và Mỹ ký kết thỏa thuận về hợp tác trong nghiên cứu vũ trụ. Theo đó Cơ quan Vũ trụ Nga (RKA, Российское космическое агентство-РКА) và NASA chuẩn bị chương trình hợp tác "Hòa bình-Tàu con thoi". Kết quả của chương trình này, ý tưởng hợp nhất các chương trình quốc gia của việc xây dựng các trạm quỹ đạo đã nảy sinh.
Tháng 3 năm 1993 - Tổng giám đốc RKA Yuri Коptev và Tổng công trình sư Tổ hợp khoa học-sản xuất Năng lượng (NPO Energia, НПО Энергия) Yuri Sеmеnоv đề nghị với Giám đốc NASA Daniel Goldin xây dựng Trạm Vũ trụ Quốc tế.
Ngày 1 tháng 11, 1993 - RKA và NASA ký "Kế hoạch chi tiết các công việc cho Trạm Vũ trụ Quốc tế".
Tháng 11, 1994 - tại Moskva các buổi góp ý kiến đầu tiên của các cơ quan vũ trụ của Nga và Hoa Kỳ được tổ chức. Hợp đồng với các công ty tham gia dự án, Boeing, Mc Donnell-Douglas, General Electric, Rockwell và Công ty tên lửa-vũ trụ Năng lượng mang tên Коrоlyov (RKK Energia, РКК Энергия им. С. П. Королева), được ký kết.
Tháng 3, 1995 - tại Trung tâm Không gian Lyndon B. Johnson ởHouston, mô hình phác thảo của trạm được phê chuẩn.
1996 - cấu hình của trạm được phê chuẩn. Nó gồm 2 phần: Nga (phương án hiện đại hóa của "Hòa bình-2") và Hoa Kỳ (với sự tham gia của Canada, Nhật, Italy, Cơ quan Vũ trụ châu Âu và Brasil).
Ngày 20 tháng 11, 1998 - Nga phóng thành phần đầu tiên của trạm: khối chức năng-hàng hóa "Bình minh"(Zarya, Заря).
Ngày 7 tháng 12, 1998 - tàu con thoi Endeavour đưa lên và gắn vào trạm môđun NODE-1 (Đồng nhất, Unity) của Hoa Kỳ.
Ngày 26 tháng 7, 2000 - môđun phụ "Ngôi sao" (Zvezda, Звезда)được gắn vào khối chức năng-hàng hóa "Bình minh".
Ngày 2 tháng 11, 2000 - tàu vận tải "Liên hợp ТМ-31" đưa lên trạm phi hành đoàn đầu tiên.
Ngày 18 tháng 04, 2005 — Giám đốc NASA Мichael Griffin trong khi điều trần trước Ủy ban Thượng viện về Không gian và Khoa học, đã tuyên bố về sự cần thiết của việc cắt giảm tạm thời các nghiên cứu khoa học ở phần trạm của Hoa Kỳ. Điều này cần thiết để giải phóng các nguồn lực để đẩy mạnh việc xây dựng CEV (bảo đảm việc xây dựng đến năm 2010, và không muộn hơn 2014). CEV cần để việc đến trạm của Mỹ không phụ thuộc (bị ngưng sau tai nạn tàu Columbia năm 2003). Suy ra đến năm 2010 có kế hoạch kết thúc việc sử dụng những chiếc tàu của loạt "Tàu con thoi không gian".
[sửa] Thiết bị của trạm
Khối lượng 178 tấn, đến khi kết thúc xây dựng - gần 470 tấn.
Xа nhất (từ bề mặt Trái Đất) 403 km, gần nhất — 380,4 km.
Cấu tạo của Trạm gồm các khối: «Bình minh», «Đồng nhất», «Vận mệnh», môđun phụ «Ngôi sao», môđun kết nối «Пирс», tàu có người lái «Liên hợp ТМА-6», môđun các tấm pin mặt trời và nút nối «Quest». Theo thời gian cấu tạo của các môđun được thay đổi.
Những người châu Âu chế tạo phòng thí nghiệm «Cоlumbus» và tàu vận tải tự động ATV.
[sửa] Hoạt động của trạm
Đến cuối năm 2004 trên trạm đã có 10 đoàn thám hiểm dài ngày, trong đó có 13 phi hành gia Nga và 13 phi hành gia NASA. Ngoài ra còn 8 phi hành gia Nga và 30 NASA từng ở đây. Từ 30 người này, 5 — phi hành gia châu Âu và 2 — khách du lịch vũ trụ.
Theo thỏa thuận, phi hành đoàn Nga 3 người cần làm việc ở phần của mình, 4 phi hành gia ở phần Hoa Kỳ chia thời gian tỉ lệ với đóng góp trong việc xây dựng trạm: Mỹ — gần 76 %, Nhật — 13 %, ЕКА — 8 % và Canađa — 3 %.
Trên trạm thực hiện các nghiên cứu khoa học vũ trụ, khí quyển và bề mặt Trái Đất, nghiên cứu sự biến đổi của cơ thể người trong các chuyến bay vũ trụ dài ngày, chế tạo các công nghệ nhận và phân tích các vật liệu mới và các chế phẩm sinh học, cũng như hoàn thiện các con đường và các phương pháp khám phá không gian vũ trụ trong tương lai.
[sửa] Tham khảo
[sửa] Liên kết ngoài
- Trang của Cục Vũ trụ Canada (CSA) (tiếng Anh, Pháp)
- Trang của Energia (Nga) (tiếng Anh, Nga)
- Trang của Cục Vũ trụ châu Âu (ESA) (tiếng Anh)
- Trang của Cục Tham hiểm Hàng không Nhật Bản (JAXA) (tiếng Anh, Nhật)
- Trang của Cục Vũ trụ Brasil (AEB) (tiếng Bồ Đào Nha)
- Trang của NASA (tiếng Anh)
- 16 nước "hùn vốn" lập Trạm không gian quốc tế - thông tin ngày 19/4/2006 12h:57