Công giáo Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Công giáo Việt Nam được bắt đầu từ khi các nhà truyền giáo phương tây đầu tiên đến Việt Nam để rao giảng đạo Công giáo. Cho đến nay, trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi lịch sử, Công Giáo tại Việt Nam hiện có 5 triệu 700 ngàn tín hữu trong tổng số dân 82 triệu, với 3.100 linh mục, 14.400 tu sĩ, 1.249 đại chủng sinh và 53.800 giáo lý viên.

Mục lục

[sửa] Lịch sử hình thành và phát triển

Lịch sử Công giáo Việt Nam trải qua các giai đoạn:

  • Thời kỳ truyền giáo: những nhà truyền giáo đầu tiên đến Việt Nam
  • Thời kỳ khó khăn và lớn mạnh dưới thời Trịnh-Nguyễn
  • Thời kỳ làm chứng nhân dưới thời Pháp thuộc đến sau hiệp định Genève
  • Thời kỳ bị chia cắt từ sau hiệp định Genève đến 30 tháng 4 năm 1975
  • Thời kỳ thống nhất từ sau 30 tháng 4 năm 1975 đến nay.

[sửa] Thời kỳ truyền giáo

Theo Khâm Định Việt Sử: "Năm Nguyên Hòa nguyên niên, tức đời vua Lê Trang Tôn, năm 1533 đã có người Tây tên là Inekhu đi đường bể vào giảng đạo Thiên Chúa ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh thuộc huyện Nam Châu (tức Nam Trực) và ở làng Trà Lũ huyện Giao Thủy". Tuy nhiên những chi tiết liên hệ tới Inekhu (có lẽ là phiên âm của Inigo trong tiếng Tây Ban Nha - nay phiên âm là Inhaxiô) ngày nay không còn được ghi nhớ, và do đó không ai biết rõ về tông tích, cũng như về công cuộc truyền đạo của vị thừa sai thứ nhất này.

Theo linh mục Marcos Gispert, O.P., nhà sử học Dòng Anh Em Thuyết Giáo đã sống tại Việt Nam 34 năm, sau Inekhu còn một số nhà truyền giáo khác như:

  • Linh mục Gaspar de S. Cruz: năm 1550 từ Malacca đổ bộ lên Hà Tiên, và sau đó từ cửa biển Bà Rịa đi Quảng Đông.
  • Hai linh mục Lopez và Acevedo: năm 1558 đã tới giảng vùng Cao Miên trong 10 năm.
  • Hai linh mục Luis de Fonseca, O.P. (Bồ Đào Nha) và Grégoire de la Motte, O.P. (Pháp) cũng từ Malacca tới, suốt 6 năm đi truyền giáo tại Quảng Nam trong thời Chúa Nguyễn Hoàng (1580-1586).

Tiếp tục công cuộc truyền giáo của các vị truyền giáo đầu tiên, đã có rất nhiều nhà truyền giáo thuộc nhiều dòng tu và hội thừa sai khác đã đến Việt Nam.

[sửa] Những nhà truyền giáo Dòng Tên

Các linh mục Dòng Tên theo chân Thánh Phanxicô Xaviê truyền giáo tại Nhật Bản năm 1549, bị Nhật hoàng Daifusama trục xuất khỏi đất Phù Tang năm 1614, đã tập trung tại Macao (được xem như một đầu cầu thành lập từ năm 1564).

Ngày 15 tháng 1 năm 1615, hai linh mục Buzomi và Diego Carvalho cùng ba thầy giúp việc tới Đà Nẵng.

Sau đó, ngày 15 tháng 1 năm 1627 - nhằm ngày lễ kính thánh Giuse - linh mục Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đã cập bến Cửa Bạng (Thanh Hóa) giúp đỡ cho công cuộc truyền giáo mới.

Và từ đó phát triển sự nghiệp truyền đạo không những bằng mục vụ thường xuyên, nhưng nhất là bằng cách hoàn thiện việc thành lập chữ quốc ngữ để phổ biến sự truyền bá Đức Tin, và tổ chức Nhà Đức Chúa Trời (1629). Ông đã tập trung khắp nơi từng nhóm thanh thiếu niên (hay cả người đã đứng tuổi) thiện chí, sống đời độc thân và cùng với các linh mục - trong giáo xứ hay là trong các nơi xa xôi hẻo lánh - chia sẻ việc truyền đạo, nhất là chuyện dạy giáo lý cho dân chúng.

Các linh mục Dòng Tên ở lại Việt Nam cho tới năm 1788. Vắng bóng đi trong một thời gian 169 năm (1788-1957). Nhưng rồi giáo hội Việt Nam yêu cầu các ngài trở lại năm 1957, để ngày 13 tháng 9 năm 1958 nhận trách nhiệm điều khiển Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X tại Đà Lạt, đồng thời khuếch trương nhiều hoạt động khác nhau trong lãnh vực văn hóa xã hội.

[sửa] Hội Thừa sai Paris

Ngày 3 tháng 7 năm 1645 linh mục Alexandre de Rhodes rời Việt Nam về Roma để báo cáo cho Tòa Thánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền đạo tại Việt Nam, nhất là xin gửi một số giám mục đến truyền giáo tại Việt Nam, nơi mà ông gọi là "cánh đồng truyền giáo phì nhiêu" để củng cố nền móng cho Giáo hội.

Ông được Roma cho phép đi khắp đất Pháp đi tìm những ơn kêu gọi, tìm những linh mục sẵn sàng xung phong và tiếp tục công việc đã khởi sự với nhiều thành quả may mắn: tại đây mới có Hội Thừa sai Paris (Missions Étrangères de Paris). Hội ra đời năm 1658 và được chấp nhận năm 1664 dưới thời Giáo hoàng Alexandro VII. Vị Giáo hoàng này đã ký sắc lệnh bổ nhiệm hai miám mục đầu tiên cho Viễn Đông: Giám mục Phanxicô Pallu và Giám mục Lambert de la Motte.

Hội Thừa sai Paris có công lớn với giáo hội Việt Nam bằng cách:

  • Đã triệu tập Hội nghị Mục vụ đầu tiên: ngày 14 tháng 2 năm 1670 tại Đình Hiến tỉnh Nam Định, Giám mục Lambert de la Motte đã qui định thể chế nhà Đức Chúa Trời, và thành lập Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam, các chị em nữ tu là những cộng tác viên rất đắc lực của hàng giáo phẩm trong việc truyền đạo bên cạnh giáo dân, nhất là trong các vùng thôn quê.
  • Đã xây dựng Đại chủng viện Penang (1870) để đào tạo các linh mục bản xứ Á ChâuViệt Nam: các thánh linh mục tử đạo miền Nam đều xuất thân từ đây; và suốt ba thế kỷ đã gắn bó với giáo hội địa phương cho tới sáng ngày 12 tháng 8 năm 1975, ngày mà các vị thừa sai ngoại quốc sau cùng được mời ra khỏi Việt Nam.

[sửa] Dòng Anh Em Thuyết Giáo (Dòng Đa Minh)

Theo lời mời của giám mục Phanxicô Pallu vì những đòi hỏi rất khẩn trương tại Việt Nam, số tín hữu tân tòng tiếp tục gia tăng, linh mục giám tỉnh Dòng Anh Em Thuyết Giáo Felipe Pardo, O.P., từ Manila đã phái hai linh mục Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đi lối Trung Linh (Bùi Chu) lên Phố Hiến (Hưng Yên) ngày 7 tháng 7 năm 1676. Các ông vẫn hoạt động chung với Hội Thừa sai Paris cho tới khi Giáo hoàng Alexandro VII ban sắc lệnh thành lập hai giáo phận đầu tiên của Việt Nam: Đàng Trong và Đàng Ngoài (Nam và Bắc: lấy con sông Gianh làm biên giới).

Năm 1679 Giáo hoàng Innocenxio XI lại chia giáo phận Đàng Ngoài thành hai: Tây Đàng Ngoài (từ sông Hồng tới ranh giới Ai Lao) trao cho Hội Thừa sai Paris dưới quyền quản nhiệm Đức Cha de Bourges, và Đông Đàng Ngoài (từ tả ngạn sông Hồng chạy ra biển): lúc ban đầu cũng do Giám mục Deydier của Hội Thừa sai Paris phụ trách. Năm 1693, Giám mục Deydier qua đời, giám mục De Bourges xin Tòa Thánh trao giáo phận này cho Dòng Thánh Đa Minh, vì từ 20 tháng 8 năm 1679 tất cả số nhân sự của dòng đó đã tập trung về đây.

Đồng thời, linh mục Tổng quyền Dòng Anh Em Thuyết Giáo sát nhập các cơ sở truyền giáo của Hội Dòng tại miền Bắc hồi đó vào Tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi tại Phi Luật Tân. Từ Nhà Tổng quyền S. Sabina (tại Roma) cha Raimondo Lezoli, O.P., được Thánh bộ Truyền giáo đề cử sang tiếp tay với linh mục Juan de Santa Cruz (lúc đó đang ở Trung Linh), về sau Tòa Thánh yêu cầu ông chính thức lãnh trách nhiệm tất cả miền Đông. Ngày 2 tháng 2 năm 1702, tại Kẻ Sặt linh mục Raimondo Lezoli được thụ phong Giám mục tiên khởi của Dòng Đa Minh tại miền Bắc. Nền móng vững chắc Đa Minh đã được xây dựng tại Việt Nam, và một trong những hạt giống Dòng Thuyết Giáo đã gieo sâu trong lòng dân tộc bản xứ, sự tôn sùng tràng hạt Đức Mẹ Mân Côi vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay.

Ngày 18 tháng 3 năm 1967, tức 291 năm sau (1676-1967), linh mục bề trên Tổng quyền Aniceto Fernandez tuyên bố là đã tới thời điểm tách rời Việt Nam ra khỏi Phi Luật Tân, và thành lập Tỉnh dòng Anh Em Thuyết Giáo riêng biệt với danh hiệu Tỉnh dòng Nữ vương Các Thánh Tử đạo Việt Nam.

[sửa] Những hội dòng khác

Ngoài mấy hội dòng lớn kể trên đây còn hai hội dòng khác cũng đến truyền đạo tại Việt Nam:

  • Dòng Anh Em Thánh Augustinô (Augustiniani Scalzi)
  • Dòng Phanxicô khó nghèo (Ordo Fratrum Minorum: OFM)

[sửa] Những giáo phận đầu tiên

Xem bài chính Giáo phận của Việt Nam