Sư đoàn 1 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sư đoàn 1 Bộ binh là một đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Thành lập năm 1959 và tan rã năm 1975.
Đây là một đại đơn vị đã tham dự nhiều trận chiến lớn trong Chiến tranh Việt Nam, lập nhiều thành tích, và là sư đoàn Bộ binh đầu tiên của QLVNCH mà tất cả quân nhân thuộc Sư đoàn được mang giây biểu chương ba màu của Bảo Quốc Huân Chương. Đặc biệt Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 của sư đoàn nầy là đơn vị duy nhất trong QLVNCH nhận Presdential Unit Citation của Hoa Kỳ do thành tích chiến đấu dũng cảm. [1]
Mục lục |
[sửa] Tổ chức
Năm 1959, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa tái tổ chức các Sư đoàn Dã chiến 1, 2, 3, 4 và 6 Sư đoàn Khinh chiến 11, 12, 13, 14, 15, 16 trong quân đội Quốc gia Việt Nam thành 7 sư đoàn bộ binh, gồm Sư đoàn 1, Sư đoàn 2, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 21, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23 Bộ binh; mỗi sư đoàn với quân số 10.500 quân nhân. [2]
Sư đoàn 1 Bộ binh đặt bộ tư lệnh tại Huế, thuộc Quân đoàn I, Quân khu I, và gồm có các đơn vị trực thuộc: Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, ba trung đoàn bộ binh tác chiến (Trung đoàn 1, 3, 51 và 54), Đại đội Hắc Báo Trinh sát/Viễn thám Sư đoàn 1 Bộ binh, Thiết đoàn 7/Lữ đoàn 1 Kỵ binh, ba tiểu đoàn pháo binh 105mm, một tiểu đoàn pháo binh 155mm và một số đơn vị yểm trợ: Đại đội 101 Quân cảnh, Tiểu đoàn Quân Y Sư đoàn 1 Bộ binh, Tiểu đoàn 1 Công binh, và các đơn vị truyền tin, vận tải, quân cụ, quân nhu. [3]
[sửa] Các tư lệnh sư đoàn
- Lê Văn Nghiêm 1962-1963
- Đỗ Cao Trí 1963-1964
- Nguyễn Văn Chuân 1964-1966
- Ngô Quang Trưởng 1966-1968
- Phạm Văn Phú 1970-1972
- Nguyễn Văn Điềm 1972-1975
[sửa] Các trận đánh tiêu biểu
- Chiến dịch Pegasus (1968)
- Trận Mậu Thân (1968)
- Trận Lam Sơn 719 (1971)
- Trận Quảng Trị (1972)
[sửa] Năm 1975
Tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng Liên đoàn 15 Biệt động quân, chịu trách nhiệm bảo vệ hướng Tây và Nam tỉnh Thừa Thiên, đang hành quân thì được lệnh rút về cửa Tư Hiền để thực hiện lệnh tái phối trí Quân đoàn I. Theo kế hoạch rút quân, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng các đơn vị phụ thuộc sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo Quốc lộ 1 về Đà Nẵng. [4] Kế hoạch này không tiến hành như dự kiến, vì ngày 21 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 324B và Sư đoàn 325 của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cùng Trung đoàn Trị Thiên biệt lập, đồng loạt tấn công dọc theo tuyến phòng thủ sông Bồ kéo dài đến Phú Lộc. Tại các trận tuyến Mõ Tàu, núi Bông và các cao điểm nơi có mặt Trung đoàn 1, 51, 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, giao tranh xảy ra quyết liệt và gây thiệt hại nặng cho các đơn vị tấn công. [5] Khi các đơn vị Sư đoàn 1 Bộ binh về đến cửa Tư Hiền, Duyên đoàn 13 Hải quân chịu trách nhiệm đưa quân qua sông bị khó khăn và không làm tròn trọng trách đó nên Sư đoàn 1 Bộ binh tan rã tại đây, và chỉ có khoảng 4.000 quân nhân về được đến Đà Nẵng. [6]
[sửa] Chú thích
- ^ The 1st ARVN Division, 1st Lt. Robert Gorman, Rendezvous With Destiny Magazine, L Company, 75th Ranger Group, U.S. Army, Winter 1969
- ^ "Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập," TS Nguyễn Đức Phương, NXB Làng Văn, Toronto, 2001, trang 821.
- ^ TS Nguyễn Đức Phương, sđd., trang 845
- ^ TS Nguyễn Đức Phương, sđd., trang 755
- ^ Vietnam from Cease-Fire to Capitulation, William E LeGro, GPO, Washington 1981, ch 16
- ^ "Bắc hải Vân Xuân 1975", Xuân Thiều, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1977