Hội Thánh Gióng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nằm trong khu vực trung châu Bắc Bộ, Kinh Bắc vốn là nơi quần tụ của người Việt cổ với nền văn minh lúa nước. Nơi đây cũng còn lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống và đã trở thành chuẩn mực của văn hóa Việt. Một trong những nét đẹp độc đáo ấy chính là văn hóa lễ hội, một di sản phi vật thể đã tồn tại hàng nghìn năm. Văn hóa lễ hội luôn gắn liền với nhân dân lao động và nền văn minh lúa nước, song song với nó là cả một quần thể di tích, đền chùa miếu mạo. Nó đã trở thành tâm linh của người Việt, mà qua đó người dân đã gửi gắm những gì tinh túy nhất, đặc sắc nhất của đời sống con người.
Trong những lễ hội của vùng Kinh Bắc xưa, không ai không biết đến hội Gióng, một trong những lễ hội lớn của Việt Nam. Điều này thể hiện rõ qua câu ca:
Ai ơi mồng chín tháng tư
Không đi hội Gióng thì hư một đời.
Hội Gióng chính là hội làng Gióng, nay thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội, một xã thuần nông nằm ven bên bờ sông Đuống, và sát ngay đường quốc lộ 1A (mới), cách Hà Nội khoảng 15 cây số.
Hội Gióng một bản anh hùng ca hoành tráng kể lại chiến tích thần thánh của người anh hùng Gióng. Truyền thuyết kể rằng, đời Hùng Vương thứ VI, nước Văn Lang bị giặc Ân từ phương Bắc tràn tới. Đất nước lâm nguy, vua sai sứ cầu hiền tài. Một bé trai - Kết quả của sự tác hợp giữa thần thánh giữa bà quả phụ nghèo và vết chân của người khổng lồ để lại ở vườn cà sau một đêm giông tố - ba tuổi mà không nói, không cười, bỗng bật dậy cười nói mời Sứ giả vào đề đạt xin nhà vua cấp cho một con ngựa sắt, một roi sắt và một bộ áo giáp sắt để ra trận đánh giặc Cậu bé Gióng sau bữa ăn “Bảy nong cơm, ba nong cà, uống một hơi nước cạn đà khúc sông”, vươn vai, trở thành một tráng sĩ dũng mãnh. Toàn dân từ trẻ trăn trâu, người đập đất, người đi câu, người thợ rèn và cả muông thú,vv.. đã rầm rập theo nghĩa quân do Gióng chỉ huy. Sau khi đàm đạo khuyên nhủ giặc không thành, Gióng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt cầm roi sắt xông vào trận địa địch tả xung hữu đột, ngựa sắt cũng phun lửa chiến đấu. Trận chiến diễn ra ác liệt, roi sắt gẫy, Gióng phải nhổ cả tre đằng ngà để tiêu diệt giặc. Giặc tan, không màng tới danh lộc, người anh hùng đã lên núi Sóc quay đầu bái vọng mẹ và dân làng rồi bay về trời. Hùng Vương phong ông Gióng là Phù Đổng thiên Vương, xây dựng ngôi miếu thờ ông Gióng tại làng Gióng và cấp cho trăm mẫu ruộng làm lễ điền để hàng năm mở hội tưởng nhớ đến công ơn của Ngài. Người anh hùng Gióng đã trở thành thần thánh và khắc sâu trong tâm tưởng người Việt. Nơi Ngài sinh ra và những nơi Ngài đã từng đi qua nhân dân đều lập đền thờ và hàng năm mở hội để tưởng nhớ đến công ơn Ngài, những người tướng theo Ngài ra trận đều trở thành Thành Hoàng của các làng lân cận.
Đến thời Lý, hội Gióng được nâng từ hương lễ thành quốc lễ và được chuẩn hóa theo một kịch bản nghiêm ngặt gọi là sổ hội lệ. Tương truyền rằng: Lý Thái Tổ Công Uẩn lúc nhỏ có đi tu ở chùa Kiến Sơ thường sang miếu thờ ông Gióng (ở phía đông chùa Kiến Sơ) thắp hương cầu xin thần cho biết vận mệnh của đất nước và phù trợ để mưu cầu việc lớn. Có một đêm, Lý Công Uẩn mơ thấy một người khổng lồ cho 4 câu thơ Nhất bát công đức thủy Tùy duyên hóa thế gian Quang quang trùng ảnh chiếu Một ảnh nhật đăng sơn Câu thơ có nghĩa là Nhà Lý sẽ được làm vua vẻ vang tám đời. Quả nhiên lời sấm ứng nhiệm và Lý Công Uẩn làm vua, mở ra một kỷ nguyên mới cho nước Đại Việt, kỷ nguyên tự chủ. Sau khi lên ngôi, ổn định đất nước, nhà Lý đã cho tu sửa chùa Kiến Sơ, đền Thượng Thờ thánh Gióng, đền Hạ thờ Mẹ thánh Gióng, miếu ban Nơi Sinh Thánh Gióng và chuẩn hóa lễ hội Gióng, gửi vào đó những triết lý sâu xa. Hàng năm, nhà Lý cử quan đại thần về làng Gióng để làm lễ tế Nam Giao và mở hội Gióng vào những ngày thượng tuần tháng tư âm lịch. Và hội Gióng cứ lan truyền từ đời này qua đời khác, lan tỏa khắp trong và ngoài nước. Có rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã từng nghiên cứu và giải mã về hội Gióng Ngay từ cuối thế kỷ XIX, nhà nghiên cứu người Pháp Duy-mu-chi-ê đã viết: “Hội Gióng là một cảnh tượng hấp dẫn nhất mà tôi xem được ỏ Bắc Kỳ… Chắc hẳn thế, chưa bao giờ buổi lễ của giáo hoàng La Mã lại được tiến hành trước một đám người dự lễ chân thành hơn và với những người dự lễ có ý thức hơn về sự cao quý trong chức trách của mình, về sự thần thánh của hành vi đang được thực hiện”. Cố Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên đã nhiều lần về xem hội Gióng và đã viết một cuốn sách “Hội Phù Đổng - Một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam năm 1937. Cụ Cao Huy Đỉnh cũng đã dày công nghiên cứu về ông Gióng và Hội Gióng để viết lên cuốn sách “Người anh hùng làng Gióng” xuất bản năm 1967 và được coi là cẩm nang về ông Gióng và hội Gióng.
Hội Gióng cũng như bao lễ hội khác đều là một sinh hoạt văn hóa của người dân lao động, của nền văn minh lúa nước. Nhưng hội Gióng đặc sắc vì nó ẩn chứa lịch sử chế ngự thiên nhiên, dựng ngước và giữ nước của người Việt, ẩn chứa triết lý về vũ trụ, về con người, về đạo lý. Trước hết hội Gióng thể hiện sức mạnh và khát vọng chế ngự thiên nhiên của người Việt cổ. Trong ngày hội có lễ “rước nước” và tế Nam Giao cầu mong mưa thuận gió hòa. Trong ngày hội có Trống biểu trưng cho sấm, cờ biểu tượng của mây, gió. Tất cả được cách điệu hóa để thể hiện khả năng chế ngự thiên nhiên của con người. Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa biểu đạt chế ngự thiên nhiên, hội Gióng còn biểu đạt sức mạnh trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Lễ “rước nước” ở hội Gióng mang thêm ý nghĩa là “rửa khí giới” trước khi ra trận. Toàn bộ ngày hội diễn tả lại trận đánh của ông Gióng xưa kia đánh thắng giặc Ân, đồng thời cũng mang dáng dấp của bất kỳ trận đánh nào của người Việt. Trước đền có hai ngọn cờ lớn, biểu trưng cho doanh trại của người Việt. Các “ông hiệu” tượng trưng cho các vị tướng trong trận đánh. Như ông hiệu “tiểu cổ” biểu trưng cho tướng của đội quân trẻ chăn trâu theo ông Gióng và cũng là đoàn quân trinh thám. Ông hiệu Trống biểu trưng cho tả tướng quân, ông hiệu chiêng biểu trưng cho hữu tướng quân, ông hiệu Trung Quân biểu trưng cho quan triều đình và làm nhiệm vụ giám quân, ông hiệu cờ biểu trưng cho tinh thần của Thánh Gióng và cũng là tướng chủ lực trong một trận đánh. Tất cả các cử chỉ trong khi hành lễ đều được biểu diễn dứt khoát thể hiện sức mạnh của quân đội. Ngày hội có lễ “rước khám đường” biểu trưng cho sự thăm dò binh tình, có tập trận trước khi xuất quân. Trận đánh thứ nhất là trận “Đống Đàm” được thể hiện như một trận đánh trên mặt trận ngoại giao, vừa đánh vừa đàm. Trận thứ hai là trận “Soi Bia” là trận đánh quyết định, tổng lực đem lại hòa bình trọn vẹn và là một tấm Bia lớn để ngàn đời sau soi vào làm gương. Trong ngày hội có các cô gái đóng vai tướng giặc để thể hiện một trận đánh thực sự. Tất cả các ngày hội chính đều diễn ra như một chiến dịch kinh điển của quân sự Việt. Thông qua ngày hội, người xưa đã gửi gắm nhiều triết lý xâu xa. Thể hiện rõ nét nhất là triết lý về vũ trụ. Các trận đánh đều là 3 ván phất cờ, thể hiện rõ quan niệm Thiên – Địa – Nhân. Hai mươi tám nữ tướng thể hiện 28 vị tinh tú trong việc cầu mưa. Tướng giặc là nữ, biểu hiện cực âm là xấu đối nghịch với dương là những trai tráng tham gia đóng vai quân nhà Thánh. Triết lý quan trọng nữa là triết lý về nhân sinh, thẩm mỹ và đạo đức làm người. Các ông hiệu biểu trưng cho các vị tướng người Việt và có các đặc tính tốt đẹp của một vị tướng theo quan niêm Phương Đông đó chính là Trung, Hiếu, Trí, Dũng, Uy, Nhân. Khi tổ quốc lâm nguy, sẵn sàng ra trận đấy là Trung. Trước khi ra trận đều rước nước từ đèn Mẫu để rửa khí giới, lễ bái biệt mẹ khi ra đi và bái vọng mẹ khi chiến thắng trở về được gọi là Hiếu. Khi đánh trận có sự biến hóa giữa Thuận và Nghịch, có đấu tranh ngoại giao và đấu tranh vũ trang đấy là Trí. Tất cả các động tác hành hội đều khỏe khoắn dứt khoát đấy là Dũng. Toàn bộ đám rước theo một trận tự nhất định, mọi người đều răm rắp tuân theo hiệu lệnh đấy là Uy, khi thắng trận không lạm sát người vô tội, chỉ trừng trị kẻ cầm đầu và tha những tùy tướng đấy là Nhân. Hội cũng miêu tả lại trận đánh xưa của ông Gióng với nhiều thành phần tham gia như quân chính quy, người nông dân, trẻ chăn trâu, thanh niên làng, người câu cá, muông thú…Các vai diễn trong ngày hội được thể hiện bởi hàng ngàn người dân trong 3 xã xung quanh, với một sự tôn kính và tập trung cao độ. Chứng tỏ rằng ngày hội đã biểu đạt tinh thần đại đoàn kết rất tộc sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong ngày hội có ngày “kén tướng” chính là sự phô diễn sắc đẹp, sự thẩm mỹ của phái nữ. Có ngày “kén phù giá” chính là sự đề cao sức mạnh hình thể của người đàn ông. Đúng là câu trai tài gái sắc. Hội Gióng là một di sản văn hóa, còn ẩn chứa rất nhiều điều bí ẩn mà các nhà nghiên cứu vẫn đang cố công tìm hiểu và giải mã. Trong những ngày hội, mọi người vừa xem lại tích xưa, vừa để hoàn thiện nhân cách của chính mình. Vì thế mới nói rằng “Không đi hộ Gióng thì hư một đời”. Với tinh thần phát huy và gìn giữ văn hóa truyền thống, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn bộ về lễ hội Gióng. Hội Gióng gồm 3 giai đoạn chính Giai đoạn thứ nhất: Hiệp thương nhân sự tương ứng với việc phân công vai diễn và chuẩn bị phục trang. Năm nào mở hội chính, ngay từ tháng Giêng các bô lão trong làng đã họp bàn và căn cứ vào sổ hội lệ để phân công các vai diễn. Các ông hiệu thì được phân công luân phiên, xưa cơ sở để phân công là Giáp nhưng nay cơ sử phân phân công là Thôn. Khi phân công về thôn thì các gia đình trong thôn sẽ làm đơn lên xã để đăng ký tham gia lễ hội. Các vai diễn chính gồm: 1 – Ông Hiệu Cờ: Số lượng: 1 - Tượng trưng cho tướng chỉ huy 2 – Ông Hiệu Trống: Số lượng: 1 - Tượng trưng tướng tả của Gióng 3 – Ông Hiệu Chiêng: Số lượng: 1 - Tượng trưng tướng hữu của Gióng 4 – Ông Trung Quân: Số lượng: 1 - Tượng trưng tướng phái viên của triều đình Hùng Vương 5 – Ông Hiệu Tiểu Cổ: Số lượng: 2 - Tượng trưng tướng Mục đồng. 6 – Phù giá: - Phù giá nội: 120 người – quân cận vệ chủ lực của Gióng. - Phù giá ngoại (Làng ào đen) 48 người: Đội quân nhân dân của Gióng 7 – Làng áo đỏ: 90 em - Đội quân thiếu nhi của Gióng 8 – Bát tiên: 8 người – Lính chính quy của triều đình Hùng Vương 9 - Phường Ải lao: 25 người - Đội quân tổng hợp của Gióng - Người đi câu: 1 - Người đi săn: 1 - Ông Hổ: 1 - Người cầm cờ lau: 2 - Ông Đội: 2 - Ông Trùm: 2 - Chiến binh: 16 10 - Hỷ đồng: 6 em – lính tạp dịch. 11 – Cô tướng (Tướng giặc): 28 bé gái - Tượng trưng 28 đạo quân xâm lược nhà Ân. 12 – Các vai diễn khác. - Ông Chấp Kỳ - Số lượng: 1 - Giữ cờ Lệnh - Ông Khai Miều - Số lượng: 1 - Mở cờ Lệnh - Ông Khởi Chỉ - Số lượng: 1 - Mở Miều Cờ - Gia nhân - Số lượng hàng trăm - phục vụ các ông Hiêụ và cô Tướng
Giai đoạn thứ hai : Luyện tập
- Ngày 25 tháng 3 ( Âm lịch ): Làm lễ lau chùi các đồ ở Đền thượng, Đền Hạ, Miếu Ban do các cụ trong ban khánh tiết khu di tích Đền Gióng thực hiện ( Khoảng 100 cụ ).
Các ông hiệu phục vụ Lễ hội năm đó làm lễ Thánh và lĩnh đồ Cờ, Trống, Chiêng ..... và lĩnh các trang phục như Lọng, quần áo, cán cờ, tay thước. Thời gian lĩnh đồ từ 7h đến 16h chiều. • Ngày 25 tháng ba ( Âm lịch ): Tiến hành luyện tập ở từng thôn sau một tuần luyện tập cả sáng, chiều, tối. • Sáng mùng một tháng tư ( Âm lịch ): Các ông hiệu làm lễ xin châm hương ở quan nhà Giám, đền Thượng lễ đơn giản trang trọng mang về nhà thờ, ý nghĩa tượng trưng nhận nhiệm vụ ra trận. Trong thời gian luyện tập các ông hiệu phải trai giới và sinh hoạt theo một nguyên tắc rất nghiêm ngặt. Việc luyện tập này có ý nghĩa rất quan trọng, vừa mang ý nghĩa tâm linh giúp con người thanh tịnh thoát tục trước khi hành lễ vừa giúp cho người tham gia hành hội có được sức mạnh và sự chịu đựng dẻo dai trong suốt những ngày hội chính. Chính nhờ có sự trai giới, luyện tập nghiêm túc này mà suốt hàng ngàn năm nay chưa có trường hợp nào bị bỏ dở trong khi hành lễ, mặc dù thời gian hành lễ mỗi ngày là 8 tiếng đồng hồ liên tục diễn ra dưới trời mùa hè nắng 38 –40 độ c và đi bộ vài cây số.
• Chiều ngày mùng 1 tháng tư ( Âm lịch ): Diễn tập lần thứ nhất tại Đền Thượng các ông hiệu định giờ xuống tập trung tại đền thượng theo đúng trình tự và nghỉ tại gian nhà dành cho các ông hiệu trước khi tiến hành ngoại đàn, các ông hiệu làm lễ thánh các ông hiệu lễ thánh theo một quy tắc chung khác biệt với cách lễ thông thường Trước ban thờ, hiệu trống đứng bên phải, hiệu chiêng đứng bên trái, tư thế thẳng chữ bát, hai tay úp để trước ngực, khuỷu tay nâng cao ngang vai, đầu ngẩng cao. Bước chân trái lên, quỳ xuống, rút chân trái ra sau, rồi chân phải, hai tay úp lên chiếu, lưng vẫn thẳng, ép bụng xuống thấp, đầu vẫn ngẩng cao nhìn bàn thờ rồi lại đứng lên. Họ lễ bốn lần, động tác thành kính nghiêm trang, dứt khoát, nhanh nhẹn. hai ông hiệu tiểu cổ tiến hành trước tiên và đứng vào vị trí dưới hai lá cờ lớn trước đền tiếp đến ông hiệu trống và chiên đúg tại hai bên tả hữu của cổng đền ông hiệu trống nổi 3 hồi trống trước Trống đặt bên trái ông hiệu. Tư thế đứng luôn thẳng, chữ bát, mặt nghiêm trang nhìn về phía trước. Bàn tay trái thẳng kẹp trước khăn để trước ngực, tay úp, khuỷu tay nâng cao bằng vai. Tư thế này luôn giữ nguyên khi không đánh trống. Động tác đánh trống vừa uyển chuyển lại dứt khoát mạnh mẽ và quy cách. Nhịp 1: Tay trái vãn giữ nguyên trước ngực, tay phải hạ xuống cạnh đùi, dùi trống dựng dọc theo người. Nhịp 2: Dùi trống vẫn dựng đứng, tay phải vẽ một vòng tròn sang tráI rồi vòng về vị trí cũ đồng thời chân phải cũng vẽ vòng tròn tương tự tay, bàn chân song song với mặt đất, lườn và vai phải lượn theo vòng tròn. Nhịp 3: Chân trái lên chữ đinh, tay phải đưa dùi chếch lên cao về phía sau, dùi và cánh tay tạo thành một đường thẳng chếch sau 45. Nhịp 4: Đánh mạnh dùi vào mặt trống, người hơi nhún nhẹ, rồi từ từ rút chân về chữ bát đồng thời kéo dùi trống về tư thế ban đầu. Nhân dân thường gọi là “ lên đinh xuống bát “. Nhịp trống đánh mạnh mẽ, chậm rãi, khoan thai, dõng dạc, nét mặt nghiêm trang đầy tự tin. Trống đánh liên tục thì chân vẫn giữ nguyên chữ đinh, dứt tiếng trống mới rút về chữ bát và dùi trống về tư thế ban đầu.
trong khi các ông hiệu hành lễ, hỷ đồng hầu quạt múa quạt hầu Tay trái chống nạnh, tay phải cầm quạt đặt ở hông, quạt hướng ra sau, chân đứng chữ bát. Sau khi nghe tiếng trống đánh thì hạ quạt xuống dọc theo người, quạt dựng đứng. Nhịp 1: Chân phải vẽ vòng tròn từ trái qua phải ( giống như hiệu trống ) rồi về chữ bát như cũ, đồng thời quạt vẫn dựng đứng vẽ vòng tròn từ trái sang phải, người cũng đưa lượn theo tay chân. Nhịp 2: Quạt về đến hông thì guộn cổ tay xoay quạt ngửa ra về phía sau bên phảI đưa chếch cao. Nhịp 3: Chân trái lên đinh, tay phải quạt mạnh xuống xế trái hướng ông hiệu trống người vươn về trước, trọng tâm nhún về chân đinh ( trái ). Nhịp 4: Rút chân đinh về bát, kéo tay quạt về đặt ở hông hướng quạt ra sau. Động tác chỉ thực hiện khi tiếng trống dứt. Trong lúc trống đánh liên tục thì quạt cũng múa liên tục từ nhịp 1 đến nhịp 4. Ngườii quạt hầu ông hiệu chiêng đứng chếch bên trái, hướng người hơi quay vào ông và động tác cũng tương tự. khi dứt 3 hồi trống thì hiệu chiêng bắt đầu múa đánh chiên Người đánh chiêng đứng bên trái của chiêng, trang phục giống ông hiệu trống. Tư thế chuẩn bị cũng giống hiệu trống, tay trái kẹp khăn đỏ nhỏ ( để thấm mồ hôi ), gập cánh tay nâng ngang vai, bàn tay úp sấp trước ngực. Tay phải cầm dùi chiêng màu đỏ, gập cánh tay nâng ngang vai, đầu dùi đặt vị trí xương quai xanh. Động tác đánh chiêng cũng nghiêm trang, dõng dạc, quy cách như đánh trống, tuy nhiên thể hiện hoàn toàn không giống nhau. Nhịp 1: Chân phảI nhún nhẹ,chân trái đá hướng xế trái. Nhịp 2 và 3: Tay phải guộn dùi chiêng, giữ nguyên vị trí guộn vòng ra ngoàI rồi quay lật dùi chiêng lại phía trong như vẽ một dấu hỏi ngược. Cánh tay giữ nguyên, dùi chiêng hơi đưa ra phía trước. Nhịp 4: Đưa chân phảI lên đinh, chân trái nhún nhẹ đồng thời đánh mạnh dùi vào giữa chiêng,đoạn rút dùi về tư thế cũ, chân rút về bát. Cũng như trống, chiêng đánh từng tiếng chậm rãi, khoan thai. Sau mỗi lần đánh lại về tư thế nghiêm trong tư thế chuẩn bị. Lúc đầu từng tiếng một cách xa nhau rồi tốc độ tăng dần cho đén khi liên tục thì giữ chân đinh cho dến tiếng chiêng cuối cùng mới về tư thế cũ ( cả chân và tay ). Múa đánh trống, đánh chiêng vừa là nghi thức hành lẽ, hành quân, xung trận thu quân v.v… vừa là biểu diễn nghệ thuật. ở đây, yếu tố linh thiêng tôn giáo hoà lẫn sự sáng tạo nghệ thuật bay bổng. Thật thú vị biết bao khi chiêm ngưỡng tài nghệ biểu diễn của người nông đân Phù Đổng trong những đIệu múa dân gian đẹp mắt, tinh tế, quy cách và chính xác khi hồi chiêng thứ 3 vừa dứt thì ông hiệu trung quân tiến hành lễ thánh và bước ra sân
tiếp đó là ông hiệu cờ. Hiệu trung quân đánh 3 tiếng trống, hiệu cờ bắt đầu nghi lễ múa đánh cờ 1- Đánh ba ván cờ thuận. Nhân dân quen gọi trận Đống Đàm là ván cờ thuận. Hiệu cờ, tay trái dương thẳng lá cờ lên phía trước, mắt nhìn theo cờ, chân trái đá giàng sang trái. Chuyển cờ sang tay phải, chân phải đá giàng sang phải. Tiến lên 3 bước ( trái, phải, trái ) chân phải đá hất bát lên, giấy tung bay với ý nghĩa sức mạnh của Thần là bạt mây dời núi. Đoạn chụm chân nhảy tại chỗ ba lần. Quỳ chân phải, chân trái chống vuông vức, phất mạnh và nhanh lá cờ từ phải sang trái thành hình số 8 nằm ngang, lá cờ lượn vòng quanh mình ba lần. Động tác này tượng trưng cho chữ nhân ( ). Đoạn vẽ vòng tròn trên đầu ngược chiều kim đồng hồ, vòng tay thẳng để lá cờ bay ba vòng tròn rộng. Động tác này tượng trưng cho dấu chấm ( ), khi hết vòng thứ ba, cán cờ về đến phí trước thì hất mạnh thẳng đứng, cờ vút lên cao, khi hạ cán cờ xuống hơi lượn nhẹ sang phải, cờ rơi xuống có hình chữ V nằm ngang ( ). Tất cả đường đi của cờ vẽ lên chữ Lệnh ( ). Hiêu cờ lại tiếp tục múa như vậy hai lần nữa ở chiếu thứ hai và chiếu thứ ba. Cả ba lần múa trên ba chiếu đều giống nhau. Nhân dân Phù Đổng gọi là đánh ba ván cờ thuận. Khi đIệu múa cờ vừa chấm dứt ở chiếu thứ ba thì các nữ tướng giặc Ân cho quay kiệu đi. Quân ta đã thắng. Thế là ba ván cờ thuận đã chấm dứt chiến rận trong tiếng hò reo cổ vũ của quân sĩ và trống đánh, chiêng khua rộn ràng góc trời Phù Đổng. 2- Đánh ba ván cờ nghịch. Nhân dân Phù Đổng quen gọi trận đánh ở Soi Bia là đánh ba ván cờ nghịch. Được tin quân địch quay lại, họ bỏ cả ăn uống, cờ quạt, vũ khí rồi nổi trống chiêng tiến ra chiến trường. Bài binh bố trận cũng giống như ở Đống Đàm.
Sau ba hồi trống tiép nối ba hồi chiêng, hiệu cờ lại bắt đầu bước ra chiếu một để múa, Lần này, tất cả đều làm ngược lại. Tay phải giương thẳng cờ, chân phải đá giàng sang phải. Tay trái giương cờ, chân trái đá giàng sang trái. Bước lên ba bước ( phải, trái, phải ) chân trái đá hất bát lên, nhảy chụn chân ba lần, quỳ chân trái, chân phải chống thước thợ, hất mạnh và nhanh lá cờ từ trai sang phải ba lần. Quay cờ vòng tròn trên đầu theo chiều kim đồng hồ ba lần, rồi hất mạnh thẳng đứng cờ lên cao, khi hạ xuống hơi lượn.
- Sáng ngày mùng 5 tháng tư ( Âm lịch ): Trang hoàng, bài trí toàn bộ quang cảnh trước Đền, trong Đền, nội dung như: Dựng cờ hội, giáp mã, siêu đao, bát bửu, nhằm mục đích tăng sự tôn nghiêm của Hội.
- Chiều ngày mùng 5 tháng tư ( Âm lịch ): Đội quân phù giá của 4 thôn tập trung ( Khoảng 70 người ), luyện tập sơ bộ, tập lễ, tập hành quân và phân công các đội: Nhất, nhì, ba, tư, năm, sáu chọn chung trong toàn xã. Ngày mồng 5 cũng là ngày kén phù giá, đây là một hình thức tôn vinh sức mạnh.
- Chiều ngày mùng 6 tháng tư (Âm lich ): Diễn tập lần thứ hai tại đền Thượng.
. • Tối mùng 6 tháng tư ( Âm lịch ): Làm lễ phong cờ do ban khánh tiết chọn các cụ cao tuổi nhất thực hiện. Nội dung: Cờ mới để dùng cho lễ hội năm đó được quấn lại có bột trầm ( Bươm bướm giấy đủ màu ) rồi bọc vào bao Miều có thêu rồng, phượng.Cờ này sau khi phong bao được mang trong lễ khám đường. Chỉ được mở cờ trong ngày chính hội 9/4 ( Âm lịch ) tại trận đánh đầu tiên tại Đống Đàm Đổng Viên. Sau khi phong bao cờ, cờ được để ở giá giữa nơi thờ để nhân dân vào lễ, chiêm ngưỡng.
Giai đoạn 3: ngày hội chính trong 3 ngày hội chính, buổi sáng đều tổ chức tế nam giao
( Ngày xưa vào những ngày đầu năm các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn có tổ chức tế Nam giao mong mưa thuận gió hoà do vua đứng chủ tế ở Kinh đô.
Triều Lý có quan đại thần được vua phân công nhiêm vụ về tế Thánh ở Phù Đổng, sau giao cho địa phương cách thức tổ chức kiểu tế Nam giao ). - Trang phục: Mũ theo cấp bậc Mặc áo thụng xanh Tay cầm hốt gà theo sự phân công của từng buổi lễ. - Mỗi buổi lễ có cử: 1 thừa tế: phân công ( cả 4 ngày 7, 8, 9,10 ). - Thừa tế mùng 7 thôn có ông Hiệu Trống - Thừa tế mùng 8 thôn có ông Hiệu Trung quân - Thừa tế mùng 9 thôn có ông Hiệu Cờ - Thừa tế mùng 10 thôn có ông Hiệu Chiêng - Đọc văn ( theo tiếng Việt). - Có tiếu nhạc phục vụ + 8 bát tiên. - Bộ phận tế được tuyển khoảng 30 cụ ( 4 thôn ) có cụ tổ trưởng điều hành, phục vụ cả năm mùng một ngày rằm. Ngày mùng 7 tháng tư ( Âm lịch )
- Lễ rước nước.
lễ rước nước được tiến hành từ đền thượng xuống đền mẫu và rước nước từ đền mẫu về đền thượng. Buổi sáng các ông hiệu tập trung và ngoại đàn. Sau 3 hồi trống, ba hồi chiêng đám rước bắt đầu tiến hành. Đi đầu: - Phường áo đỏ và hai Hiệu tiểu cổ. -Phường áo đen mang cờ ngũ hành và cờ phướn - Phường ải lao - Hiệu trống - Hiệu chiêng -Tiểu nhạc - Bát tiên và hiệu trung quân - Phù giá mang siêu đao, bát biểu và khênh chum -Đại nhạc -Hiệu cờ đi sau cùng.
Rước nước mang ý nghĩa cầu mong mưa thuận gió hòa, được mùa no ấm. Lễ rước nước mang dáng dấp như bất kỳ lễ hội nào của vùng châu thổ. Tuy nhiên lễ rước nước của hội gióng còn mang một ý nghĩa khác đó là chuẩn bị hậu cần cho một trận đánh lớn. Nước rước từ đền mẫu về đền thượng trước khi tiến hành các nghi lễ đánh trận thể hiện đạo hiếu của những người ra trận. Rõ ràng đối với người xưa và nay thì hình ảnh bà mẹ ở hậu phương luôn trong tâm những người con đi chiến đấu. Dòng nước mẹ vừa nuôi dưỡng vừa như phép mầu hun đúc tinh thần của những đứa con. sau khi hai chum nước được chuyển vào trong nhà giám thì các ông hiệu ngoại đàn trước cổng đền và kết thúc lễ rước nước buổi chiều mồng 7 diễn là lễ khám đường. Lễ khám đường biểu trưng cho sự trinh sát trận địa trước khi diễn ra trận đánh. Trong quá trình khám đường, nếu có đoạn nào hư hỏng thì xã phải cử người khắc phục ngay. tiến hành ngoại đàn sau 3 hồi trống, 3 hồi chiêng thì bắt đầu rước. Đoàn rước đi từ đền thượng, vòng qua miếu ban, vòng qua đền mẫu xuống đống đàm rồi trở về đền thượng. Ngày mồng tám hội diễn ra lễ kén tướng. Lễ kén tướng biểu trưng cho sự phô trương lực lượng của quân giặc. Hai mưới tám cô gái tuổi từ 8 đến 13 tuổi đóng vai nữ tướng giặc Ân. Hai mưới tám cô tướng biểu trưng cho tập hợp sao nhị thập bát tú, các sao quen thuộc đối với cư dân lúa nước. Các sao đó là: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Đẩu , Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Trủy, Sâm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Trong 28 sao đó thì hai sao quan trọng là sao Giác còn đọc là Giốc và sao Ngưu được biểu trưng cho chánh tướng và phó tướng của quân giặc. Sau này dân gian đọc chệch đi thành tướng Đốc và tướng Ngựa. Kén tướng là kén chọn xem ai đẹp nhất và có động tác đúng nhất. Đây cũng chính là sự tôn vinh phái đẹp với công dung ngôn hạnh. Phải chăng đây cũng chính là một hình thức thi hoa học của thời xưa.
Ngày mồng chín, chính hội Sáng mồng chín trông đền vẫn tổ chức tế Nam Giao như thường lệ. Trong khi đó ban tổ chức lễ hội chuẩn bị đầy đủ phương tiện, nước uống cho cuộc hành quân. Đầu giờ Ngọ các ông hiệu tập trung tại đền thượng. Trong lúc đó, các tướng của giặc Ân dàn trận tại Đống Đàm. Các nữ tướng bày trận theo một hình vòng cung vây quanh Đống Đàm theo thế “Băng xà”. Có tin báo về, giặc Ân đang xâm lăng bờ cõi, tất cả sẵn sàng chiến đấu. Các ông hiệu làm lễ trước bàn thờ thánh như tuyên thệ trước khi ra trận. Hiệu tiểu cổ tượng trưng cho đội quân tiên phong trinh sát đánh trống báo động. Hiệu Trống đánh 3 hồi trống báo hiệu tả quân đã sẵn sàng. Tiếp đến hiệu Chiêng đánh 3 hồi chiêng, hữu quân đã sẵn sàng. Khi hồi chiêng thứ 3 vừa dứt, hiệu Trung Quân làm lễ thánh, nhận trống lệnh và điều khiển hiệu Cờ vào lễ thánh và nhận cờ lệnh xuất quân. Hiệu Trung Quân bước ra, đánh 3 tiếng trống khẩu và xe long mã sẵn sàng, đoàn quân bắt đầu tiến công Đi đầu là đoàn quân roi rồng với 2 tướng chỉ huy là hiệu tiểu cổ. Hiệu tiểu cổ được biểu trưng cho tướng tiên phong trinh sát. Tiếp đến là làng áo đen biểu trưng cho các trai làng tham gia đánh trận. Phường Ải Lao với Ông hổ tượng trưng cho muông thứ, người cằm cờ bông lau tượng trưng cho trẻ chăn trâu, đi săn cầm nỏ, người câu cá cầm cần cũng bước đi theo đoàn quân ra trận. Ông hiệu Trống tượng trưng cho tả tướng quân Ông hiệu chiêng tượng trưng cho hữu tướng quân Ông hiệu Trung Quân và đoàn quân bát tiên tượng trưng cho quan Trung Quân giám sát trận đấu. Tiếp theo là ông hiệu cờ, chủ soái mang theo cờ lệnh. Cuối cùng là đoàn quân Phù Giá là đội quân chính quy của ông Gióng xưa. Xe long mã tượng trưng cho ngựa của ông Gióng. Hiệu cờ cầm cờ lệnh tượng trưng cho tinh thần của ông Gióng còn ông Gióng ngự ở khoảng không trên xe long mã với các tán vàng xung quanh. Trước khi ra trận, đoàn quân rước qua đền Mẫu. Các ông hiệu vái vọng trước cửa đền mẫu biểu trưng cho người anh hùng ra trận chào từ biệt mẹ. Nghi lễ này diễn lại tích xưa người anh hùng Gióng chào từ biệt trước khi ra trận, vừa thể hiện đạo hiếu vừa thể hiện niềm tin vững chắc vào hậu phương. Từ đây, bà mẹ luôn theo dõi từng bước đi của những đứa con. Hình ảnh rất xưa nhưng lại là hình ảnh thân thuộc đối với bất kỳ người lính nào trước khi ra trận. Ngay trong thời đại Hồ Chí Minh, hàng triệu người con đã từ biệt mẹ để ra trận và làm nên hai trận đánh thần thánh trong lịch sử hiện đại. Sau khi từ biệt mẹ, đoàn quân rầm rập tiến ra xa trường. Tiếng hò reo vang dội cả một vùng. Tới Đống Đàm, các ông hiệu triển khai trận địa đóng quân và nghỉ ngơi phút chốc sau cuộc hành quân kéo dài. Trận Đống Đàm chính là mặt trận ngoại giao trước khi đấu tranh vũ trang, đó là vừa đánh và đàm. Thể hiện khát vọng yêu chuông hòa bình của dân tộc Việt, trong bất kỳ trận đánh kinh điển nào của người Việt thì trận mở màn bao giờ cũng là trận đánh trên mặt trận ngoại giao. Trong khi các ông hiệu nghỉ ngơi thì hiệu tiểu cổ vẫn làm nhiệm vụ thể hiện tinh thần cảnh giác cao độ và nghiêm ngặt của quân cơ. Ông hổ múa vòng quanh 3 chiếc chiếu, nơi diễn ra 3 trận đánh của hiệu cờ thể hiện sự thăm dò trận địa.
Sau giay phút nghỉ ngơi, bằng ám hiệu thông báo sẵn sàng, ông hiệu tiên nghiêm đánh 3 tiếng trống khai cuộc. Hiệu Trống nổi 3 hồi, sau đó hiệu chiêng nổi 3 hồi chiêng. Khi tiếng chiêng vừa dứt, hiệu trung quân ra lệnh cho hiệu cờ xuất trận. Cờ được mở, miều bay phấp phới. Trận đánh thực sự bắt đầu Quân ta đại thắng, lại tiến quan trở về theo khúc nhạc khải hoàn. Nhưng quân giặc vẫn chưa chịu khuất phục hẳn, chúng tiếp tục tiến quân xâm chiếm nước ta và bao vây tại trận địa Soi Bia. Quân ta chiến thắng trở về đền thượng và mở tiệc khao quân Nhưng đang cuộc vui, quân báo về địch lại tiếp tục xâm chiếm. Tất cả đoàn quân lại chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Sau ba hồi trống, ba hồi Chiêng đoàn quân lại tiếp tục tiến ra trận Soi Bia. Trước khi ra trận, đội quân lại vòng qua đền Mẫu bái vọng mẹ. Các ông hiệu triển khai trận địa tại Soi Bia. Các tướng giặc bao vây hình vòng cung theo trận địa băng xà. Trận Soi Bia chính là trận Quyết định đưa đến thắng lợi cuối cùng và trở thành tấm Bia lớn cho ngàn đời sau soi vào. Sau ba hồi trống, ba hồi chiêng, hiệu trưng quân đánh trống lệnh và trận đánh bắt đầu. Quân ta đại thắng, quân giặc đầu hàng và chạy tan tác. Quân ta bắt sống được các tướng giặc và rong hai tên chánh tướng và phó tướng về đền, các tướng khác chỉ cần bái vọng và thả cho về. Tại đền thượng, diễn ra nghi lễ cởi áo khóac và tháo mũ của tướng đốc và tướng ngựa tượng trưng cho sự trừng trị hai tên đầu sỏ. Ngày mồng mười, tại đền tổ chức yến tiệc cho các gia đình tham gia ngày hội. Đối với nhà hiệu thì đây chính là lễ khao quân mừng chiến thắng. Đối với các tướng giặc thì đây thể hiện sự bao dung của người việt đối với tù binh bại trận, chu cấp lương thảo và trả về Hội Gióng là một di sản văn hóa với nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và thẩm mỹ. Hàng năm, người dân xã Phù Đổng mở hội Gióng và cùng các làng xung quanh để phát huy và gìn giữ mãi mãi di sản văn hóa ấy.