Thảo luận:Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bài này tôi dịch từ People's Liberation Army Navy, nguyên bản không có ghi nguồn tài liệu, nên các thông tin cần được kiểm chứng lại --Huỳnh Tường Minh 20:02, ngày 20 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Bạn không nên liên kết đến Wikipedia tiếng Anh suốt, tại vì đã có một liên kết liên wiki đến bài tiếng Anh, thì những người đọc được tiếng Anh sẽ thăm phiên bản đó. – Nguyễn Xuân Minh (thảo luận, đóng góp) 21:10, ngày 20 tháng 1 năm 2006 (UTC)
Tôi hiểu ý anh. Lý do tôi để nguyên các chữ tiếng Anh là để xài như marker, để tôi sau này tìm thêm tài liệu bổ sung cho bài, rồi đổi nó qua tiếng Việt, nhanh hơn là phải tra lại cái list tôi có. Thí dụ như muốn tìm hiểu về "Cáp Nhĩ Tân", tôi bấm vô Harbin thay vì phải dò trong cái file của tôi coi đó là thành phố nào. --Huỳnh Tường Minh 22:07, ngày 20 tháng 1 năm 2006 (UTC)

[sửa] Xin hỏi

"một số hành quân hải hành dài ngày trên biển Nam Hải năm 1984 và 1985" không rõ họ đi bao nhiêu chiếc và đi làm gì? họ có tới vịnh Thái Lan hay không? việc này có ảnh hưởng gì đến quan hệ các nước Đông Nam Á hay không? Không rõ một nước đưa bao nhiêu tàu chiến vào lãnh hải một nước thì bị xem là tuyên chiến? Có phải là 3 chiếc hay không?

Như tôi có nêu trên, bài nầy do tôi dịch từ bản Anh-Ngữ bên English Wikipedia, do đó tất cả các thông tin trong bài cần được kiểm chứng lại. Hiện tôi đang làm công việc này, và nó đòi hỏi nhiều thời gian, nên người đọc nên tạm xem như đây là cái sườn chung, từ từ ta bổ sung thêm. Riêng các cuộc hành quân của HQTQ thì có tài liệu từ nhiều nguồn, nhưng hiện tôi đang kiểm chứng, khi xong sẽ cung cấp thêm chi tiết--Huỳnh Tường Minh 12:38, ngày 24 tháng 1 năm 2006 (UTC)

[sửa] Phi đạn chứ không phải hỏa tiễn

Trong bài thấy anh Vietlong bôi xóa các từ "phi đạn" và "hỏa tiễn" và dùng từ "tên lửa" thay thế cho cả hai từ. Tôi thấy đây là cách dùng không chính xác, vì phi đạn = missile, và hỏa tiễn = rocket. Hai thứ nầy là hai loại vũ khí hoàn toàn khác nhau, có công dụng, tầm bắn, cách điều khiển, độ chính xác và tính sát thương rất khác biệt, ta không nên lẫn lộn. --Huỳnh Tường Minh 15:41, ngày 25 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Chà, sách báo trong nước đều dùng như thế cả, missile hay rocket đều dịch như nhau, thường dịch là tên lửa (đôi khi lại dịch là hỏa tiễn). Avia (thảo luận) 16:10, ngày 25 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Tôi nghĩ tránh dùng từ Hán Việt trong khi có từ thuần Việt. missile thì sách báo trong nước đều dùng là "tên lửa", còn rocket thì đôi khi phiên là "rốc-két". Vả lại hỏa = lửa, tiễn = tên, nên cũng là tên lửa. Hơn nữa cruise missile đâu có là "đạn", nó bay không theo đường đạn, ở VN dịch là "tên lửa có cánh" (theo tiếng Nga), "tên lửa hành trình" hoặc "tên lửa cru-dơ".--Nguyễn Việt Long 16:22, ngày 25 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Tôi hiểu gốc chữ tên lửa, và tôi cũng đoán là trong nước dùng không phân biệt được cái khác nhau của missile và rocket, nên anh VietLong mới đổi như vậy. Tuy nhiên, nếu người khác không phân biệt được, ở đây chúng ta cũng vẫn có thể phân biệt được và dùng cho chính xác, nhất là khi ta biết có sự khác biệt. Riêng danh từ "phi đạn", đó là cách dùng tôi đã thấy trong sách vở miền Nam, để phân biệt giữa hai loại ballistic missilecruise missile --Huỳnh Tường Minh 17:04, ngày 25 tháng 1 năm 2006 (UTC)
  • missile - a weapon that is sent through the air and that explodes when it hits the thing that it is aimed at
  • rocket - a MISSILE (= a weapon that travels through the air) that carries a bomb and is driven by a stream of burning gases
→ cả hai đều có thể dịch là tên lửa.--An Apple of Newton 17:21, ngày 25 tháng 1 năm 2006 (UTC)
en:missile en:rocket, giống và khác.- Trần Thế Trung | (thảo luận) 17:24, ngày 25 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Định nghĩa của anh Apple dùng trên hơi quá tổng quát, nếu đinh nghĩa missile như vậy (vũ khí bay qua không khí và phát nổ khi chạm mục tiêu) thì các thứ như rocket-propelled grenades (súng phóng lựu), water balloons (bong bóng có nước ở trong), paintballs (đạn chơi bắn sơn), đều có thể dịch là tên lửa, vì nó cũng có thể được định nghĩa tương tự như chữ missile mà anh đinh nghĩa ở trên như vậy. Ở đây chúng ta đang nói về vũ khí chứ không phải rocket loại phóng lên mặt trăng. Tôi xin nói lại hai thứ nầy là hai loại vũ khí hoàn toàn khác nhau, có công dụng, tầm bắn, cách điều khiển, độ chính xác và tính sát thương rất khác biệt.

Rocket một khi bắn ra là xong, không thể điều chỉnh được, khi hết nhiên liệu thì rơi xuống đất, khó bắn chính xác khi mục tiêu đang di động, và đã từng được xài từ Đệ nhị Thế chiến và trong chiến tranh Việt Nam. Còn missile là loại vũ khí tân tiến hơn, sau khi bắn ra có hệ thống hướng dẫn (guidance system), có khả năng tầm nhiệt (heat-seeking), có khả năng bay theo địa hình (terrain-hugging), có khả năng tìm diệt ra-đa (radar-seeking), có khả năng đổi hướng khi đang bay (programmable flight-path), đặc biệt loại cruise missle khi hết nhiên liệu vẫn tiếp tục bay rất xa, và có thể bắn chính xác vào các mục tiêu đang di động. Nếu hải quân Việt Nam cho rằng mấy thứ nầy cũng chỉ là tên lửa, thì vô phúc thay cho chúng ta khi gặp phải hải quân TQ. --Huỳnh Tường Minh 19:30, ngày 25 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Thế thì nên dịch theo cách hiểu của anh, một từ là tên lửa không điều khiển và một từ là tên lửa có điều khiển. Các định nghĩa trên tôi lấy từ từ điển Oxford và tôi không phải là chuyên gia quân sự. Nếu có điều kiện, tôi sẽ hỏi một phi công chiến đấu mà tôi biết.--An Apple of Newton 00:39, ngày 26 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Tôi chưa hiểu câu "Riêng danh từ "phi đạn", ... để phân biệt giữa hai loại ballistic missilecruise missile" của anh Huỳnh Tường Minh. Nếu trong trường hợp này tiếng Anh dùng missile cho cả 2 loại thì sao lại phải dùng 2 từ Việt khác nhau. ballistic missile được dịch là tên lửa đạn đạo, nay đổi là tên lửa đường đạn, cả trong "Từ điển bách khoa quân sự VN". Theo lý lẽ của anh Huỳnh Tường Minh thì hình như phải gọi ngược lại mới đúng: Rocket= phi đạn (giống đạn ở chỗ bay theo đường đạn và không điều khiển được sau khi phóng), còn missile= tên lửa (= hỏa tiễn) vì có điều khiển và bay lượn được. Ngoài ra anh cũng nhắc tới từ rocket dùng trong vũ trụ để phóng các tàu vũ trụ (phi thuyền), vậy trường hợp này dịch là gì, là phi đạn chăng?--Nguyễn Việt Long 11:45, ngày 26 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Bài này viết về lĩnh vực quân sự, nên từ rocket/phi đạn/hỏa tiễn... sẽ được dùng theo nghĩa quân sự. Trong công nghệ vũ trụ, dịch rocket có thể theo từ tiếng Việt khác, không cần phải cùng từ trong quân sự. - Trần Thế Trung | (thảo luận) 11:49, ngày 26 tháng 1 năm 2006 (UTC)

Trường hợp ballistic missilecruise missile không phải là hai loại khác nhau, mà là hai đường bay khác nhau. Ballistic missile phóng thẳng lên, sau đó sẽ có đường bay hình vòng cung rớt xuống trở lại(parabolic ballistic trajectory) giống như đạn pháo binh, tốc độ và cao độ lúc nào cũng thay đổi. Dịch ballistic là đạn đạo không đúng lắm vì có nhiều loại đạn bắn thẳng. Cruise missile hoặc phóng ngang ra (từ máy bay) hoặc phóng thẳng lên (từ chiến hạm, tàu ngầm, hay đất liền), nhưng sau đó sẽ bay bình phi (cruise trajectory) với vận tốc và cao độ không thay đổi cho đến khi gần mục tiêu. Danh từ "cruise" nếu dịch ra là "hành trình", hay "có cánh", hay là "cru-dơ" là vì chưa hiểu rõ về nghĩa của nó. Tôi thấy đề nghị của anh Apple có thể dùng để phân biệt được hai loại missilerocket, còn giữa ballisticcruise thì tôi thấy "đạn đạo" và "bình phi" có thể dùng được. --Huỳnh Tường Minh 12:59, ngày 26 tháng 1 năm 2006 (UTC)

ballistic dịch là đạn đạo là hợp lý. Cái viên đạn mà Huỳnh Tường Minh nói là bắn thẳng, nếu nó không có phản lực kiểu rocket, hay không được guided, thì nó cũng đi theo đường parabol/ellipse (quỹ đạo gần với quỹ đạo Kepler, nhưng có lực cản không khí làm méo); nó hiện ra có vẻ thẳng, nhưng nó là một đoạn của hình parabol.

- Trần Thế Trung | (thảo luận) 13:47, ngày 26 tháng 1 năm 2006 (UTC)

ballistic tôi thấy xưa nay sách báo VN (kể cả sách báo quân sự) đều dịch là đạn đạo, TQ cũng dịch như vậy. Còn "bình phi" nghe không ổn vì chưa ai dùng mà người ta dùng từ khác, đọc lên không hiểu. Chúng ta chỉ đặt từ mới khi chưa có trong tiếng Việt hoặc chưa phổ biến+sai rõ ràng. Hơn nữa những vũ khí này đã biết ở VN, ta nên theo đa số. Một tên gọi không thể thỏa mãn hết nội dung mà phải định nghĩa. Trong tay tôi có Từ điển kỹ thuật quân sự của Học viện kỹ thuật quân sự, Cục khoa học quân sự, Bộ QP, 1990 (sau này "Từ điển bách khoa quân sự VN", 1996, tái bản bổ sung 2004 dựa vào đây) thì tên lửa tự dẫn (có điều khiển) chính là missile vì nó định nghĩa: là "tên lửa có trang bị hệ thống tự dẫn,... có thể là loại phòng không, loại trên máy bay, loại trên tàu và loại chống tăng". Có một số thuật ngữ khác như: tên lửa chống tăng có điều khiển (=tự dẫn), tên lửa chống tên lửa, tên lửa chống rađa, tên lửa chiến lược, tên lửa ngư lôi, tên lửa phòng không..., nhưng không có từ "phi đạn". Theo tôi, VN hiện nay chỉ dùng thuật ngữ "tên lửa" vì vũ khí nhận của Liên Xô, do đó thuật ngữ ta theo Liên Xô (cả rocket và missile tiếng Nga là raketa), trong đó có "tên lửa có cánh".--Nguyễn Việt Long 15:10, ngày 26 tháng 1 năm 2006 (UTC)

[sửa] Tên chính thức

Theo en.wiki, tên chính thức là Trung Quốc Nhân dân Giải phóng quân Hải quân. Nguyễn Hữu Dng 18:54, ngày 01 tháng 5 năm 2006 (UTC)

Đúng, và bài này nên đổi tên thành Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Nguyễn Thanh Quang 18:58, ngày 01 tháng 5 năm 2006 (UTC)
Đồng ý. Nguyễn Hữu Dng 19:18, ngày 01 tháng 5 năm 2006 (UTC)