Kinh tế Nhật Bản
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên trong khi dân số quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973). Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại song Nhật Bản tiếp tục là một nước có tiềm năng lớn thứ 2 trên thế giới về kinh tế, khoa học kĩ thuật và tài chính.

- Một số số liệu về kinh tế Nhật Bản:
- Tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao là 4,7% (tháng 5 năm 2004).
- Tổng sản lượng quốc dân (GDP) năm 2003: 5.566 tỉ yen (khoảng 4.300 tỉ $), đứng thứ 2 trên thế giới, sau Mỹ 8000 tỷ $. Tỉ lệ tăng trưởng GDP năm 2001: - 0,9%. 2002: 0,6%; 2003: 2,7%.
- Tổng số nợ trong dân của chính phủ Nhật chiếm 140% GDP (khoảng 6500 tỉ USD) cao nhất trên thế giới.
- Tổng số nợ xấu khó đòi 375 tỉ $ (tính đến tháng 7 năm 2003).
- Dự trữ ngoại tệ tính đến tháng 3 năm 2004: 826,6 tỉ $, nhiều nhất thế giới.
- Xuất khẩu (3 năm 2004): 544,24 tỉ USD.
- Nhập khẩu (3 năm 2004): 431,78 tỉ USD.
- Tỉ trọng các ngành kinh tế chính:
- Nông nghiệp: 2,1% Giao thông vận tải: 6,3%
- Công nghiệp: 26,8% Lưu thông: 12,5%
- Xây dựng: 10,3% Các ngành khác: 37,9%
Sau thời kì kinh tế "bong bóng" 1986-1990, từ năm 1991 kinh tế Nhật Bản phát triển ì ạch. Trong những năm 1992-1995 tốc độ tăng trưởng hàng năm chỉ đạt 1,4%, năm 1996 là 3,2%.
Đặc biệt, từ 1997, và nhất là từ đầu 1998, kinh tế Nhật bị lâm vào suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1974 đến nay với những biểu hiện khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ, đồng Yen, chứng khoán giảm giá mạnh, nợ xấu khó đòi tăng cao, sản xuất trì trệ và tỉ lệ thất nghiệp hoàn toàn đạt con số kỷ lục trong 45 năm nay (5,5% tháng 12 năm 2002). Năm 1997, GDP thực chất - 0,7%, năm 1998 là -1,8%. Cuộc suy thoái kinh tế lần này của Nhật chủ yếu mang tính chất cơ cấu liên quan đến mô hình phát triển của Nhật đang bị thách thức với một môi trường đã thay đổi khác trước. Vấn đề phục hồi kinh tế thông qua đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế, tài chính, ngân hàng đang là một vấn đề cấp bách đặt ra trước mắt đối với chính phủ Nhật.
Nhật Bản đang xúc tiến 6 chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu chính phủ... Cải cách hành chính của Nhật được thực hiện từ tháng 1 năm 2001. Dù diễn ra chậm chạp nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ đạo, trở thành xu thế không thể đảo ngược ở Nhật Bản và gần đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế Nhật đã phục hồi và có bước tăng trưởng năm 2003 đạt trên 3%, quý I/2004 đạt 6%.
[sửa] Liên kết bên ngoài
Dưới đây là một số trang thông tin liên quan đến Nhật Bản.
- Đại Sứ Quán Nhật Bản tại Việt Nam
- Tạp Chí Nghiên Cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á
- Japanese for Vietnamese
- Từ điển trực tuyến Nhật-Việt-Anh
- Thông Tin Nhật Bản
- Văn Phòng Thủ Tướng Nhật Bản
Tiêu bản:APEC Tiêu bản:OECD Tiêu bản:WTO
![]() |
Bài này là chưa được đầy đủ lắm. Xin bạn hợp tác bằng cách viết thêm để bổ sung. (Xin tham khảo Hướng dẫn cách biên soạn bài để biết thêm chi tiết.) |