Thảo luận:Quân lực Việt Nam Cộng Hòa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mục lục

[sửa] Thăng cấp đại tướng cho Nguyễn Khánh

Nguyễn Khánh là trung tướng lúc lên nắm quyền; vậy ông tự phong lên đại tướng? --Avia 07:52, 15 tháng 7 2005 (UTC)

Ngày 24/11/1964, Nguyễn Khánh (cùng với Dương Văn Minh) được thăng lên đại tướng lúc Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng (từ ngày 24/10/1964).--Á Lý Sa 08:51, 15 tháng 7 2005 (UTC)
Cảm ơn anh Á Lý Sa. --Avia 04:08, 18 tháng 7 2005 (UTC)

[sửa] Danh sách các ông tướng

Danh sách này dài quá. Tôi nghĩ chỉ nên để tên vài ông tiêu biểu, còn các ông còn lại cho vào các bài như Đại tướng, Trung tướng, Thiếu tướng, Chuẩn tướng... Mekong Bluesman 06:17, ngày 27 tháng 9 năm 2005 (UTC)

[sửa] QLVNCH sau chiến tranh

Xin hỏi tại sao User:Thái Nhi lại xóa phần về các cựu quân nhân QLVNCH sau chiến tranh? Tôi nghĩ phần này đáng được nhắc đến vì nó ảnh hưởng rất nhiều người đã từng tham gia trong quân lực này. Nguyễn Hữu Dng 05:42, ngày 15 tháng 10 năm 2005 (UTC)

Có thể anh đúng! Tôi nghĩ đơn giản vì khi thay đổi chế độ thì việc đó là bình thường (thời đệ nhất CH cũng có nhiều trại cải huấn với chức năng tương tự). Hơn nữa, chi tiết này theo tôi nghĩ nên để nào bài CTVN hoặc NV thì đúng hơn, vì với QLVNCH chỉ cần chấm dứt khi nó bị giải thể là được. Thái Nhi 03:39, ngày 19 tháng 10 năm 2005 (UTC)

[sửa] Có nên chuyển bài này thành Thể loại?

Tôi thấy các bài về VNCH và QL VNCH nên chuyển thành thể loại để dễ sắp xếp (tương tự như bài Việt Nam). Không hiểu các anh có ý kiến thế nào? Thái Nhi 02:51, ngày 01 tháng 11 năm 2005 (UTC)

[sửa] Xin được bổ túc thêm chi tiết

Chào các bạn--xin phép được bổ xung thêm phần gọi là "Tiến trình phát triển Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa" (xem bên dưới) Không biết các anh nghĩ sao ? Xin cám ơn Huỳnh Tường Minh 10:36, ngày 21 tháng 10 năm 2005 (EDT)

Chào bạn, vì đây là bách khoa mở, nội dung của nó tuỳ thuộc hoàn toàn vào đóng góp của cộng đồng. Bạn có thể, và có quyền, cho vào những nội dung mà bạn thấy phù hợp. Bạn cũng nên lưu ý về Quyền tác giả, Thái độ trung lập (đối với những vấn đề nhạy cảm) và định dạng nội dung cho phù hợp với wikipedia. Thân mến, --Á Lý Sa| 15:21, ngày 21 tháng 10 năm 2005 (UTC)
Theo tôi, phần bạn Minh định bổ sung dưới đây nên viết thành bài mới Lịch sử Quân lực Việt Nam Cộng Hoà và để lại liên kết ở bài này chứ đừng đưa vào bài Quân lực VNCH làm bài trở nên loãng và dài quá khổ. Nhưng tôi thắc mắc là QL VNCH có lịch sử bắt đầu từ thời Quân đội Pháp? Vietbio 16:26, ngày 21 tháng 10 năm 2005 (UTC)

Cám ơn anh Arisa và Vietbio. Vì thấy đây là chủ đề đã có người viết, nên không dám tự tiện sửa tùm lum. Để viết thành bài mới với chủ đề như anh Vietbio đề nghị, thì Minh cần có trong tay 1 tài liệu đối chiếu rất quí giá, do Đại Tá Phạm văn Sơn (tác giả Việt Sử Tân Biên) , Trưởng Khối Quân Sử thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, biên soạn năm 1970 mang tên "Quân lực VNCH trong giai đoạn 1946-1955". Hiện Minh chưa có được sách, chỉ đọc trích dẫn nên không dám viết bài với chủ đễ như vậy. Sách đã tuyệt bản, Đại tá Sơn thì mất trong trại cải tạo K2 Tân Lập năm 1980, nên hơi kẹt. Riêng thắc mắc của anh Vietbio về QL VNCH có lịch sử bắt đầu từ thời Quân đội Pháp, thì tất cả các tài liệu Minh có, Việt và Mỹ đều xác định tương tự. Lý do là các đơn vị tân lập của VNCH đều gom vét từ các tiểu đoàn quân thuộc đia Pháp, trong đó binh sĩ không thay đổi, chỉ đổi sĩ quan Pháp thành Việt để lập nên đơn vị VN. Hầu như không có đơn vị nào có quá trình phát triển từ một nhóm vũ trang nhỏ thành một đại đơn vị như QĐNDVN. Huỳnh Tường Minh 14:32, ngày 21 tháng 10 năm 2005 (EDT)

Phần dưới, chính nó, là một bài rất thích hợp và rất tốt cho Wikipedia, theo ý tôi. Khi Huỳnh Tường Minh viết lại (thay vì sao chép từ quyển sách) thì không sợ bị vi phạm bản quyền nữa. Để tên quyển sách vào phần Nguồn tham khảo giúp cho độc giả có thể kiểm chứng và đọc thêm cũng như là một nice gesture cho tác giả của quyển sách. Một tuần sau sự bùng nổ về số thành viên, và do đó số phá hoại cũng như số bài với chất lượng kém, bài Lịch sử Quân lực Việt Nam Cộng Hòa - viết dựa theo các thông tin đầy đủ bên dưới - sẽ là một điều tốt. Mekong Bluesman 19:05, ngày 21 tháng 10 năm 2005 (UTC)
Tôi cũng vừa đọc lại thêm bên dưới và đã hiểu (theo thảo luận của Wikilover trong bài Nguyễn Văn Thiệu) là tại sao có tài liệu nói Nguyễn Văn Thiệu học trường sĩ quan tại Huế và có tài liệu nói Nguyễn Văn Thiệu học trường sĩ quan tại Đà Lạt. Mekong Bluesman 19:10, ngày 21 tháng 10 năm 2005 (UTC)



[sửa] Tôi dọn dẹp

Tôi dọn phần dưới đây vô bài mới tên là Tiến trình phát triển Quân lực Việt Nam Cộng Hòa--Huỳnh Tường Minh 00:02, ngày 22 tháng 12 năm 2005 (UTC)

Tôi cũnG dọn các cập bậc quân hàm vào bài Cấp bậc Quân hàm Lục quân và Không quân VNCH--Huỳnh Tường Minh 00:13, ngày 22 tháng 12 năm 2005 (UTC)

Tiến trình phát triển Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

[sửa] Giai đoạn tiền thân 1948-1954

Trong suốt thời gian chiếm đóng Đông Dương, quân đội Pháp có những người Việt phục vụ trong quân đội để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các quân nhân này đượt đào tạo theo quy chế Pháp và đại đa số là binh lính, hạ sĩ quan với một số rất ít sĩ quan.

  • Năm 1948, quân đội Pháp thành lập Trường Sĩ Quan Quốc Gia Việt Nam tại Huế.
  • Năm 1949, quân đội Pháp thành dời Trường Sĩ Quan Quốc Gia Việt Nam lên Đàl Lạt, và hợp lại với trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp, lấy tên là Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, đào tạo sĩ quan Việt Nam cho quân đội Pháp (sau năm 1960, trường này cải tổ chương trình huấn luyện lên đến 4 năm, và đổi tên là Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt).
  • Năm 1950, quốc hội Pháp thông qua dự luật thành lập một quân đội cho quốc gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp với quân số 60.000 người. Cùng năm 1950, Pháp thành lập Trường Sĩ quan trừ bị Thủ đức và Nam định.
  • Năm 1952, Quốc Trưởng Bảo Đại ra sắc lệnh chính thức thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam vào ngày 1 tháng 5 năm 1952, đặt trụ sở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam tại số 1 đường Galiéni (sau năm 1955 là đường Trần Hưng Đạo), Sàigòn.
  • Năm 1953 thành lập Trung Tâm Huấn Luyện Quán Tre (sau là Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung) đào tạo binh sĩ các ngành.
  • Năm 1954, quân số QLVNCH gồm khoảng 200,000 người, thuộc các binh chủng Bộ binh,Nhảy Dù, Thiết Giáp, Pháo Binh, Truyền Tin, Công Binh, Quân Vận, Không Quân, Hải Quân, với tổ chức như sau :
  • Binh Chủng Cấp Số Ghi Chú
  • Bộ binh 67 tiểu đoàn
  • Công Binh 6 đại đội
  • Không Quân 2 Phi Đoàn Quan Sát Trợ Chiến, 39 phi cơ quan sát, vận tải cơ, Morane Saulnier phi cơ Pháp, Cessna L19, C45 và C47 do Hoa Kỳ cung cấp.
  • Nhảy Dù 5 tiểu đoàn Cuối năm 1954, các tiểu đoàn này được tổ chức thành Liên Đoàn Nhảy Dù.
  • Pháo Binh 5 tiểu đoàn 150mm
  • Quân Vận 6 đại đội
  • Thiết Giáp 1 trung đoàn thám thính, 5 chi đội chiến xa biệt lập, 1 trung tâm huấn luyện
  • Truyền Tin 6 đại đội
  • Hải Quân 3 Hải Đoàn Xung Phong, 3 Liên Đoàn Tuần Giang, 1 lực lượng biệt kích không rõ quân số trang bị hai loại trung vận đĩnh (LCM—Landing Craft Medium) và tiểu vận đĩnh (LCVP—Landing Craft Vehicle And Personnel) do Hoa Kỳ cung cấp năm 1950. Lực lượng biệt kích nầy sau hiệp Đinh Geneva, dời vào Nam đổi tên là Hải Quân Bộ Binh, và là tiền thân của Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến sau này).


[sửa] Giai đoạn Đệ Nhất Cộng Hòa 1955-1963

  • Năm 1955, sau khi Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa, và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam từ nay cải tên là Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Cùng năm 1955, Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM) không còn tùy thuộc hệ thống chỉ huy Pháp
  • Năm 1955, binh chủng Không Quân. tiếp nhận căn cứ Nha Trang và đổi tên thành Căn Cứ Trợ Lực Không Quân số 1. Cùng Năm 1955, Pháo Binh (PB) thành lập thêm các tiểu đoàn 6, 12, 32, 34 PB
  • Năm 1955, quân chủng Hải Quân được trang bị 24 chiến hạm, hơn 110 chiến đỉnh, tổ chức thành 5 Hải Đoàn và 1 Hải Lực.
  • Năm 1956, , Bộ Tổng Tham Mưu dời vào trại Trần Hưng Đạo, gần cổng vào phi trường Tân Sơn Nhất. và bắt đầu cải tiến toàn bộ cơ cấu tổ chức. Các tiểu đoàn bộ binh được tổ chức lại thành 4 Sư Đoàn Dã Chiến (1, 2, 3, 4) và 6 Sư Đoàn Khinh Chiến (11, 12, 13, 14, 15, 16). Mồi Sư Đoàn khoảng hơn 5.000 người. Pháo Binh thêm tiểu đoàn 23, 25, 34. Tiểu Đoàn 34 PB là đơn vị đầu tiên được trang bị đại bác 155 mm. Cùng năm 1956, mỗi Sư Đoàn Bộ Binh được trang bị thêm 2 tiểu đoàn pháo binh với 18 khẩu 105mm.
  • Năm 1956, binh chủng Không Quân tiếp nhận thêm căn cứ Tân Sơn Nhất và căn cứ Biên Hòa. Cả hai đổi thành Căn Cứ Trợ Lực Không Quân số 2 và số 3.
  • Năm 1956 Hải Quân bắt đầu tiếp nhận tàu chiến từ Hải Quân Hoa Kỳ gồm 31 chiến hạm với 193 chiến đỉnh, đến 1963 mới chấm dứt
  • Năm 1957 thành lập binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt, huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan tại Trường Biệt Ðộng Ðội ở Ðồng Ðế, và đơn vị đầu tiên mang tên Liên Ðội Quan Sát Số 1 (LÐQSS1)
  • Năm 1958, quân số Không Quân tăng lên thành 7 phi đoàn, gồm: 1 phi đoàn khu trục, 2 phi đoàn liên lạc, 2 phi đoàn vận tải, 1 phi đoàn trực thăng, và 1 phi đoàn đặc vụ.
  • Năm 1959, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, II, IV, IV, được thành lập với trách nhiệm an ninh lãnh thổ như sau: Quân Đoàn I: các tỉnh miền Trung (Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng nam, Quảng Ngãi v.v.), Quân Đoàn II: các tỉnh cao nguyên và nam Trung Phần (Komtum, Gia Lai, Bìnhl Định v.v.) Quân Đoàn III: các tỉnh miền Đông Nam Phần và Sàigòn: (Tây ninh, Bình Long, Định Tường, v.v.) Quân Đoàn IV: các tỉnh miền Tây Nam Phần (Hậu Giang, Phong Dinh, An Giang v.v)
  • Cùng năm 1959, các sư đoàn khinh binh và dã chiến binh được tổ chức lại thành 7 Sư Đoàn Bộ Binh(BB) , gồm Sư Đoàn 1 BB, Sư Đoàn 2 BB, Sư Đoàn 5, Sư Đoàn 7, Sư Đoàn 21, Sư Đoàn 22, Sư Đoàn 23. Quân số mỗi sư đoàn là 10.500 người. Sau đó, Sư đoàn 9, Sư Đoàn 18, và Sư Đoàn 25 được thành lập.
  • Năm 1959, Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến tách ra khỏi Hải Quân và trở thành lực lượng tổng trừ bị.
  • Năm 1960 Binh chủng Biệt Động Quân. (BĐQ) được thành lập với 50 đại đội và bắt đầu hoạt động sâu trong vùng kiểm soát của MTGPMNVN.
  • Năm 1961, Binh Chủng LLĐB cho LÐQSS1 đổi danh thành Liên Ðoàn 77 Lưc Lượng Đặc Biệt. Cùng năm 1961, Không Quân được trang bị nhiều loại phi cơ, nhất là khu trục cơ AD6, trực thăngchiến đấu H34.
  • Năm 1962, Liên Đoàn Nhảy Dù gồm các Tiểu Đoàn Nhảy Dù thuộc địa của Pháp được phát triển thành Lữ Đoàn Nhảy Dù gồm 7 Tiểu Đoàn Nhảy Dù 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Liên Đoàn 31 LLĐB được thành lập

Năm 1962, các Đơn vị Không Quân tác chiến và yểm trợ tác chiến được tăng lên cấp Không Đoàn tại mỗi Quân Đoàn, với các Không Đoàn như sau

  • Đơn vị Căn Cứ
  • Không Đoàn 41 Đà Nẳng
  • Không Đoàn 62 Plei Ku
  • Không Đoàn 23 Biên Hòa
  • Không Đoàn 33 Tân Sơn Nhất
  • Không Đoàn 74 Và Cần Thơ

[sửa] Giai đoạn Đệ nhị Cộng Hòa 1963-1975

  • Năm 1963, Binh chủng Thiết Giáp (TG) được trang bị thiết vận xa M113 và M114, 4 Trung Đoàn Kỵ Binh TG với thám thính xa M8, chiến xa M24, và 1 Liên Đoàn Thủy Xa.
  • Năm 1963 Binh chủng Biệt Động Quân tăng quân số lên đến 86 đại đội, và thành lập thêm các bộ chỉ huy tiểu đoàn bên cạnh các Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn/Vùng Chiến Thuật, với các phiên hiệu 11, 21, 22, 31, 32, 33, và 41.
  • Năm 1964 Binh chủng Hải Quân tiếp nhận tàu chiến từ Hải Quân Hoa Kỳ gồm 9 chiến hạm laọi lớn và hằng trăm ghe fiberglass gắn máy Yabuta thay ghe buồm của lực lượng Hải Thuyền. Đến 1967 đợt trang bị nầy mới kết thúc
  • Năm 1964, Binh chủng Thiết Giáp được tân trang chiến xa M41 thay thế chiến xa M24, và thám thính xa V100 thay thế thám thính xa M8. Cùng năm 1964 Liên Đòan 77 Lưc Lượng Đặc Biệt đổi danh thành Liên Đoàn 301 LLĐB
  • Năm 1965 BTTM giải tán Liên Đoàn 301 và 31 LLĐB, để sắp xếp lại và chính thức gọi là binh chủng LLÐB, gồm một Bộ Tư Lệnh LLĐB, một đại đội Tổng Hành Dinh, một trung tâm huấn luyện, và 4 bộ chỉ huy (C) ở 4 quân khu. Mỗi C có một số B và mỗi B có một số toán A quân số vào khoảng 12 người. Tổng cộng quân số LLÐB vào khoảng 5.000 trong thời điểm này
  • Năm 1965 Lữ Đoàn Nhảy Dù phát triển thành Sư Đoàn Nhảy Dù Dù gồm 3 Lữ Đoàn (1, 2,3) và 9 Tiểu Đoàn (1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 11). Mỗi Lữ Đoàn được trang bị thêm 1 tiểu đoàn pháo binh với đại bác nhẹ 105mm (TĐ1, 2 và 3 PB Nhảy Dù). Mỗi Tiểu Đoàn Nhảy Dù được trang bị thêm 1 đại đội vũ khí nặng gồm cối 60mm, súng không giật SKG 90mm, và trung liên M60. Các cá nhân được trang bị súng tự động AR-15, (tiền than súng M-16). Thời điểm này các đơn vị Dù bắt đầu chuyển quân theo chiến thuật trực thăng vận của Hoa Kỳ, ít còn nhảy nù bọc gió loại cổ điển vào vùng chiến thuật.
  • Năm 1967 Không Quân được 1 phi đoàn khu trục trang bị phản lực cơ F5. Phiên hiệu của các đơn vị Không Quân được cải tổ, xếp thành 3 số. Theo đó, số hàng trăm để chỉ công dụng của đơn vị, như: Số 1 là phi đoàn liên lạc, số 2 là trực thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số 5 là khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là hỏa long, và số 9 là huấn luyện.


  • Năm 1968, sau Tổng Công Kích Mậu Thân, Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng chương trình tối tân hoá quân dụng. Đầu tiên là lực lượng tổng trừ bị, dần dần đến toàn bộ chủ lực quân được tân trang quân trang quân dụng, súng M-16.
  • Năm 1973 Sau Hiệp Định Paris Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng chương trình "Việt Nam Hóa Chiến Tranh", rút quân ra khỏi việt Nam và bàn giao tòan bộ quân dụng lại cho QLVNCH, chủ yếu nằm tiếp tục phát triển Hải Quân, Không Quân, Pháo Binh và Thiết Giáp. Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cung cấp đạn dược vũ khí, nhưng bắt đầu tài khóa 1974-1975, nguồn viện trợ cạn dần và đến đầu năm 1975 thì đi dến tình trạng thiếu hụt trầm trọng
  • Năm 1975, toàn bộ QLVNCH gồm có 1 triệu quân, gần 2 triệu súng cầm tay, 1.200 chiến xa và thiết vận xa, kể cả chiến xa M48 loại mới nhất của Hoa kỳ, hơn 1.000 khẩu đại bác từ 105mm xe kéo đến 175mm cơ động, 40.000 xe vận tải, 1.600 chiến hạm chiến đỉnh, và hơn 2.000 phi cơ và trực thăng.
  • Đầu năm 1975, ngoài Bộ Tổng Tham Mưu với các cơ quan, binh chủng, và binh sở trong hệ thống quản trị (hành chánh, nhân viên, huấn luyện, chiến tranh chính trị, tiếp vận), QLVNCH còn có các đơn vị yễm trợ tác chiến gồm 4 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các đơn vị yểm trợ trực thuộc. Các đơn vị trực tiếp tác chiến gồm
  • Lục Quân: 11 Sư Đoàn Bộ Binh, 1 Sư Đoàn Nhảy Dù. 1 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. 1 Liên Đoàn Biệt Cách Nhảy Dù, 21 Liên Đoàn Biệt Động Quân, 4 Lữ Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp, Lực Lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ Thuật, các đơn vị Pháo Binh biệt lập,và lực lượng Địa Phương Quân Nghĩa Quân hơn 500.00 quân
  • Không Quân. Quân số 60.000, gồm: 1 Bộ Tư Lệnh Quân Chủng với đầy đủ các cơ quan và binh sở yểm trợ. , 5 Sư Đoàn Không Quân tác chiến (20 phi đoàn khu trục cơ , trang bị khoảng 550 phi cơ A1H, A37, và F5, 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1000 phi cơ UH1 và CH47, 8 phi đoàn quan sát, trang bị khoảng 200 phi cơ O1, O2, và U17), 1 Sư Đoàn vận tải (9 phi đoàn vận tải, trang bị khoảng 150 phi cơ. C7, C47, C119, và C130) , 1 Không Đoàn Tân Trang Chế Tạo, 4 phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC119, AC130 Spectre Gunship Ngoài ra còn có các Phi Đoàn Trắc Giác (tình báo kỹ thuật), Phi Đoàn Quan Sát RC119L, và Biệt Đoàn Đặc Vụ 314.
  • Hải Quân. Quân số hơn 40.000, ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh, nhân viên, huấn luyện, tiếp vận (có Hải Quân Công Xưởng), gồm 3 lực lượng tác chiến: (1) Hành Quân Lưu Động Sông, với 14 Giang Đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh.(2) Hành Quân Lưu Động biển với 1 Hạm Đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm, và giang vận hạm. (3)các Lực Lượng Đặc Nhiệm 211 Thủy Bộ với 6 Giang Đoàn, 212 Tuần Thám với 12 Giang Đoàn, 214 Trung Ương với 6 Giang Đoàn, và Liên Đoàn Người Nhái.

[sửa] Giai đoạn sụp đổ 3/1975-4/1975

  • Tháng 3 1975, sau khi Phước Long và Ban Mê Thuộc thất thủ, tổng thống VNCH Nguyễn văn Thiệu ra lệnh tái phối trí, rút bỏ quân Khu I và II, dồn toàn quân về Quân Khu III và IV chống giữ. Cuộc rút quân tái phối trí hòan tòan thất bại, ông Thiệu từ chức, các Tướng tá tháo chạy, và trong vòng 55 ngày, toàn bộ QLVNCH tan rã, không vì giao tranh mà vì suy sụp tinh thần và không còn lãnh đạo.
  • Trận giao tranh cuối cùng của QLVNCH ngoài vòng đai Sàigòn xảy ra tại Xuân Lộc, do Sư Đoàn 18 BB, dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, dưới sự chỉ huy của Trung tá Nguyễn văn Đỉnh
  • Trận giao tranh cuối cùng của QLVNCH trong thành phố Sàigòn xảy ra tại bản doanh Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, do Liên Đoàn 18 Biệt Kích Dù , dưới sự chỉ huy của chỉ huy trưởng BCH 3 Chiến Thuật, Thiếu tá Phạm Châu Tài.
  • Lưc Lượng tan hàng sau cùng của QLVNCH là Liên Đoàn 18 Biệt Kích Dù , dưới sự chỉ huy của chỉ huy trưởng Liên Đoàn 18 Biệt Kích Dù , Đại tá Phan văn Huấn


[sửa] Tham Khảo

  • “Lịch sử Chiến-tranh Việt-Nam, từ trận đầu Ấp Bắc (1963) đến Sàigòn (1975)” Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương, nxb Làng Văn 2000
  • “The RVANF “ Lt. General Dong Van Khuyen , U.S. Army Center of Military History, Washington, D.C. - Indochina Monograph Series, 1984
  • “RVANF Logistics” Lt. General Dong Van Khuyen , U.S. Army Center of Military History, Washington, D.C. - Indochina Monograph Series, 1984
  • “Territorial Forces”(1984) Lt. General Ngo Quang Truong, , U.S. Army Center of Military History, Washington, D.C. , Indochina Monograph Series, 1984
  • “RVANF and US Operational Cooperational Coordination”(1984) Lt. General Ngo Quang Truong, , U.S. Army Center of Military History, Indochina Monograph Series, Washington, D.C. 1984
  • “LAM SON 719” Maj. Gen. Nguyen Duy Hinh , U.S. Army Center of Military History, Indochina Monograph Series, Washington, D.C. Reprint 1984


Xin có ý kiến nhỏ _______________________________________________________________

Trước hết xin gửi lời trân trọng đến anh Minh về bài biết rất nghiêm túc Thứ hai: theo thiển ý, ở giai đoạn 1945_1954: có nên sửa đổi "giai đoạn hình thành" thành "giai đoạn tiền thân " hay không? Bởi lẻ: _ Giai đoạn này Việt Nam chưa phải là chế độ cộng hòa. _ Hơn nữa nhìn về mặt tổng thể thì lực lượng quân đội quốc gia ở triều đình Bảo Đại đã tương đối chính qui rồi. _ Chế độ cộng hòa đệ nhất chỉ đổi tên và phát triển Thứ 3: Để thấy rõ ràng hơn bố cục của phát triển lực lượng quân đội thì nên tách ra thành hai giai nữa : lực lượng quân đội ở chế độ cộng hòa đệ nhất, và lực lượng quân đội ở chế độ cộng hòa đệ nhị.

Còn một vấn đề nữa cũng nên đề cập và bàn luận đó là: ngoài cuộc chiến Việt Nam ra, lực lượng Việt Nam cọng hòa còn phải đối phó với tụi chó Tàu ở các hòn đảo Trường sa và Hoàng sa. Qua đó cũng muốn nói thêm trong bài viết về nước Việt Nam nên đưa tên các hòn đảo này vào cực đông nam

Thân ái Wikilover 17:21, ngày 21 tháng 10 năm 2005 (UTC)


Cám Ơn anh Wikilover, đã thay đổi như anh đề nghị, riêng việc Hoàng Sa Trường Sa mình không có đủ tài liệu đối chiếu (chỉ có tài liệu VNCH & US), vẫn tìm kiếm thêm tài liệu phía Trung Quốc hay CHXHCNVN, nhưng chưa có. Thành_viên:Huỳnh Tường Minh 14:10, ngày 21 tháng 10 năm 2005 (EDT)

[sửa] Quân Hàm

Quân đội Việt Nam Cộng Hoà không dùng từ quân hàm để chỉ cấp bậc các quân nhân. Vậy chúng ta có nên thay chử quân hàm bằng cấp bậc ? --Ttdb 09:33, ngày 01 tháng 2 năm 2006 (UTC)

Tôi đồng ý với đề nghị của anh Ttdb. Sẽ thay thế bằng từ "cấp bậc" --Huỳnh Tường Minh 18:51, ngày 01 tháng 2 năm 2006 (UTC)

"Quân hàm" là Hán-Việt và "cấp bậc" là "thuần Việt" hơn, đúng hay sai? Mekong Bluesman 19:34, ngày 01 tháng 2 năm 2006 (UTC)

"Quân hàm" (军衔) là Hán-Việt, "cấp bậc" lấy từ chữ "cấp" (H-V: 級) và "bậc" (Việt - cùng nghĩa), giống "mùi vị". Nguyễn Hữu Dng 19:47, ngày 01 tháng 2 năm 2006 (UTC)

"Cấp" và "bậc" thì cùng nghĩa, còn "mùi" và "vị" khác nhau mà. 1 cái là smell, cái kia là taste. Avia (thảo luận) 04:11, ngày 03 tháng 2 năm 2006 (UTC)