Phạm Tiến Duật
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phạm Tiến Duật (sinh năm 1941) là một nhà thơ Việt Nam với nhiều tác phẩm tiêu biểu viết trong thời kỳ Kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hiện nay ông là Phó trưởng ban đối ngoại Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam.
[sửa] Tiểu sử
Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 1 năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và chữ Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.
Chiến tranh kết thúc, ông trở lại với công tác của mình. Hiện nay, ông sống ở Hà Nội.
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và hội viên Hội nhà Văn Việt Nam (gia nhập năm 1970). Ông đã được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969–1970.
[sửa] Đóng góp
Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung nhưng cũng tinh nghịch và sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát để động viên tinh thần chống Mỹ.
Những tập thơ chính của nhà thơ Phạm Tiến Duật:
- Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
- Thơ một chặng đường (thơ, 1971)
- Ở hai đầu núi (thơ, 1981)
- Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)
- Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994)
- Nhóm lửa (thơ, 1996)
- Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)
[sửa] Liên kết ngoài
Dữ liệu nhân vật | |
---|---|
Tên | Phạm Tiến Duật |
Tên khác | |
Tóm tắt | Nhà thơ Việt Nam |
Lúc sinh | 14 tháng 1, 1941 |
Nơi sinh | Huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, Đại Nam |
Lúc mất | |
Nơi mất |