Microsoft Windows

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mục từ Windows dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Windows (định hướng).

Microsoft Windows là hệ điều hành cho máy tính cá nhânmáy chủ. Chúng được Microsoft ra mắt lần đầu vào năm 1985 để cạnh tranh với Giao diện hướng người dùng GUI (graphical user interface) của hãng Apple Computers. Từ đó đến nay chúng đã chiếm ưu thế trong thị trường máy tính cá nhân với số lượng được cài đặt khoảng 95%. Vì lý do này, Microsoft đang có một vị trí độc quyền trong lĩnh vực máy tính cá nhân. Tất cả các phiên bản gần đây của Windows đều có khả năng làm hệ điều hành. Windows là phần mềm nguồn đóng có bản quyền do công ty Microsoft giữ và kiểm soát việc phân phối.

Windows khởi đầu được phát triển cho những máy tính tương thích với IBM (dựa vào kiến trúc x86 của Intel), và ngày nay hầu hết mọi phiên bản của Windows đều được tạo ra cho kiến trúc này (tuy nhiên Windows NT đã được viết như là một hệ thống xuyên cấu trúc cho bộ xử lý Intel và MIPS, và sau này đã xuất hiện trên các cấu trúc PowerPC và DEC Alpha. Sự phổ biến của Windows đã khiến bộ xử lý của Intel trở nên phổ biến hơn và ngược lại. Thật vậy, thuật ngữ Wintel đã được sử dụng để miêu tả những máy tính cá nhân đang chạy một phiên bản của Windows.

Mục lục

[sửa] Phiên bản

Thuật ngữ Windows là tên gọi tập thể cho vài thế hệ của sản phẩm phần mềm có thể được chia ra các thể loại sau:

  • Môi trường làm việc 16 bit. Các phiên bản đầu tiên của Windows chỉ là giao diện đồ họa hay desktop, phần lớn vì chúng dùng hệ điều hành MS-DOS ở lớp dưới cho các dịch vụ hệ thống tập tin và các tiến trình hệ thống. Sau đó, các phiên bản Windows 16 bit đã có dạng tập tin có thể chạy được và tự cung cấp chương trình điều khiển thiết bị (device driver) (cho bo mạch đồ họa, máy in, chuột, bàn phím, và âm thanh). Khác với DOS, môi trường của Windows cho phép mọi người dùng thi hành nhiều chương trình đồ họa. Hơn nữa, chúng đã thực thi một phối hợp bộ nhớ ảo theo đoạn (segment) trong phần mềm cho phép GUI thi hành các chương trình lớn hơn bộ nhớ: các đoạn mã nguồn và nguồn lực được đem vào và bị loại bỏ khi không còn giá trị nữa hay khi số lượng còn lại trong bộ nhớ bị thấp và các đoạn dữ liệu được đưa vào bộ nhớ khi một chương trình nào đó trả quyền điều khiển cho bộ xử lý. Các hệ điều hành này gồm có Windows 1.0, (1985), Windows 2.0 (1987) và Windows/286 (gần giống Windows 2.0).
  • Môi trường làm việc lai 16/32 bit. Windows/386 ra mắt hạt nhân hoạt động trong chế độ bảo vệ và một trình theo dõi máy ảo. Trong một phiên làm việc của Windows, nó cung cấp các it provided a device virtualization cho bộ điều khiển đĩa, bo mạch đồ họa, bàn phím, chuột, bộ định thời và bộ điều khiển ngắt. Kết quả rõ nhất mà người sử dụng nhìn thấy là họ có thể làm việc tạm thời với nhiều môi trường MS-DOS trong các cửa sổ riêng (các ứng dụng đồ họa yêu cầu cửa sổ phải được chuyển về chế độ toàn màn hình). Các ứng dụng của Windows vẫn thuộc loại đa nhiệm cộng tác trong môi trường chế độ thực. Windows 3.0 (1990) và Windows 3.1 (1992) đã hoàn thiện thiết kế này, đặc biệt là tính năng bộ nhớ ảo và trình điều khiển thiết bị ảo (VxDs) cho phép họ chia sẻ các thiết bị dùng chung (như đĩa cứng, đĩa mềm...) giữa các cửa sổ DOS. Quan trọng nhất là các ứng dụng Windows có thể chạy trong chế độ bảo vệ 16-bit (16-bit protected mode) (trong khi Windows đang chạy trong chế độ Chuẩn hay chế độ 386 Nâng cao), cho phép người sử dụng truy cập đến một vài megabyte bộ nhớ mà không phải tham gia vào quá trình quản lý bộ nhớ ảo. Các chương trình này vẫn chạy trong cùng một không gian địa chỉ, trong đó bộ nhớ đã được phân đoạn để chia thành các mức bảo vệ riêng, và vẫn hoạt động đa nhiệm cộng tác. Trong phiên bản Windows 3.0, Microsoft đã chuyển các tác vụ quan trọng từ C sang assembly, làm cho phiên bản này chạy nhanh hơn và ít tốn bộ nhớ hơn các phiên bản trước đó.
  • Hệ điều hành lai 16/32 bit. Bằng việc công bố khả năng truy cập file 32-bit trong Windows for Workgroups 3.11, Windows cuối cùng đã chấm dứt phụ thuộc vào DOS trong việc quản lý file. Ngoài ra, Windows 95 cũng đưa ra hệ thống Tên file dài, do vậy hệ thống tên file 8.3 của DOS chỉ còn vai trò trong đoạn mã khởi động nạp hệ điều hành. Giờ đây MS-DOS được bán kèm với Windows; điều này làm người sử dụng thấy rõ lợi ích của tên file dài khi các chương trình tiện ích được thực thi trong Windows nhưng lại làm họ bực mình khi chạy chúng trong DOS. Đặc điểm mang tính cách mạng nhất trong phiên bản này là khả năng chạy các chương trình giao diện đồ họa 32-bit đồng thời, trong khi các chương trình này lại chia thành các phân tuyến (thread) chạy song song với nhau. Microsoft đã đưa ra 3 phiên bản của Windows 95 (phiên bản đầu tiên năm 1995, các phiên bản sửa lỗi được đưa ra năm 1996 và 1997 chỉ được bán cho nhà sản xuất máy tính, được bổ sung thêm một vài tính năng mới như hỗ trợ FAT32). Hệ điều hành tiếp theo của Microsoft's là Windows 98; có 2 phiên bản (bản đầu tiên năm 1998, và bản thứ hai là "Windows 98 Second Edition", năm 1999). Trong năm 2000, Microsoft đưa ra Windows Me, với mục tiêu cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa Windows 98 SE và Windows NT, bao gồm một vài tính năng mới như System Restore, cho phép người sử dụng đưa máy tính của mình trở lại trạng thái trước đó. Dù vậy, đó vẫn không phải là một tính năng được chấp nhận rộng rãi vì đã có nhiều người sử dụng gặp phải vấn đề. ME được coi là sự thay thế tạm thời trong việc hợp nhất hai dòng sản phẩm này. Microsoft đã đợi một khoảng thời gian ngắn để Windows Millennium trở nên phổ biến trước khi công bố phiên bản Windows tiếp theo - Windows XP.
  • Hệ điều hành 32 bit ban đầu được thiết kế và quảng bá là các hệ thống có độ tin cậy cao và đặc biệt là không thừa kế từ DOS. Phiên bản đầu tiên được đưa ra là Windows NT 3.1 vào năm 1993, được đánh số "3.1" để chỉ thị ngang hàng với Windows 3.1 và hơn 1 cấp so với hệ điều hành OS/2 2.1, hệ điều hành của IBM do Microsoft đồng phát triển và là đối thủ chính của dòng Windows NT tại thời điểm đó. Phiên bản tiếp theo là Windows NT 3.5 (1994), NT 3.51 (1995), và cuối cùng NT 4.0 (1996) đã có giao diện của Windows 95. Sau đó Microsoft bắt đầu chuyển sang việc hợp nhất hai dòng hệ điều hành dành cho cá nhân và cho doanh nghiệp. Thử nghiệm đầu tiên, Windows 2000, đã thất bại, và được phân phối là một phiên bản dành cho doanh nghiệp. Phiên bản Windows 2000 cho cá nhân, tên mã là "Windows Neptune" bị hủy bỏ và Microsoft đã thay thế bằng Windows ME. Mặc dù vậy, "Neptune" vẫn được tích hợp vào dự án mới, "Whistler", để sau đó trở thành Windows XP. Sau đó, hệ điều hành mới, Windows Server 2003, đã mở rộng dòng sản phẩm cho doanh nghiệp này. Cuối cùng, hệ điều hành sắp được ra mắt Windows Vista sẽ hoàn thiện các tính năng còn thiếu của các sản phẩm trên. Với Windows CE, Microsoft cũng đã ngắm tới thị trường di động và các thiết bị cầm tay, cũng là một hệ điều hành 32-bit.
  • Hệ điều hành 64 bit, một loại hệ điều hành mới nhất, được thiết kế cho kiến trúc AMD64 của AMD, IA-64 của Intel, và EM64T (Intel® Extended Memory 64 Technology). Dòng sản phẩm Windows 64-bit bao gồm "Windows XP Itanium", "Windows Professional x64 Edition", và "Windows Server 2003". "Windows XP Professional" và "Windows Server 2003 x64 Edition" được ra mắt vào 25 tháng 4 năm 2005. Windows XP Itanium đã được đưa ra trước đó, năm 2002. Một số dấu hiệu cho thấy Windows Vista, được coi là sự kế vị của Windows XP, sẽ có cả hai phiên bản 32-bit và 64-bit.

[sửa] Giao diện

Đặc điểm rõ nhất của các phiên bản gần đây của Windows (từ Windows 95 và NT 4.0) là bàn giấy, tương đương với "Workplace Shell" được IBM ra mắt cho OS/2 2.0 trong năm 1992, một GUI hướng đối tượng cho OS/2. Bàn giấy của Windows đã đổi thay cách tác động giữa người và máy; người dùng có thể thực hành nhiều việc trong máy mà không cần có kiến thức về máy tính, kể cả các tác động phức tạp.

Một đặc điểm quan trọng khác của Windows từ Windows 95 là nút và menu Start, cho người dùng truy nhập các chương trình đã cài đặt và nhiều chức năng khác của hệ điều hành.

Windows XP ra mắt một kiểu thị giác được gọi là "Luna", cập nhật từ kiểu cũ của Windows. Kiểu mới có màu đậm và nút Start và thanh tiêu đề lớn hơn, là nhiều người liên tưởng đến đồ chơi cho trẻ em. Người dùng vẫn có thể dùng kiểu cũ của Windows 95/2000 trong Windows XP.

Có người cho rằng một hệ điều hành hiện đại phải phục vụ cho những người dùng mới không có kiến thức về máy tính ngày càng phức tạp. Vì thế, một số người có kiến thức sử dụng máy tính cho rằng giao diện của Windows che giấu cách hoạt động của máy tính, làm khó việc sửa đổi một số chức năng.

[sửa] Phổ biến

Một số nghiên cứu đặt số máy được cài đặt Windows trên 95%, Windows là hệ điều hành số một trong máy tính cá nhân. Ưu thế của Windows phần lớn phát nguồn từ ưu thế của MS-DOS trong lúc ban đầu, và vì nó là nơi chính Microsoft Office và các chương trình trò chơi có thể hoạt động. Tuy một vài yếu tố nêu trên không còn quan trọng nữa (MS-DOS đã không còn hỗ trợ, một số chương trình như Open Office có thể tạo ra và đọc được tài liệu dạng Microsoft Office, và một số trò chơi quan trọng đã được tải đến Apple Macintosh và Linux), các yếu tố đó đã giúp tạo ra một thế hệ người dùng quan trọng ban đầu.

Vì Microsoft là một trong ít công ty cho phép các công ty phần cứng cài hệ điều hành của họ vào máy, các hệ điều hành của Microsoft đồng thời cũng được lợi. Trái lại Apple ComputerSun Microsystems không cho phép ai khác cài đặt hệ điều hành Mac OS X và Solaris của họ. Trước đó, công ty nào muốn tham gia vào thị trường buôn bán máy tính đều phải tự thiết kế lấy hệ điều hành riêng (như Amiga) hoặc dùng một hệ điều hành không có GUI (như MS-DOS hay CP/M); ngay cả tiền bản quyền cho bán kèm hệ điều hành cùng máy tính cũng vẫn rẻ hơn đáng kể so với việc phát triển hệ điều hành với các phần mềm kèm theo. Do vậy, Microsoft đã có sự hỗ trợ lớn từ đó.

Do Microsoft đã kí kết nhiều hợp đồng bản quyền với nhiều nhà cung cấp máy tính, Windows thường được bán kèm với máy tính và sớm trở thành sự lựa chọn chuẩn cho thị trường. Hầu hết người sử dụng không gỡ bỏ Windows để cài hệ điều hành khác. Đối với một vài khách hàng, Windows chỉ là lựa chọn duy nhất vì môi trường tính toán quanh họ đều là Windows; ngoài ra, sự không thông thạo đối với phần lớn hệ điều hành khác cũng giới hạn khả năng chuyển đổi hệ điều hành của người sử dụng. Hơn nữa, sự phổ cập của máy tính cũng giới hạn kiến thức về kỹ thuật cần thiết đối với phần lớn người sử dụng để cài một hệ điều hành mới.

Cuối cùng, hệ thống phần mềm khổng lồ được thiết kế cho Windows (lớn hơn tất cả các hệ điều hành khác cộng lại) là nguyên nhân chính yếu cho sự phổ biến rộng rãi của Windows. Trong những năm gần đây, nhiều công ty đã bắt đầu kinh doanh với một mục đích duy nhất là phát triển các phần mềm cho Windows; sự thực là vì đã có sẵn một thị trường khách hàng rộng lớn nên những công ty này chỉ đầu tư tài nguyên và nhân lực vào việc phát triển phần mềm cho Windows. Ngược lại, sự thực là cũng chính vì có nhiều công ty hỗ trợ Windows mà hầu hết người sử dụng lựa chọn Windows.

[sửa] Các hệ thống tập tin

FAT12

FAT16: Với HĐH MS-DOS, hệ thống tập tin FAT (File Allocation Table 16bit), (FAT16 – để phân biệt với FAT32) được công bố vào năm 1981 đưa ra một cách thức mới về việc tổ chức và quản lý tập tin trên đĩa cứng, đĩa mềm. Tuy nhiên, khi dung lượng đĩa cứng ngày càng tăng nhanh, FAT16 đã bộc lộ nhiều hạn chế. Với không gian địa chỉ 16 bit, FAT16 chỉ hỗ trợ đến 65.536 liên cung (clusters) trên một partition, gây ra sự lãng phí dung lượng đáng kể (đến 50% dung lượng đối với những ổ đĩa cứng trên 2 GB).

FAT32: được giới thiệu trong phiên bản Windows 95 Service Pack 2 (OSR 2), được xem là phiên bản mở rộng của FAT16. Do sử dụng không gian địa chỉ 32 bit nên FAT32 hỗ trợ nhiều cluster trên một partition hơn, do vậy không gian đĩa cứng được tận dụng nhiều hơn. Ngoài ra với khả năng hỗ trợ kích thước của phân vùng từ 2GB lên 2TB và chiều dài tối đa của tên tập tin được mở rộng đến 255 ký tự đã làm cho FAT16 nhanh chóng bị lãng quên. Tuy nhiên, nhược điểm của FAT32 là tính bảo mật và khả năng chịu lỗi (Fault Tolerance) không cao.

NTFS (New Technology File System): được giới thiệu cùng với phiên bản Windows NT 3.1 (phiên bản này cũng hỗ trợ FAT32). Với không gian địa chỉ 64 bit, khả năng thay đổi kích thước của cluster độc lập với dung lượng đĩa cứng, NTFS hầu như đã loại trừ được những hạn chế về số cluster, kích thước tối đa của tập tin trên một phân vùng đĩa cứng.

[sửa] Bảo mật

Hình:Security.jpg
Windows XP Security Centre

An ninh là một điểm yếu nhất của Windows trong nhiều năm qua. Do sự phát triển rộng rãi của Windows trên máy tính để bàn, rất nhiều tay bẻ khóa đã ngắm tới Windows thay vì những hệ điều hành ít phổ dụng hơn như Linux, Unix, Mac OS X, và FreeBSD. Hầu hết các hệ điều hành hiện đại đều được thiết kế phần an ninh dành cho môi trường đa người sử dụng hay môi trường mạng và do vậy có tương đối ít các vấn đề về an ninh. Ban đầu Windows được thiết kế sao cho dễ sử dụng trên một máy tính cá nhân có một người sử dụng và không có kết nối mạng, và do vậy không có tính năng bảo mật an ninh tích hợp. Cùng với các lỗi về mã lệnh, Windows đã trở thành mục tiêu lý tưởng của các kẻ viết sâu máy tínhvirus máy tính. Trong tháng 6 năm 2005, trung tâm an ninh mạng Counterpane của Bruce Schneier thống kê cho thấy đã có tới trên 1000 loại virus và sâu mới xuất hiện chỉ trong vòng 6 tháng trước đó.

Một vài người cho rằng Microsoft Windows bị tấn công nhiều hơn là vì đó là hệ điều hành đang thống trị thị trường máy tính để bàn. Một số khác lại nói lý do chính là vì chính những kỹ sư thiết kế đã làm chúng trở thành mục tiêu lý tưởng: chính sự rối rắm và phức tạp trong kiến trúc của Windows hoàn toàn tương phản với các khối mã lệnh chặt chẽ và các tầng hệ điều hành được thiết kế cẩn thận của các đối thủ cạnh tranh. Microsoft đã công khai thừa nhận các vẫn đề về bảo mật ngay khi bước sang thế kỉ mới, và cam đoan rằng bảo mật đang là ưu tiên số một trong thời điểm hiện tại.

Microsoft đưa ra các bản vá bảo mật bằng dịch vụ cập nhật Windows khoảng một tháng một lần, thời gian này ngắn hơn đối với những cập nhật quan trọng. Trong Windows 2000 và Windows XP, các bản cập nhật có thể được tự động tải xuống và tự cài đặt nếu người sử dụng cho phép điều đó.

Nhiều chuyên gia về bảo mật đưa ra những lời khuyên rất có ích cho người dùng nhằm nâng cao mức độ bảo mật của hệ thống. Một nghiên cứu của Kevin Mitnick và công ty tiếp thị viễn thông Avantgarde đã chứng minh rằng hệ thống Windows XP chưa được cập nhật chỉ mất 4 phút để thỏa hiệp với tin tặc trên Internet. Nghiên cứu về an toàn mạng của AOL và Liên minh An ninh mạng Quốc gia vào tháng 10 năm 2004 cho thấy 80% người dùng Windows đã bị nhiễm ít nhất một loại phần mềm gián điệp hoặc phần mềm quảng cáo. Có rất nhiều tài liệu cung cấp giải pháp để tăng cường mức độ bảo mật trong các sản phẩm của Microsoft. Những lời khuyên cơ bản bao gồm đưa Microsoft Windows ra sau tường lửa phần cứng, chạy các chương trình diệt virus và các chương trình chống gián điệp, cài đặt các bản vá ngay khi có thể thông qua dịch vụ cập nhật Windows. Một vài ý kiến còn cho rằng có thể thay thế một vài ứng dụng chuyên biệt (thường là mục tiêu của các tay bẻ khóa) với các phần mềm có tính năng tương đương, chẳng hạn thay trình duyệt Internet Explorer bằng Mozilla Firefox, thay chương trình gửi nhận thư điện tử Microsoft Outlook bằng Mozilla Thunderbird.

[sửa] Chương trình giả lập

Chương trình giả lập cho phép người sử dụng chạy các chương trình ứng dụng của Windows mà không cần có Windows.

  • WINE – phần mềm mã nguồn mở có chức năng tương đương của các hàm Windows API, cho phép vài chương trình ứng dụng Windows chạy trên nền x86 Unix, bao gồm cả Linux.
  • Cedega (trước đây gọi là WineX) – là một nhánh của WINE thuộc sở hữu của TransGaming Technologies, được thiết kế chuyên để chạy các trò chơi viết cho Microsoft Windows trên Linux
  • Mono và Shared source CLI – hệ thống tương đương với cơ sở Microsoft .NET.
  • ReactOS – hệ điều hành mã nguồn mở được phát triển với mục tiêu là tương thích với các chương trình và trình điều khiển thiết bị của Windows NT, mặc dù vậy hiện tại vẫn còn đang trong giai đoạn phôi thai.
  • Freedows và Alliance OS – một dự án có nhiều tham vọng, dự định là một bản sao của Windows và bổ sung thêm nhiều tính năng lợi ích nhưng đã thất bại.
  • Project David – một dự án đầy tham vọng và đã gây nhiều tranh cãi với mục đích là giả lập hoàn toàn để các các chương trình Windows có thể chạy trên các hệ điều hành khác.
  • CrossOver Office của Codeweavers, cũng giả lập được hoàn toàn để các các chương trình Windows có thể chạy trên các hệ điều hành khác.
  • Captive NTFS – a software "wrapper" for fuller, more-compatible open-source implementations of the Windows NTFS file system.
  • E/OS – goal to make it possible to run any program designed for any operating system without the need to actually install any other operating system.

[sửa] Các phiên bản tạm thời

Windows XP và Windows Server 2003 là các phiên bản Windows hiện hành. Windows XP được thiết kế dành cho các máy tính để bàn, còn Windows Server 2003 lại dành cho các máy chủ và bao gồm bốn dòng sản phẩm: Phiên bản Web (Web Edition), Phiên bản chuẩn (Standard Edition), Phiên bản xí nghiệp (Enterprise Edition) và Phiên bản Trung tâm dữ liệu (Datacenter Edition). Phiên bản Web được thiết kế với các tính năng tập trung dành cho lưu trữ web (web hosting), trong khi đó phiên bản Trung tâm dữ liệu có một cơ sở hạ tầng cực kỳ vững mạnh cho việc lưu trữ dung lượng cực lớn. Hai phiên bản còn lại là Phiên bản chuẩn và Phiên bản xí nghiệp là trung gian giữa hai phiên bản nêu trên.

[sửa] Các phiên bản hiện hành

  • Windows CE cho các hệ thống trong thiết bị, như trong các sản phẩm dân dụng (lưu ý: CE là một hệ điều hành khác với DOS và Windows NT/2000/XP, và Microsoft đã công bố mã nguồn)
  • Windows Mobile cho điện thoại thông minh và PDA (một phiên bản của Windows CE)
    • Portable Media Center cho các máy Portable Media Player
  • Windows XP cho máy tính cá nhân và máy tính xách tay
    • Windows XP Starter Edition, cho những người sử dụng máy tính mới ở các nước đang phát triển
    • Windows XP Home Edition, cho máy tính tại nhà
    • Windows XP Home Edition N, như trên, nhưng không có Windows Media Player theo quyết định của EU
    • Windows XP Professional Edition, cho doanh nghiệp và những người dùng giỏi
    • Windows XP Professional Edition N, như trên, nhưng không có Windows Media Player theo quyết định của EU
    • Windows XP Professional x64 Edition, cho các máy tính có bộ xử lý 64-bit (dựa trên Windows Server 2003)
    • Windows XP Tablet PC Edition, cho máy tính xách tay, có bút viết và màn hình cảm ứng
    • Windows XP Media Center Edition cho máy để bàn và máy xách tay, tập trung vào chức năng giải trí đa phương tiện
  • Windows Server 2003 cho máy chủ
    • Small Business Server cho máy chủ đầu tiên (2 bộ xử lý)
    • Web Edition cho chủ web cơ bản (2 bộ xử lý)
    • Standard Edition cho các chương trình phục vụ nhỏ không cần tụ nhóm (4 bộ xử lý)
    • Enterprise Edition cho các chương trình phục vụ lớn hơn, cho phép tụ nhóm (clustering) (8 bộ xử lý)
    • Datacenter Edition cho máy chủ mainframe (128 bộ xử lý)
    • Storage Server cho các thiết bị lưu trữ được kết nối mạng
  • Windows XP Embedded cho các hệ thống thiết bị nhúng
  • Windows Vista (tên mã là Longhorn) trong bước đầu phát triển

[sửa] Các phiên bản cũ

[sửa] Các phiên bản đã hủy

  • 1996, 3 tháng 5 - Windows Nashville (windows 96) (Sau này trở thành 95B.)
  • 1997-1998 - Cairo (một "hệ điều hành hướng đối tượng thực sự"), định ra mắt sau Windows NT; tương đối giống với DesktopX nhưng ở cấp độ thấp hơn và sau này trở thành Windows NT 4.
  • 1999, tháng 12- Windows Neptune được ra mắt cho các người thử nghiệm tuy nhiên cuối cùng vẫn không được công bố, phiên bản này đáng lẽ ra là phiên bản Windows 2000 cho người dùng tại nhà.

[sửa] Các phiên bản trong tương lai

  • 2006 - Windows Vista (còn được biết với tên mã là Longhorn)
  • 2007 - Windows Server 2007 (Phiên bản Longhorn dành cho máy chủ), được đặt tên theo năm phát hành
  • 2011 - Windows với tên mã "Blackcomb".
  • Windows Eiger đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, được thiết kế dành cho các dòng máy tính cũ.

[sửa] Liên kết ngoài

Tiêu bản:Lịch sử Windows