Văn tế tướng sĩ trận vong

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong là một bài văn tế được Tiền Quân Nguyễn Văn Thành là đại thần có công lớn trong công cuộc thiết lập và xây dựng triều Nguyễn soạn và đứng chủ tế lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với nghĩa quân Tây Sơn vào tháng chạp năm 1802, tại Thuận Hóa. Đây là một áng văn chương tuyệt bút mà Nguyễn Văn Thành đóng góp cho nền văn học Việt Nam.

Mục lục

[sửa] Nguyên văn

Than ôi! Trời Đông-phố vận ra Sóc-cảnh [1], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay; nước Lô-hà chảy xuống Lương-giang [2], nghĩ mấy kẻ điêu-linh [3] những từ thưở nọ, cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay! Tình dưới viên mao [4], phận trong giới trụ [5]. Ba nghìn họp con em đất Bái [6], cung tên ngang dọc chí nam-nhi; hai trăm vây cờ cõi non Kỳ [7], cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng; nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ.
Kẻ thời theo cơ-đích [8] chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung; kẻ thời đón việt mao [9] trở lại chốn sa-cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật [10], chung nỗi ân-ưu; mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm-la, Cao-miên về Gia-định mới dần ra Khánh, Thuận [11], đã mấy buổi sơn-phong hải lễ [12], trời Cao, Quang [13] soi tỏ tấm kiên-trinh, rồi lai từ Đồn-bàn, Nam, Ngãi lấy Phú-xuân mà thẳng tới Thăng-long [14], biết bao phen vũ pháo vân thê [15], đất Lũng, Thục [16] lăn vào nơi hiểm- cố.
Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ-duyên; trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng [17] theo đạn lạc tên bay; kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa [18] mặc bèo trôi sóng vỗ.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh-mạc [19], mịt mù gió lốc, thổi dấu tha-hương [20]; mặt chinh-phụ khôn vẽ nét gian-nan, lập-lòe lửa trời, soi chừng cổ-độ [21].
Ôi! Cùng lòng trung-nghĩa, khác số đoản tu [22], nửa cuộc công-danh, chia phần kim cổ [23].
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo-kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình-hài; những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu [24] xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế-phủ [25].
Phận dù không gác khói đài mây [26]; danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thưở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường [27]; tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ-lộ [28].
Vâng thượng đức hồi loan [29] tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫn Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh [30] cũng vậy, giội ân-quang gieo khắp xuống đèo Ngang; mà những người từng thượng trận ngày xưa, dắp tấu công tự ngọ, vị, thân, dậu [31] đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui; dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ. Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh-liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không; nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phân thủy có phận chung sao không có [32].
Bản chức nay, vâng việc biên phòng, chạnh lòng niềm viễn thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.
Nền phủ định [33] tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng; chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ, có cảm thông thì tới đó khuyên mời; dù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho; hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
Hồn-phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu [34]; hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ [35].
Cơ huyền-diệu [36] hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố-quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền-quân [37]; niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo-tộ [38].

[sửa] Nhận định

  • Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cho rằng: " lời đáng ghi vào vàng đá truyền đến muôn đời, khi giống giã như nhịp trống trong quân, khi tơi bời như ngọn cờ dưới nguyệt, khi mịt mù như cơn gió lốc thổi dấu kẻ tha hương, khi lập lòe như đám lửa trời soi chừng chốn cổ độ, khi hùng tráng như tiếng gươm tuốt giữa trận, khi lâm li như vượn khóc trên ngàn".

[sửa] Chú thích

  1. Đông-phố là tên cũ thành Gia-định; Sóc-cảnh là cỏi Bắc; ý nói từ Gia-định ra tới Bắc-hà (Hà Nội).
  2. Lô-hà nhất danh là sông Tuyên, chẩy qua Tuyên-quang, rồi đổ xuống sông Nhị-hà. Lương-giang tức là Phú-lương giang tên cũ sông Nhị-hà.
  3. Điêu-linh là tàn rụng, chỉ những người chẳng may chết trận.
  4. Viên là viên-môn, cửa dinh (doanh) quan đại-tướng; mao là cờ tiết mao, hiệu lệnh trong quân.
  5. Giới trụ là áo giáp, mũ trụ của tướng sĩ.
  6. Vua Hán Cao-tổ ở bên Tàu khi khởi binh ở ấp Bái, họp con em ba nghìn người; đây ví những nguời theo đức Gia-long cũng khảng-khái như bọn quan-sĩ vua Hán Cao-tổ vậy.
  7. Tên núi ở tỉnh Thiềm-tây bên Tàu, có tiếng là hiểm trở, chỉ hai trăm người địch nổi hai nghìn người; vua Văn-vương nhà Chu sáng nghiệp ở đấy; đây sánh những người theo vua Gia-long cũng hăng hái như bọn quân-sĩ vua Chu Văn-vương vậy.
  8. Cơ đích là hàm thiếc dây cương, ý nói theo vua giữ ngựa. Đây là nói hồi vua Gia-long bị quân Tây-sơn đánh thua phải trốn xang Xiêm-la.
  9. Việt mao là cái phủ Việt và cờ tiết mao. Đây là nói hồi vua Gia-long từ Xiêm về thu phục được thành Gia-định.
  10. Điển cũ; vua Câu-Tiễn nước Việt khi mất nước thường nằm trên gai, nếm mật đắng để nghĩ kế khôi phục; ý nói chịu nổi khổ sở.
  11. Là Thanh-hóa và Bình-thuận.
  12. Sơn-phong là gió núi; khi đức Gia-long đóng ở đảo Côn-lôn, quân Tây-sơn chợt đến vây nguy cấp lắm, bỗng dưng trời nổi bão tố, thuyền Tây-sơn đắm cả, vua mới thoát vây. Hải lễ là nước ngọt ở bể; khi vua Gia-long đương phải chạy trốn ở ngoài bể, hết cả nước ngọt uống, vua mới khấn trời, chợt thấy ở dưới bể có dòng nước ngọt, múc nước uống mới khỏi khát.
  13. Đây ví vua Gia-long cũng như vua Hán Cao-tổ và Hán Quang-vũ là hai ông vua sáng nghiệp trung hưng ở bên Tàu.
  14. Đồn-bàn là kinh đô cũ của người Chiêm-thành, tức là thành Bình-định, Nam, Ngãi là Quảng-nam và Quảng-ngãi, Phú-xuân là Huế, Thăng-long là Hà Nội.
  15. Là đạn nhiều như mưa, thang cao giáp mây.
  16. Đây ví các thành tỉnh ấy cũng hiểm cố như đất Lũng là Lũng-tây (ở tỉnh Thiểm-tây) và đất Thục là Tứ-xuyên ở bên Tàu.
  17. Điển cũ: Lời Tư mã Thiên nói: "Người ta ai cũng chết mà cái chết có người nặng như núi Thái, cũng có người nhẹ như nắm lông hồng"
  18. Điển cũ: Lời Mã Viện nói: "Đấng tài trai nên chết ở nơi chiến trận lấy da ngựa bọc thây"; ý nói chết ở chiến trường.
  19. Là nói tối tăm mênh mang.
  20. Là nơi đất khách quê người.
  21. Là chổ bến đò ngày xưa.
  22. Đoản là ngắn, tu là dài, ý nói kẻ chết non người sống lâu.
  23. Kim là người đời nay, người còn sống, cổ là người đời xưa, người đã chết.
  24. Bóng bạch-câu: Điển cũ: đời người thấm thoát như bóng ngựa trắng chạy qua cửa sổ thoáng mắt đã mất; ý nói số mệnh các tướng sĩ ngắn ngủi.
  25. Phế phủ là buồng phổi và phủ tạng trong người.
  26. Điển cũ: vua Đường Thái-tôn bên Tàu vẽ hình công thần treo ở Yên các (gác khói), vua Hán Minh-đế vẽ tranh công thần treo ở Vân-đài (đài mây); ý nói tuy không được vinh dự như các bực công hầu danh tướng.
  27. Có công được thêu tên vào cờ cân cờ thường.
  28. Là ơn vua ví như mưa móc thấm nhuần.
  29. Nói xe vua trở về; đây nói vua Gia-long khi đã lấy Bắc-hà rồi trở về Phú-xuân.
  30. Là bốn tỉnh Quảng (Quảng-bình, Quảng-trị, Quảng-nam, Quảng-ngãi). Thuận-hóa, Nghệ-an và Thanh-hoá.
  31. Từ năm 1798 đến năm 1801.
  32. Thủy là lúc đầu, chung là lúc cuối. Ý nói lúc hoạn nạn thì còn sống mà đến lúc thái bình thì đã thác rồi.
  33. Theo chữ (can qua phủ định) việc đánh dẹp vừa yên.
  34. Là vua Nghiêu vua Thuấn bên Tàu, hai đời vua thái bình sánh với đời vua Gia-long.
  35. Là vua Thang vua Vũ hai đời vua thịnh trị bên Tàu sánh với đời vua Gia-long.
  36. Máy trời đất xoay vần bí mật và thần diệu.
  37. Ý nói: Nếu sống lại kiếp sau thì nên đến cửa dinh tiền quân mà nhận.
  38. Ý nói: nếu có khôn thiêng thì nên phù hộ nhà vua được thái bình để ngôi vua (ngôi bảo tộ) truyền mãi đến muôn đời về sau.

[sửa] Xem thêm