Nhật Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhật Nam (chữ Hán: 日南) là một trong ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Bắc thuộc mà nhà Hán lập nên để cai quản Việt Nam.
Quận Nhật Nam có vị trí bắt đầu từ đèo Ngang (tỉnh Quảng Bình) đến Quảng Nam, Quảng Ngãi). Theo sử nhà Hán, quận này gồm 15400 hộ, 69485 khẩu, chưa bằng nửa Cửu Chân (35743 hộ, 166013 khẩu) và chỉ bằng một phần sáu Giao Chỉ (92440 hộ, 746237 khẩu). Toàn quận chia làm năm huyện:
- Tây Quyển (Bắc Quảng Bình, lưu vực sông Gianh),
- Tỉ Ảnh (Nam Quảng Bình, lưu vực sông Nhật Lệ, Đại Giang),
- Chu Ngô (Quảng Trị, lưu vực sông Thạch Hãn),
- Lô Dung (Thừa Thiên - Huế, lưu vực sông Bồ và sông Hương),
- Tượng Lâm (Quảng Nam - Quảng Ngãi, lưu vực sông Thu Bồn - Trà Khúc, sau là nước Lâm Ấp)
Thời điểm xuất hiện cái tên quận Nhật Nam chưa được biết đích xác. Năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt, nhưng sử sách chỉ nhắc đến sứ giả của hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ đem trâu bò, rượu và số hộ khẩu đến Hợp Phố dâng nộp. Học giả Aurosseau dẫn Thuý kinh chú của Lệ Đạo Nguyên nói năm Nguyên Đỉnh 6 (110 TCN), Hán Vũ Đế đặt quận Nhật Nam, quận trị là Tây Quyển [1]. Nhưng đến khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (39-43), Mã Viện mới chỉ tiến vào đến huyện Cư Phong (Thanh Hoá) là chặng cuối; theo một số học giả [2], tì tướng của Mã Viện có thể vượt xa hơn chút ít nhưng chắc cũng chưa vào đến sông Gianh.
[sửa] Chú thích
- ▲ Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Thuận Hoá, Huế, 1994, tr.59
- ▲ Nguyễn Vĩnh Phúc, Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hà Nội, Hà Nội, 1983, tr.158-168. Đàn áp xong cuộc khởi nghĩa này, Mã Viện sai dựng cột đồng để định mốc giới. Trong bài Lescolonnes de bronze Mã Viện (B.A.V.H số 4, tháng 10-11, năm 1943), Đào Duy Anh đã chứng minh cột đồng ấy ở tại núi Thành, xưa có tên Đồng Trụ sơn, cách Vinh chừng 10 km về phía Tây Nam.