Cá mè
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
?
Cá mè |
|||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Cá mè hoa (Aristichthys nobilis)
|
|||||||||||||||||||
Phân loại khoa học | |||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||
Hypophthalmichthys Osteochilus Barbonymus |
Cá mè là một số loài cá nước ngọt, cùng họ với cá chép, thân dẹp, đầu to, vẩy nhỏ, trắng (Theo định nghĩa trong từ điển trực tuyến của Trung Tâm Từ Điển). Một số từ điển song ngữ Việt Anh, Việt Pháp dịch cá mè là Hypophthalmichthys.
Định nghĩa này chưa bao gồm hết các loài cá mè trong tiếng Việt. Dưới đây liệt kê một số loài cá mè, tất cả thuộc họ cá chép (Cyprinidae), trong lãnh thổ Việt Nam.
Mục lục |
[sửa] Chi Hypophthalmichthys
Chi cá mè (Hypophthalmichthys) có thể gọi là chi cá chép đầu to. Chi này chỉ có 3 loài, cả 3 loài đều là cá bành trướng ở Trung Quốc và Việt Nam. Có thể gọi là cá mè phương bắc. Ba loài của chi Hypophthalmichthys là:
- Hypophthalmichthys harmandi - Cá mè trắng Việt Nam
- Hypophthalmichthys molitrix - Cá mè trắng Hoa Nam
- Hypophthalmichthys nobilis (đồng nghĩa: Aristichthys nobilis, Leuciscus nobilis) - Cá mè hoa.
Loài cuối cùng được gọi trong tiếng Pháp và tiếng Anh là cá chép đầu to; thí dụ tên tiếng Anh: bighead carp, những nước nói tiếng Đức, căn cứ vào màu vảy có vân, gọi là cá chép cẩm vân thạch (Marmorkarpfen). Loài này cũng có ở Việt Nam. Sự thật thì cả 3 loài đều có đầu to và có màu trắng, dễ lầm lẫn. Ba loài cá này tuy gốc châu Á nhưng hiện nay đã được đưa sang các châu lục khác gây giống. Ở Việt Nam, cá mè bành trướng ở Bắc Bộ và bắc Trung Bộ.
[sửa] Nhận dạng
Cá mè có thân dẹp, dài thon, vảy rất nhỏ, có màu trắng, trong cơ thể có những tuyến tiết ra một chất có mùi tanh. Hai loài cá mè trắng Việt Nam và cá mè trắng Hoa Nam có vảy óng ánh nên các nước tây phương gọi là "cá chép bạc", như trong tiếng Anh gọi cá mè trắng Việt Nam là silver carp và cá mè trắng Hoa Nam là largescale silver carp. Cả 3 loài đều có đầu to, to nhất là loài Hypophthalmichthys nobilis.
Hypophthalmichthys molitrix (cá mè trắng Hoa Nam) và Hypophthalmichthys nobilis (cá mè Hoa) có thể đạt chiều dài trên 100 cm và trọng lượng trên 25 kg. Hypophthalmichthys harmandi (cá mè trắng Việt Nam) có thể đạt chiều dài 54 cm, chưa tìm được hồ sơ ghi trọng lượng tối đa có thể đạt được của loài cá này.
Cá mè có 1 vây (kỳ) lưng, hai vây (kỳ) mang và 3 vây (kỳ) bụng, đuôi hình chữ V.
[sửa] Nơi sống
Cá mè là cá nước ngọt, sống ở từng gần mặt nước, những nơi nước đứng hay nước chảy yếu, như ao, hồ, đầm lầy, sông nhánh. Cá mè không đẻ trong ao, đầm mà chỉ đẻ ở nơi có dòng nước chảy mạnh, tới mùa đẻ trứng (tháng 6-tháng 7), cá lội ngược dòng sông tìm những nơi ngã ba để đẻ, trứng trôi theo dòng nước về hạ lưu và nở con tại đây. Muốn cá đẻ trong ao, người ta phải chích kích thích tố (hormone) vào tuyến não cá bố mẹ và dùng bơm tạo dòng nước nhân tạo trong ao.
[sửa] Chi Osteochilus
Chi này có 31 loài. Có thể gọi là cá mè phương nam. Trong danh sách của đại học Cần Thơ, cá trong lưu vực sông Cửu Long có 4 loài thuộc chi Osteochilus:
- Osteochilus melanopleurus - Cá mè hôi
- Ostechilus schlegeli - Cá mè hương
- Osteochilus hasseltii - Cá mè lúi
- Osteochilus spilopleura - Cá linh rìa
Cá linh rìa còn có tên khoa học là Cirrhinus spilopleura; xếp cá linh rìa vào chi Cirrhinus có lẽ đúng hơn vì chiều dài cá này, nếu xét theo tỷ lệ cân xứng của hình dạng thì nó quá dài khi xếp vào chi Osteochilus.
[sửa] Nhận dạng
Cá mè chi này có thân dẹp, dài quãng gấp đôi chiều rộng, vảy lớn vừa. Cá mè có 1 vây (kỳ) lưng, hai vây (kỳ) mang và 3 vây (kỳ) bụng, đuôi hình chữ V. Cá mè hôi có vảy trắng xám với đặc điểm có hai sọc đen thẳng đứng nằm cận hai mang; cá mè hương có vảy màu trắng xám, không sọc; cá mè lúi có vảy màu ửng vàng cũng không sọc. Chỉ có cá mè hôi đạt trọng lượng đáng kể, độ 1,5 kg, còn hai loài kia độ 400-500 gam.
[sửa] Nơi sống
Cá mè là cá nước ngọt, sống trong những sông ngòi vùng Cửu Long và vùng cực nam Việt Nam, có nước lưu thông đáng kể. Cá mè sống ở độ sâu từ 1 tới 2m.
[sửa] Chi Barbonymus
Một loài cá khác cũng được gọi là cá mè là cá mè vinh. Cá này từ xưa được đặt tên là cá trà vinh. Cá trà vinh thuộc chi Barbonymus. Chi này có 3 loài:
- Barbonymus daruphani hoặc Barbonymus gonionotus (cá trà vinh)
- Barbonymus altus (cá he vàng)
- Barbonymus schwanenfeldii (cá he đỏ).
Cả 3 loài sống ở các nước Đông Nam Á. Tên Việt của 3 loài cá này đều có liên hệ với tiếng Cam pu chia: cá he cũng được gọi tương tự ở Cam pu chia (cahe), cá trà vinh tuy không giống trường hợp cá he nhưng gốc chữ "trà vinh" được vay mượn của tiếng nước này: trà vinh có nghĩa là "hồ" (đồng nghĩa với tên tỉnh Trà Vinh).
[sửa] Nhận dạng
Cá trà vinh (mè vinh) là cá nước ngọt, có thân dẹp và ngắn, vảy màu trắng xám, có 1 vây (kỳ) lưng, 2 vây (kỳ) mang và 3 vây (kỳ) bụng, đuôi hình chữ V. Vây lưng và đuôi có màu xám đậm. Cá này có thể đạt trọng lượng 1,2-1,5 kg.
[sửa] Nơi sống
Cá trà vinh hay cá mè vinh, cũng như hai loài cá he, sống trong mực cạn độ 0,5 đến 1 m tính từ mặt nước, nước đứng (hồ) cho tới nơi nước chảy mạnh (sông). Một đặc điểm nữa là cá trà vinh rất chọn lọc thức ăn: chúng chỉ ăn rong, lá cỏ và rễ cỏ. Hai đặc điểm này không dính dáng gì với các loài cá mè phương nam hay cá mè phương bắc, cho nên có lẽ vì thế mà cá được đặt tên là cá trà vinh, tức là cá sống gần mặt nước, trong hồ. Việc định danh lại loài cá này thành cá mè vinh không biết đã dựa vào một căn bản khoa học nào.
[sửa] Niên vụ
Hiện cá mè chưa là một nhóm cá có niên vụ đáng kể ở Việt Nam, nhưng trong tương lai có triển vọng phát triển mạnh mẽ trong ngành cá nuôi với chi cá mè Hypophthalmichthys, tức cá mè phương Bắc. Tuy chi cá mè Hypophthalmichthys thuộc vào hạng cá nuôi chủ yếu ở phương bắc nhưng còn trong tình hình tự phát, không có thống kê chính thức. Những loài cá mè phương nam thuộc chi Ostechilus, vì độ sâu của chúng sống và vì mực độ tăng trưởng chậm, khó có thu hoạch cao trong ngành nuôi cá. Cá mè lúi có thể là cá xuất khẩu dưới hình thức cá cảnh. Cá trà vinh hay cá mè vinh có tương lai trong ngành du lịch cho người thích câu cá vì loài này cần một nghệ thuật câu rất đặc biệt.
[sửa] Ghi chú
Họ Cyprinidae là một họ rất lớn, gồm 318 chi, khó xác định được chính xác số loài trong họ này là bao nhiêu, ước đoán từ 2.000 tới ngoài 3.000 loài. Đôi khi một loài cá được xếp vào 2 chi như trường hợp cá linh rìa, nên việc tìm một loài cá trong họ này không phải là vấn đề đơn giản, không nói tới việc nêu ra tổng số các loài cho cả họ. Trong định nghĩa của từ điển đã nêu, cho cá mè cùng họ với cá chép, tuy không sai nhưng không làm sáng nghĩa thêm.
[sửa] Cá mè trong đời sống người Việt
- Trong người Việt, giống như các loài các nước ngọt khác, cá mè được chế biến rất đa dạng như làm mắm, làm khô, chế biến làm các món ăn như kho, hấp, nướng, chiên, và làm các món gia vị như gỏi, nấu cháo, ...
- Tục ngữ:
Cá mè một lứa