Hoàng Đan

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thiếu tướng Hoàng Đan (1928-2003) là một vị tướng chiến trận của Quân đội Nhân dân Việt Nam, người đã tham gia chỉ huy những trận đánh nổi tiếng từ kháng chiến chống Pháp đến chống Mỹ. Ông đồng thời cũng là một nhà lý luận quân sự xuất sắc.

Mục lục

[sửa] Những năm đầu

Hoàng Đan sinh ở xã Nghi Thuận, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong một gia đình có truyền thống lâu đời, nhiều thế hệ đỗ đạt ra làm quan, làm thầy thuốc. Theo gia phả họ Hoàng ông là hậu duệ thứ 21 của một danh tướng đời nhà Trần là Hoàng Tá Thốn, hiệu Sát Hải đại Vương, hiện ở huyện Yên Thành vẫn còn đền thờ. Thân sinh của ông là Hoàng Văn Hệ; thân mẫu là Đặng thị Ngung, sinh được 7 người con, hai trai năm gái. Ông là con thứ tư trong gia đình, cũng là người con duy nhất trong gia đình trước cách mạng được theo học từ trường xã đến tỉnh, trước khi Mỹ ném bom nhà máy xe lửa Trường Thi tháng 11 năm 1943 buộc ông phải nghỉ học ở năm thứ 3.

Cả gia đình họ Hoàng (họ ông nội) và họ Trần (họ bà nội) ông đều có nhiều người tham gia cách mạng. Chú họ ông, Hoàng văn Tâm, bí thư đầu tiên huyện uỷ Nghi Lộc bị địch bắn chết năm 1931; chú ruột, Hoàng Văn Mỹ, bị bắt năm 1930 đày lên Kon Tum đến khi phong trào bình dân lên cầm quyền ở Pháp mới được tha về.

Tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp. Qua sự giới thiệu của chú và anh (anh trai của ông bị tù năm 1941, sau khôi phục làm chính quyền địa phương và vào bộ đội), ông tham gia vào mặt trận Việt Minh, theo truyền thống của gia đình. Tại cuộc họp cán bộ Việt Minh tỉnh Nghi Lộc để bầu ban chấp hành lâm thời mặt trận Việt Minh huyện, ông và Hoàng Niệm (sau là tư lệnh bộ đội thông tin) tuy là thành viên mới nhưng cũng được bầu làm uỷ viên uỷ ban chấp hành huyện. Tháng 6 cùng năm đó, ông được cử về tổng Vân Trình phụ trách tổ Việt Minh của tổng và việc tổ chức các tổ Việt Minh ở xã. Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra tại huyện, một cuộc mít tinh lớn đã được nổ ra để ra mắt chính quyền cách mạng, ông dẫn đầu đoàn quần chúng tổng Vân Trình về dự mít tinh. Đến tháng 11, ông được triệu tập vào ban tuyên truyền tỉnh bộ Việt Minh bổ sung vào đoàn tuyên truyền lưu động. Đầu năm 1946, ông được cử đi học trường quân sự quân khu mới mở ở Nhượng Bạn, Hà Tĩnh và sau khi ra trường, ông về hoạt động ở tiểu đoàn tiếp phòng quan Đông Hà (Quảng Trị) thuộc trung đoàn tiếp phòng quân đóng ở Bình-Trị-Thiên lúc bấy giờ.

Tháng 10 năm 1946, dưới sự giới thiệu của Hoàng La và Trần Văn Quang, ông đã được công nhận chính thức là một thành viên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công việc của ông lúc này là liên chi ủy viên tiểu đoàn - bí thư chi bộ, đồng thời cũng là chính trị viên của đại đội 2 - nơi ông nhận công tác.

[sửa] Những hoạt động cách mạng và kháng chiến chống Pháp

Ở Quảng Trị, nơi ông đóng quân, những thông tin về kháng chiến toàn quốc được biết rất chậm, và cho đến đầu năm 1947, Quảng Trị vẫn chưa bước vào chiến đấu.Đến giữa năm 1947, địch bắt đầu từ Lào đánh theo đường số 9 tiến về Đông Hà và một cánh quân từ Huế theo đường số một tiến đánh Quảng Trị.lúc này bộ tổng tư lệnh năm 1948 có chủ trương đại đội độc lập,tiểu đoàn tập trung và trên thực tế ở Quảng Trị đã có đại đội độc lập, được xây dựng từ trước. Trong khoảng thời gian địch vây đánh Đông Hà này, ông đã tham gia và chiến đấu không ít trận đánh như trận đánh địch từ Cam Lộ về Đông Hà, trận phục kích chống càn ở nam Vĩnh Linh.

Các chức vụ ông đã lần lượt đảm nhiệm từ tháng 4 năm 1946 đến tháng 10 năm 1953: trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng thuộc trung đoàn 57, sư đoàn 304. Tháng 11 năm 1953 là trung đoàn phó trung đoàn 57, sư đoàn 304.

Các trận đánh và chiến dịch ông đã từng trực tiếp tham gia hoặc chỉ huy:

  • Trận đánh địch từ Cam Lộ tiến về Đông Hà
  • Trận ngăn chặn địch ở Gio Linh và đánh quận lỵ Gio Linh
  • Trận phục kích tàu địch trên sông Đông Hà
  • Trận phục kích chống càn ở nam Vĩnh Linh
  • Chiến dịch Hòa Bình
  • Chiến dịch thu đông
  • Chiến dịch Thượng Lào
  • Chiến dịch Điện Biên Phủ

[sửa] Sau Điện Biên Phủ - Chiến tranh Việt Nam

Sau khi kết thúc chiến tranh, ông được chỉ định làm trưởng ban tác chiến sư đoàn 304. Đến năm 1955, ông được điều về Trường Trung cao Quân sự (sau này là học viện Quân sự). Ông làm giáo viên tại đó đến năm 1959 thì chuyển sang làm trưởng phòng khoa học quân sự. Năm 1960 ông được Bộ cử đi học lớp Trung cấp tại Liên Xô, tức học viện quân sự Frunze cùng với 11 đồng chí khác. Sau khi tốt nghiệp về nước được giao chủ nhiệm khoa Bộ binh hệ Giáo dục quân sự học viện Quân chính

Tháng 8 - 1965, ông giữ chức Phó Tư lệnh sư đoàn 304B đến năm 1970 được bổ nhiệm làm Tư lệnh sư đoàn 304B

Đến năm 1968, ông cùng sư đoàn 304 tham gia chiến trường Khe Sanh

Năm 1970, ông tham gia chỉ huy chiến đấu tại chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào

Năm 1972 ông chỉ huy sư đoàn 304 chiến đấu tại chiến trường Trị-Thiên

Tháng 11/1973, ông giữ chức Phó tư lệnh, tham mưu trưởng Quân đoàn I sau được bổ nhiệm làm phó tư lệnh Quân đoàn Trị Thiên (tức Quân đoàn II)

Tháng 3 - 1975, ông và quân đoàn II tham gia chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và sau đó là chiến dịch giải phóng các tỉnh cực Nam Trung Bộ và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

[sửa] Từ năm 1975 trở đi

Năm 1976, sau khi đất nước thống nhất, ông được điều về làm phó giám đốc Học viện Quân sự cao cấp sau là Học viện Quốc phòng

Năm 1978, ông tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc tại biên giới Tây Nam giáp với Campuchia

Năm 1979, ông tham gia chiến tranh biên giới phía Bắc và được bổ nhiệm lên Tư lệnh Quân đoàn 5 (khi đó là Quân đoàn 14) kiêm phó tư lệnh Quân khu 1.

Tháng 2 - 1981 làm Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng quân khu 1

Tháng 7-1983 ông về làm phó cục trưởng cục khoa học quân sự Bộ Tổng tham mưu

Tháng 6-1990 được bổ nhiệm làm cục trưởng cục khoa học quân sự Bộ Tổng tham mưu nay là cục khoa học công nghệ và môi trường Bộ Quốc Phòng

Từ tháng 6 - 1995, ông được Đảng và Quân đội cho nghỉ hưu

[sửa] Các huân chương

  • Hai huân chương Quân công hạng nhất, hạng nhì
  • Hai huân chương chiến công hạng nhất
  • Huân chương chiến thắng hạng Nhất
  • Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất
  • Ba huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhất, nhì, ba
  • Ba huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba
  • Huân chương hữu nghị Việt Xô
  • Huy chương Quân kỳ quyết thắng

[sửa] Đánh giá

  • "Tướng Hoàng Đan là một tướng chiến trận. Nơi nào có cuốc chiến ác liệt nhất là có mặt tướng Hoàng Đan. Ông chiến đấu dũng cảm và chỉ huy có mưu trí. Ông đã tham gia chỉ huy các trận đánh nổi tiếng." - Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
  • "Trong hơn mười mấy năm, tôi thấy anh Hoàng Đan có mấy nét nổi bật. Anh là một người chỉ huy có trình độ lý luận và thực tiễn, con người mưu trí và năng động, không chịu bó tay trước khó khăn, dám nghĩ, dám nói, dám đề đạt hẳn ý kiến của mình với cấp trên và có trách nhiệm với việc mình làm. Anh là người luôn coi trọng kết hợp giữa huấn luyện và chiến đấu, giữa xây dựng chính trị tư tưởng và chiến đấu." - Trung tướng Nguyễn Ân

[sửa] Tác phẩm

Những điều đọng lại qua hai cuộc chiến tranh.

[sửa] Liên kết ngoài