Bộ đội Biên phòng Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bộ đội Biên phòng Việt Nam là một thành phần của Quân đội Nhân dân Việt Nam chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia của Việt Nam. Tuy không phải là một quân chủng chính thức nhưng Bộ đội Biên phòng được coi ngang với một quân chủng. Cơ quan chỉ huy là Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng.

Trụ sở chính Bộ Tư lệnh Biên phòng: đối diện Viện quân y 108, Hà Nội.

Mục lục

[sửa] Hệ thống tổ chức

Hệ thống tổ chức của Bộ đội Biên phòng gồm 3 cấp:

  • Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng. Các cơ quan Bộ Tư lệnh Biên phòng:
    • Cục Chính trị
    • Bộ Tham mưu
    • Cục Hậu cần Kỹ thuật
    • Cục Trinh sát
    • Cục điều tra
    • Cục phòng chống tội phạm ma tuý
Các đơn vị khác:
  • Học viện Biên phòng.
  • Công ty Trường Thành, thành lập ngày 21 tháng 9 năm 1996.
  • Trường nuôi dạy chó nghiệp vụ (Trường 24). Hiệu trưởng: Đại tá Đỗ Xuân Thanh.
  • Bộ chỉ huy Biên phòng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Bộ chỉ huy có các phòng chức năng như: chính trị, tham mưu, trinh sát, hậu cần; các đơn vị trực thuộc như: tiểu đoàn huấn luyện, đại đội cơ động, bệnh xá biên phòng tỉnh.
  • Đồn biên phòng. Đây là đơn vị cơ sở, gồm: Ban chỉ huy đồn, các bộ phận trực thuộc như trung đội vũ trang, đội công tác biên phòng, đội trinh sát biên phòng. Đối với các đồn có cửa khẩu, đường tiểu ngạch qua biên giới thì có thêm trạm kiểm soát biên phòng.

Hải đoàn biên phòng là đơn vị chiến đấu cấp chiến thuật, cơ động chiến đấu trên vùng biển, trực thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng.

Hải đội biên phòng là đơn vị chiến đấu cấp cơ sở trên vùng biển, trực thuộc Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh hoặc nằm trong biên chế hải đoàn biên phòng.

[sửa] Lịch sử

Ngày 19 tháng 11 năm 1958 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến và các lực lượng vũ trang khác chuyên trách công tác bảo vệ nội địa và biên phòng, giao cho ngành công an trực tiếp chỉ đạo, lấy tên là Lực lượng Cảnh vệ. Lực lượng Cảnh vệ gồm: Cảnh vệ Biên phòng và Cảnh vệ Nội địa.

Theo Nghị quyết của Bộ Chính trị, Cảnh vệ Biên phòng có nhiệm vụ:

  • Trấn áp kịp thời bọn gián điệp, biệt kích, thổ phỉ, hải phỉ nhỏ và các bọn phá hoại khác qua lại hoạt động ở khu vực biên giới, giới tuyến, bờ biển;
  • Đánh mạnh vào bọn vũ trang xâm phạm biên giới của Tổ quốc, đối phó với mọi hành động có tính cách gây chiến trong khi chờ đợi bộ đội quốc phòng đến tiếp viện;
  • Ngăn ngừa và trừng trị bọn chuyên buôn lậu qua khu vực biên giới;
  • Thực hiện quy chế qua lại biên giới do Chính phủ đã quy định, kiểm soát việc qua lại biên giới (kể cả xe, người, hành lý, hàng hóa, các tác phẩm văn hóa và các vật dùng khác từ trong nước mang ra và từ ngoài nước mang vào trong nước);
  • Bảo vệ đời sống an toàn và của cải của nhân dân, tài sản của Nhà nước, các kho tàng, hợp tác xã, công trường, nông trường, ở khu vực biên giới, chống bọn thổ phỉ, hải phỉ, biệt kích tấn công cướp bóc bất ngờ.

Cảnh vệ Nội địa có nhiệm vụ (nhiệm vụ này nay chủ yếu chuyển giao cho lực lượng cảnh sát bảo vệ thuộc Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an):

  • Trấn áp mọi hoạt động phá hoại của những toán phỉ nhỏ, bọn gián điệp nhảy dù và các vụ bạo động, phá hoại của các bọn phản cách mạng khác;
  • Bảo vệ các cơ quan đầu não, các lãnh tụ của Đảng và Nhà nước, các cơ quan ngoại giao, các lãnh tụ quốc tế và các vị khách nước ngoài vào thăm nước ta;
  • Bảo vệ các công xưởng, hầm mỏ, kho tàng quan trọng, các trung tâm thông tin liên lạc quan trọng, các đầu mối và trục giao thông quan trọng, các cuộc vận chuyển quan trọng, các cơ sở văn hóa, khoa học kỹ thuật quan trọng;
  • Bảo vệ an ninh Thủ đô, các thành phố và thị xã quan trọng, bảo vệ các cuộc mít tinh lớn do Trung ương và Chính phủ quy định, chấp hành lệnh giới nghiêm khi cần thiết và cùng Cảnh sát nhân dân duy trì trật tự trị an chung;
  • Canh gác các trại cải tạo, trại giam, áp giải các phạm nhân chính trị và hình sự quan trọng, bảo vệ các phiên tòa.

Ngày 3 tháng 3 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 100-TTg thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an. Ngày này được lấy làm ngày thành lập Bộ đội Biên phòng.

Lễ thành lập Công an nhân dân vũ trang được tổ chức vào tối ngày 28 tháng 3 năm 1959, lúc 19 giờ, tại Câu lạc bộ quân nhân, Hà Nội.

Đến cuối năm 1979 Công an nhân dân vũ trang đổi tên là Bộ đội Biên phòng và chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng. Năm 1988, Bộ đội Biên phòng lại chuyển sang trực thuộc Bộ Nội vụ cho đến cuối năm 1995 thì lại chuyển về Bộ Quốc phòng.

[sửa] Lãnh đạo Bộ đội Biên phòng qua các thời kỳ

[sửa] Chỉ huy trưởng Công an nhân dân vũ trang

  • Phan Trọng Tuệ (1958-1961), Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Ban chỉ huy trung ương lực lượng Công an nhân dân vũ trang, kiêm Thứ trưởng Bộ Công an. Thiếu tướng.
  • Phạm Kiệt (1961-?). Thiếu tướng.

[sửa] Tư lệnh Bộ đội Biên phòng

  • Đinh Văn Tuy (1981-1990). Trung tướng (1984).
  • Trịnh Trân, Quyền Tư lệnh (1990-1991), Tư lệnh (1991-1998). Trung tướng.
  • Trịnh Ngọc Huyền . Thiếu tướng.
  • Tăng (Văn) Huệ. Trung tướng.