Thang bão Saffir-Simpson

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thang bão Saffir-Simpson là thang phân loại bão theo cường độ gió kéo dài, được phát triển năm 1969 bởi kỹ sư Herbert Saffir và Bob Simpson, giám đốc Trung tâm dự báo bão quốc gia của Hoa Kỳ (NOAA). Sự phân loại này được sử dụng để đo những thiệt hại và khả năng ngập lụt do bão gây nên khi đổ bộ vào đất liền. Thang bão Saffir-Simpson được sử dụng để mô tả các cơn bão tạo thành ở Đại Tây Dương và đông bắc Thái Bình Dương. Các khu vực hay quốc gia khác sử dụng sơ đồ phân loại của họ, chủ yếu dựa theo thang sức gió Beaufort.

Nha khí tượng học Úc sử dụng thang độ 1-5 gọi là tropical cyclone severity categories (các cấp dữ dội của bão). Không giống như thang Saffir-Simpson, các cấp dữ dội dựa trên gió giật mạnh nhất mà không phải là gió kéo dài. Các cấp dữ dội được chia độ thấp hơn so với thang Saffir-Simpson, với cấp dữ dội 2 của bão chỉ gần bằng cấp 1 của thang bão Saffir-Simpson.

Thang nguyên thủy được phát triển bởi Saffir dựa vào sự hỗ trợ tài chính của Liên hiệp quốc để nghiên cứu việc xây dựng nhà ở rẻ tiền trong những khu vực nhiều bão. Trong quá trình nghiên cứu, Saffir nhận ra rằng đã không có một thang đo nào để mô tả các hậu quả của các cơn bão mạnh (hurricane). Biết được lợi ích của Thang Richter trong việc mô tả các trận động đất, ông nghĩ ra thang từ 1 đến 5 dựa trên vận tốc gió mà có thể gây hư hại cho các kiến trúc xây dựng. Saffir cung cấp thang này cho NHC, và Simpson bổ sung thêm các hiệu ứng sóng cồn của bão (chiều cao sóng) và ngập lụt.

Năm cấp được sắp xếp trong bảng sau theo trật tự tăng dần lên:

Cấp 1 Gió kéo dài 33-42 m/s 74-95 mph 64-82 kt 119-153 km/h
Sóng cồn 4-5 ft 1,2-1,5 m
Áp suất tâm bão 28,94 inch Hg 735 mm Hg
Khả năng gây thiệt hại Không có thiệt hại thực sự cho các cấu trúc xây dựng. Thiệt hại chủ yếu cho nhà cửa di động không néo chặt, cây cối và bụi rậm. Thiệt hại nhỏ cho cầu cảng và có thể gây ngập lụt.
Mẫu bão Bão Agnes – Bão Danny – Bão Diane – Bão Irene – Bão Gaston
Cấp 2 Gió kéo dài 43-49 m/s 96-110 mph 83-95 kt 154-177 km/h
Sóng cồn 6-8 ft 1,8-2,4 m
Áp suất tâm bão 28,50-28,91 inch Hg 724-734 mm Hg
Khả năng gây thiệt hại Làm hư hỏng một số mái nhà, cửa và cửa sổ. Thiệt hại đáng kể cho cây trồng, nhà cửa có cấu trúc kém. Có thể gây ngập lụt cầu cảng và những tàu thuyền nhỏ không cột bảo vệ có thể bị gẫy.
Mẫu bão Bão Bob – Bão Bonnie – Bão Dora – Bão Frances – Bão Juan
Cấp 3 Gió kéo dài 50–58 m/s 111–130 mph 96–113 kt 178–209 km/h
Sóng cồn 9-12 ft 2,7-3,7 m
Áp suất tâm bão 27,91-28,47 inch Hg 709-723 mm Hg
Khả năng gây thiệt hại Một số thiệt hại cấu trúc của nhà cửa nhỏ và các công trình xây dựng khác, một số màn cửa (bằng nhôm) bị gẫy. Nhà cửa di động bị phá sập. Ngập lụt ven biển phá hủy các kết cấu xây dựng nhỏ, các công trình xây dựng lớn bị hư hại bởi các mảnh vụn do ngập lụt tạo ra. Có thể ngập lụt trong đất liền.
Mẫu bão Bão Fran – Bão Tân Anh Cát Lợi (1938) – Bão Isidore – Bão Jeanne – Bão Opal – Bão Rita
Cấp 4 Gió kéo dài 59–69 m/s 131–155 mph 114–135 kt 210–249 km/h
Sóng cồn 13–18 ft 4,0–5,5 m
Áp suất tâm bão 27.17-27.88 inHg 690-708 mm Hg
Khả năng gây thiệt hại Các màn cửa gẫy đổ nhiều hơn, các mái của các ngôi nhà nhỏ bị phá hỏng. Xói mòn mạnh ven biển. Ngập lụt trong đất liền.
Mẫu bão Bão Charley – Bão Donna – Bão Galveston (1900) – Bão Hugo – Bão Iris – Bão Katrina – Bão Wilma
Cấp 5 Gió kéo dài ≥70 m/s ≥156 mph ≥136 kt ≥250 km/h
Sóng cồn ≥19 ft ≥5,5 m
Áp suất tâm bão <27,17 inch Hg <690 mm Hg
Khả năng gây thiệt hại Các ngôi nhà nhỏ và công trình xây dựng công nghiệp bị cuốn bay mái. Các công trình nhỏ bị cuốn bay, thiệt hại nặng nề cho các công trình lớn. Ngập lụt gây thiệt hại cho các tầng thấp của mọi công trình ven biển. Có thể phải tản cư dân chúng.
Mẫu bão Bão Andrew – Bão Camille – Bão Edith – Bão Gilbert – Bão Ngày Lao động 1935

Mọi vận tốc gió dựa trên cơ sở trung bình một phút. Giá trị của áp suất tâm bão là xấp xỉ. Cường độ các cơn bão ví dụ là đo theo thời gian đổ bộ vào đất liền.

[sửa] Xem thêm

[sửa] Liên kết ngoài