Thanh Biện

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mục lục

[sửa] Thanh Biện - Luận sư Trung quán tông

Thanh Biện (zh. qīngbiàn 清辯, sa. bhāvaviveka, bhavya, ja. shōben) là Luận sư quan trọng của tông Trung quán (sa. mādhyamika), sống khoảng giữa 490 và 570. Sư sinh tại Nam Ấn Độ, theo học giáo lí của Long Thụ (sa. nāgārjuna) tại Ma-kiệt-đà (sa. magadha). Sau đó Sư trở về quê hương và trở thành một luận sư danh tiếng. Trong các tác phẩm được dịch ra chữ Hán và chữ Tây Tạng (phần lớn của nguyên bản Phạn ngữ đã thất truyền), Duy thức tông (sa. vijñānavādin, yogācārin) là đối tượng bị Sư chỉ trích. Là người sáng lập hệ phái Trung quán-Y tự khởi (zh. 中觀依自起, sa. mādhyamika-svātantrika, cũng được gọi là Độc lập luận chứng phái 獨立論證派), một trong hai trường phái của Trung quán, Sư cũng đả kích Phật Hộ (sa. buddhapālita), người sáng lập hệ phái Trung quán-Cụ duyên (中 觀 具 緣; prāsaṅgika-mādhyamika) bằng một phương pháp suy luận biện chứng trên cơ sở nhân minh học (sa. hetuvidyā), Nhận thức học (sa. pramāṇavāda). Vào thế kỉ thứ 8, trường phái của Sư được Tịch Hộ (sa. śāntarakṣita) biến thành phái Trung quán-Duy thức (sa. mādhyamika-yogācāra).

[sửa] Tác phẩm

Các trứ tác của Sư (trích):

  1. Đại thừa chưởng trân luận (sa. mahāyānatālaratnaśāstra), Huyền Trang dịch;
  2. Bát-nhã đăng luận thích (sa. prajñāpradīpa, cũng có tên prajñāpradīpa-mūlamadhyamaka-vṛtti), Ba-la-phả Mật-đa dịch;
  3. Trung quán tâm luận tụng (sa. madhyamakahṛdayakārikā), Tạng ngữ;
  4. Trung quán tâm quang minh biện luận (sa. madhyamakahṛdayavṛttitarkajvālā), chú giải Trung quán tâm luận tụng (sa. madhyamakahṛdayakārikā), Tạng ngữ;
  5. Trung quán nhân duyên luận (sa. madhyamikapratītyasamutpāda-śāstra), Tạng ngữ;
  6. Nhập trung quán đăng luận (sa. madhyamakāvatārapradīpa), Tạng ngữ;
  7. Nhiếp trung quán nghĩa luận (sa. madhyamārtha-saṃgraha), còn bản Tạng ngữ và Phạn ngữ;
  8. Dị bộ tông tinh thích (sa. nikāyabheda-vibhaṅgavyākhyāna), chỉ còn lưu lại trong Tạng ngữ, nói về các tông phái phật giáo sau khi Phật diệt độ đến thời Thanh Biện, rất giống Dị bộ tông luân luận (sa. samayabhedavyūhacakraśāstra) của Thế Hữu (vasumitra).

[sửa] Thông Biện - Thiền sư Việt Nam

Thiền sư Việt Nam

Thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi

  • Pháp Hiền, Huệ Nghiêm, Thanh Biện
  • Định Không, La Quý An, Vô Ngại
  • Pháp Thuận, Thiền Ông, Sùng Phạm
  • Ma Ha, Pháp Bảo, Vạn Hạnh
  • Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát
  • Thuần Chân, Đạo Pháp, Huệ Sinh
  • Minh Không, Bản Tịch, Thiền Nham
  • Quảng Phúc, Khánh Hỉ, Giới Không
  • Pháp Dung, Thảo Nhất, Trí Thiền
  • Đạo Lâm, Chân Không, Tịnh Thiền
  • Diệu Nhân, Viên Học, Viên Thông,
  • Y Sơn

Thiền phái Vô Ngôn Thông

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Thiền sư Thanh Biện (?–686) là Thiền sư Việt Nam thuộc thiền phái Tì-ni-đa Lưu-chi đời thứ tư, nối pháp Thiền sư Huệ Nghiêm.

[sửa] Cơ duyên và hành trạng

Sư họ Đỗ, người hương Cổ Giao, mười hai tuổi thụ nghiệp với thiền sư Pháp Đăng, chùa Phổ Quang. Sau Sư đến trụ trì chùa Kiến Dương thuyết pháp giảng hóa cho tông đồ. Sư quy tịch năm Bính Tuất, niên hiệu Đường Thùy Củng thứ 2 (686).

Khi thiền sư Pháp Đăng sắp thị tịch, sư hỏi:

"Hòa thượng đi rồi, đệ tử sẽ nương nhờ vào ai?"

Pháp Đăng nói:

"Chỉ sùng nghiệp mới xong!"

Sư mờ mịt không hiểu ý. Sau khi Pháp Đăng tịch diệt, sư chuyên tâm trì tụng kinh Kim Cang. Một hôm, có vị Thiền khách đến thăm, hỏi sư:

"Kinh này là mẹ của các Phật tam thế, thầy hiểu mẹ Phật nghĩa là thế nào?"

Sư đáp:

"Tôi từ trước đến nay trì tụng kinh này nhưng cũng chưa hiểu ý ấy."

Khách hỏi:

"Trì tụng đã bao lâu?"

Sư đáp:

"Tám năm."

Khách nói:

"Tám năm chỉ trì tụng một kinh mà chưa hiểu ý nghĩa thì dẫu trì tụng cả trăm năm nào có công dụng gì!"

Sư bèn sụp xuống xin khách chỉ giáo. Khách bảo sư phải tìm sư Huệ Nghiêm ở chùa Sùng Nghiệp mà thỉnh vấn.

Sư tỉnh ngộ nói:

"Nay tôi mới biết hòa thượng Pháp Đăng nói đúng."

Sư bèn theo lời của vị thiền khách lên đường đi yết kiến Huệ Nghiêm. Khi đến nơi, Huệ Nghiêm hỏi:

"Ngươi đến có việc gì?"

Sư đáp:

"Đệ tử trong tâm có điều chưa ổn."

Huệ Nghiêm hỏi:

"Chưa ổn cái gì?"

Sư thuật lại đối thoại với vị thiền khách bữa trước. Huệ Nghiêm than rằng:

"Ngươi quên hết rồi! Sao ngươi không nhớ trong kinh có nói: "Các Phật tam thế cùng lối pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề đều xuất xứ ở kinh Kim Cang", thế chẳng phải là "mẹ của Phật" hay sao?"
"Quả thật đệ tử còn mê muội!"

Huệ Nghiêm lại hỏi:

"Thế kinh ấy là ai nói?"

Sư đáp:

"Chẳng phải lời thuyết pháp của Như Lai sao?"

Huệ Nghiêm nói:

"Trong kinh kinh nói "Nếu nói Như Lai thuyết pháp điều gì tức là phỉ báng Phật". Câu ấy người ta không giải thích được. Cái nghĩa ta vừa nói, ngươi nghĩ thử xem, nếu nói kinh ấy không phải là lời thuyết pháp của Phật thì thế là phỉ báng kinh; nếu nói đó đúng là lời thuyết pháp của Phật thì lại là phỉ báng Phật. Sao ngươi cứ đòi ta phải trả lời ngay?"

Sư nghĩ ngợi, định hỏi thêm, Huệ Nghiêm bèn cầm phất trần đánh vào miệng. Sư đột nhiên tỉnh ngộ.

[sửa] Nguyên bản chữ Hán

[sửa] Tham khảo

  • Lê Mạnh Thát: Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, NXB TP HCM 1999.
  • Thiền Uyển Tập Anh - Viện nghiên cứu Phật học, NXB Văn học, 1990.

[sửa] Liên kết ngoài

Ngôn ngữ khác