Văn hóa Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Văn hoá Việt Nam là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất trong vùng Châu Á Thái Bình Dương, gồm nhiều truyền thống và phong tục. Văn hóa Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao về một số thành tựu. Mặc dù về mặt địa lý Việt Nam nằm trải dài trên vùng Đông Nam Á, các truyền thống và nguồn gốc dân tộc của nó có nguồn gốc từ Đông Á.Có những thuyết khác cho rằng, những ảnh hưởng Trung Hoa của văn hóa Việt Nam chỉ là ảnh hưởng sau khi bị đô hộ, không phải là nền tảng.

Một cách khái quát, văn hóa Việt Nam là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Trung Hoa, đạo Phật, ảnh hưởng một phần văn hóa Chăm, Nga, Mỹ, Pháp.

Các nhà nghiên cứu chấp nhận Việt Nam có các nền văn minh sau: nền văn minh sông Hồng (mà sau này phát triển thành nền văn minh Đại Việt), nền văn minh Champa, nền văn minh Phù Nam. Ngoài ra còn có các nền văn hóa khác trong nhiều thời kỳ như: văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Đậu...

Mục lục

[sửa] Đất nước

Dân số Việt Nam năm 2003 là 83.666.356, mật độ dân số 987 người trên km vuông (665 dặm vuông). Đa số dân cư sống trong hoặc gần khu vực các châu thổ Sông Hồng và Sông Cửu Long đông đúc.

[sửa] Văn hoá

[sửa] Văn hóa nhận thức

[sửa] Văn hóa tổ chức cộng đồng

Cộng đồng người Việt được tổ chức theo các đơn vị cơ bản là làng. Làng là một tổ chức khá khép kín. Làng thường có đình làng là nơi thờ cúng các vị thành hoàng và hội họp dân làng, nơi tổ chức các lễ hội quan trọng. Làng được bao bọc bởi lũy tre làng và có cổng làng, trong làng còn có cây đa, có thể có chùa. Những người đứng đầu làng được mọi người tôn kính, thường là những người già cả, người có tiền. Làng thường có những luật tục. Làng biểu hiện tất cả những nét tốt đẹp cũng như không hay của văn hóa Việt Nam thời phong kiến.

Đơn vị xã hội nhỏ hơn làng là các gia đình. Khác với người phương Tây, gia đình ở Việt Nam được hiểu là một gia đình lớn, gồm có nhiều thế hệ có quan hệ máu mủ ruột thịt cùng chung sống. Gia đình được tổ chức theo thứ bậc chặt chẽ, người dưới phải có hiếu và kính trọng người trên, người trên có nghĩa vụ phải chăm lo dạy dỗ con cháu nên người.

[sửa] Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên

Vì nền tảng văn hóa là nông nghiệp nên người Việt có quan niệm ứng xử hài hòa với thiên nhiên. Kinh thành Huế được xây dựng theo quan niệm hòa hợp với cảnh quan xung quanh.

Người Việt có hiểu viết lớn về thiên nhiên, đặc biệt là về điều kiện tự nhiên thích hợp cho nông nghiệp. Người Việt có nhiều kinh nghiệm trong việc chống chọi với thiên nhiên để phát triển nông nghiệp, điển hình là đắp đê phòng lũ lụt được phản ánh rõ nét trong truyện cổ tích "Sơn Tinh, Thủy Tinh".


Trong bất cứ một môi trường nào, con người đều chịu ảnh hưởng,chi phối bởi điều kiện tự nhiên, môi trường sống và điều kiện sinh hoạt Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đó, con người không thể chống lại nó, cải tạo nó một cách thuần thuc mà phải thích nghi vớ môi trường sống để điều hòa nhịp sống của mình Với môi trường tự nhiên, không chỉ con người Việt Nam, mà hầu như tất cả các cộng đồng dân tộc quốc gia trên thế giới đều phải tìm hiểu, lựa chọn thích nghi để tồn tại. Và quá trình đó đã nảy sinh những yếu tó văn hóa mà ta gọi là " văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên". Và những yếu tố văn hóa đó đã thể hiện rất rõ trong sinh hoạt của con người

- Đó là việc con người đã sử dụng những sản phẩm của tự nhiên như : tre nứa, gỗ lạt, mây tre măng trúc để làm nhà, thức ăn, thức uống khai thác ở sông suối, đánh bắt ở biển để chế biến thức ăn trong bữa ăn. Đặc biệt, có những sản vật nổitiếng được chế biến từ ca, tôm canh cua....
- Trong kiến trúc nàh cửa: con người đã biết nhắm hướng nhà, hướng đất, trách hướng gió độc, đón lấy hướng mắt trời, hay xây dựng nhà cửa gần sông suối để tiện nước sinh hoạt, trồng trọt
Một điểm đăc biệt trong kiến trúc nhà cửa, là các kiến trúc đềuthuận theo thuật phong thủy. Đó là sự hài hòa giữa thế đất, thế núi, nguồn nước...Điều này thể hiện rất rõ trong kiến trúc kinh thành như thành Thăng Long, thành nhà Hồ, kinh thành Huế...hay trong thuyết tam tài của người dân là : "thiên - địa - nhân"

Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của con người còn được thể hiện trong cách ăn mặc của người dân. Đó là cách ứng xử mùa nào thức nấy, mùa hè mặc chất liệu vải mát, mùa đông màu áo chất liệu vải giữ nhiệt...

Hay trong kinh nghiệm sản xuất, trị thủy. Dự báo thời tiết, mùa nào thì nên trồng cây nào cho thích hợp ...

Tuy nhiên, hiện nay, do môi trường cơ chế thị trường, con người đã xâm hại tự nhiên quá lớn, để rồi tự nhận lãnh hậu quả là những trận lũ lụt khủng khiếp, động đát, sóng thần... Vì thế, để được thiên nhiên giúp đỡ, mọi người hãy tự nhận thức sự cần thiết của môi trường tự nhiên, hãy bảo vệ và xây dựng để môi trtường ngày càng tốt đẹp hơn

[sửa] Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội

Người Việt Nam ngay từ nhỏ đã được dạy dỗ theo các chuẩn mực đạo đức của dân tộc và của đạo Khổng, trong đó chú trọng việc tu thân dưỡng tính, lấy chữ Nhân làm trọng, kính trên nhường dưới, luôn rèn luyện để có thể cống hiến thật nhiều cho đất nước và chăm lo cho gia đình. Đến thời hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng các quan điểm đạo đức xa xưa lên một tầm cao mới, với các lời căn dặn như: "Trung với nước, hiếu với dân" (ngày xưa là "Trung quân ái quốc").

Người Việt Nam có tinh thần "tôn sư trọng đạo". Người Việt xem cha mẹ có công sinh thành ra mình, còn thầy cô có công dưỡng dục mình nên người: "Mùng một Tết cha, mùng hai Tết chú, mồng ba Tết thầy". Những nghề nghiệp được tôn phong bằng chữ "sư" (thầy) là những nghề nghiệp được người Việt tôn kính: võ sư, thầy thuốc...Việt Nam có Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11.

Việt Nam thời phong kiến "trọng nam khinh nữ", điều này gây nhiều bất hạnh cho người phụ nữ. Phụ nữ phải thực hiện "tam tòng tứ đức". Sau khi lập nước năm 1945, Chính phủ công nhận chính thức quyền bình đẳng nam nữ. Hồ Chí Minh viết tặng chị em phụ nữ 8 chữ vàng "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".

[sửa] Xã hội

  • Nông nghiệp

Khoảng 74% người Việt Nam hiện sống tại các vùng nông nghiệp, và mặc dầu nhiều vùng đang bị ảnh hưởng bởi quá trình toàn cầu hoá, các phong tục nông nghiệp và các truyền thống hiện vẫn đóng một vai trò mạnh mẽ trong việc hình thành văn hóa Việt Nam. Trên tổng số dân 83,535,576 sẽ có 66,828,460 người sống ở các vùng nông nghiệp và 16,707,115 người sống ở các vùng đô thị.

  • Tổ chức

Nói về các thuật ngữ phản ánh các mức độ tổ chức xã hội, hai đơn vị quan trọng nhất là làngnước. Người Việt thường nói rằng làng liên quan chặt chẽ với nước. Các đơn vị tổ chức trung gian như huyệntỉnh không có nhiều tầm quan trọng.

[sửa] Trong quá khứ

  • Vương quyền

Ở nước Việt Nam nông nghiệp, vương quyền đóng một vai trò quan trọng. Nếu có thể nói rằng các nền văn hóa Phương Tây coi trọng chủ nghĩa cá nhân, thì cũng có thể nói rằng các nền văn hóa Phương Đông coi trọng những vai trò gia đình và dòng họ. So sánh với văn hóa Phương Tây, văn hóa Trung Quốc đề cao gia đình hơn dòng họ trong khi văn hóa Việt Nam đề cao dòng họ hơn gia đình. Mỗi dòng họ có một trưởng họ, nhà thờ họ và những ngày giỗ họ.

Đa số dân cư có liên hệ với nhau về huyết thống. Sự thực này hiện vẫn còn có thể bắt gặp trong những tên làng ví dụ Đặng Xá (làng của người họ Đặng), Châu Xá, Lê Xá, vân vân. Ở Tây Nguyên truyền thống nhiều gia đình thuộc một họ ở chung với nhau trong những ngôi nhà dài hiện vẫn phổ biến. Ở đa số các vùng nông nghiệp hiện nay ở Việt Nam vẫn còn thấy ba tới bốn thế hệ sống dưới cùng mái nhà.

Bởi vì vương quyền đóng vai trò quan trọng trong xã hội nên có một hệ thống quan hệ thứ bậc rất phức tạp. Trong xã hội Việt Nam, có chín kiểu quan hệ họ hàng gần xa riêng biệt (cửu tộc).

Hầu như mọi ngày giỗ và các ngày lễ bên trong một họ đều tuân thủ các nguyên tắc thế hệ. Những người trẻ tuổi có thể có vị trí cao hơn theo cấp bậc triều đình so với người lớn tuổi nhưng vẫn phải tôn trọng người lớn tuổi kia.

  • Địa lý
  • Nghề nghiệp
  • Gia trưởng
  • Hành chính

[sửa] Ở thời hiện đại

[sửa] Ẩm thực

(Xem Ẩm thực Việt Nam)

Ẩm thực Việt Nam dựa chủ yếu trên gạo, tương và nước mắm. Mùi vị đặc trưng của nó là ngọt, cay, và rất nhiều loại rau thơm khác.

Món ăn cơ bản trên mâm cơm hằng ngày là: canh, mặn và món xào.

Việt Nam cũng có nhiều kiểu mì. Các vùng khác nhau sáng tạo ra các kiểu mì khác nhau, về hình dạng, mùi vị, màu sắc vân vân. Một trong những món mì nổi tiếng nhất là Phở, gồm các sợi bánh phở và nước dùng, thịt bò, thịt gà. Món này có nguồn gốc từ miền bắc Việt Nam.

Miền trung Việt Nam cũng nổi tiếng với nhiều món ẩm thực ngon miệng và có những hương vị rất riêng.

[sửa] Trang phục

Trang phục Việt Nam cũng rất đa dạng. Mỗi nhóm dân tộc ở Việt Nam có kiểu trang phục riêng của mình. Các lễ hội là dịp để mặc những bộ quần áo ưng ý nhất. Trong số những dân tộc lớn ở Việt Nam, những người nông dân miền bắc theo truyền thống mặc áo cánh nâu và quần trắng. Ở miền nam, nông dân thường mặc những bộ đồ kiểu pijama mầu đen. Khăn trùm đầu của họ là một mảnh vải đơn giản quấn quanh đầu và đồ đi dưới chân chỉ là một đôi guốc. Những dịp trọng đại đàn ông mặc hai thứ đồ truyền thống là áo dài có xẻ hai bên, và một khăn xếp, thường màu đen hay xám và được làm bằng vải bông hay tơ tằm. Ở thời phong kiến, có những quy định khắt khe về cách ăn mặc. Dân thường không được phép mặc đồ nhuộm bất kỳ màu gì ngoài đen, nâu hay trắng. Chỉ riêng nhà vua được quyền mặc đồ màu vàng, quan lại mặc đồ đỏ hay màu tía. Trong đời sống hàng ngày, kiểu ăn mặc truyền thống viên nay hiện đã theo phong cách phương tây. Trang phục truyền thống chỉ được mặc trong những dịp đặc biệt. Phụ nữ có thể không mặc váy và cả hai giới hiếm khi mặc các loại quần sóc.

Trang phục phụ nữ truyền thống Việt Nam là "Áo Dài" thường được mặc trong những dịp đặc biệt như cưới xin, tang tế vân vân. Kiểu trang phục này tương tự với cái Xường xám (qipao) Trung Quốc. Về kiểu dáng, nó rất trang nhã và dễ mặc. Áo dài đã trở thành bắt buộc tại nhiều trường cấp ba Việt Nam. Các giáo viên nữ mặc Áo Dài mọi buổi lên lớp. Một số nữ nhân viên văn phòng như tiếp tân, thư ký, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc Áo dài khi làm việc. Vì sự phổ biến của nó, áo dài đã trở thành biểu tượng quốc gia, đại diện cho các giá trị văn hóa Việt Nam.

Trang phục truyền thống phổ biến khác còn được biết đến là áo tứ thân.

[sửa] Tôn giáo

Tôn giáo chủ yếu ở Việt Nam là Tam Giáo đặc trưng bởi sự phức tạp pha trộn tôn giáo ở vùng Đông Á giữa Phật giáo đại thừa, Khổng giáo, và Đạo giáo là các tôn giáo ngoại nhập. Ngoài các tôn giáo trên, còn có hai tôn giáo Cao ĐàiHoà Hảo- là các tôn giáo nội sinh. Các cộng đồng thiểu số Thiên chúa giáo chiếm khoảng 8% và đa số theo Thiên chúa giáo La Mã, nhưng có một thiểu số nhỏ gồm những nhóm Tin Lành mới về sau này. Những nhà thờ Tin lành lớn nhất là Nhà thờ phúc âm Việt Nam và Nhà thờ phúc âm Degar.

Một tập hợp lẫn lộn dòng Hồi giáo Sunni và Hồi giáo Bashi đã bản địa hóa cũng được thi hành tín ngưỡng phần lớn bên trong dân tộc thiểu số Chàm, nhưng cũng có một số người thiểu số Việt Nam theo Đạo Hồi ở phía tây nam.

[sửa] Những ngày lễ và ngày quan trọng khác

Những ngày lễ công cộng
Ngày Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt Ghi chú
1 tháng 1 New Year's Tết dương lịch
Giữa cuối tháng 1 và cuối tháng 2 Tết (Chinese New Year) Tết Nguyên Đán Ngày lễ lớn nhất trong năm, chính thức là ba ngày đầu tiên năm mới âm lịch, nhưng những ngày lễ kéo dài hàng tuần trước và sau đó
30 tháng 4 Liberation Day Ngày giải phóng miền nam Giải phóng Sài Gòn và thống nhất năm 1975
1 tháng 5 Labour Day Ngày Quốc tế Lao động
2 tháng 9 National Day Quốc khánh Ho Chi Minh đọc tuyên ngôn độc lập năm 1945
Các ngày lễ khác
Ngày Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt
8 tháng 3 International Women's Day Quốc tế Phụ nữ
20 tháng 11 Teacher's Day Ngày Nhà giáo Việt Nam
25 tháng 12 Christmas Giáng sinh/Nôen
15/1 (lịch âm) Full moon of the 1st month Rằm tháng giêng
15/4 (lịch âm) Buddha's Birthday Lễ Phật đản
5/5 (lịch âm) Midyear Festival Tết Đoan ngọ
15/7 (lịch âm) Full moon of the 7th month Rằm tháng bảy
15/8 (lịch âm) Mid-Autumn Festival Tết Trung thu
23/12 (lịch âm) Kitchen guardians Ông Táo chầu trời

[sửa] Truyền thông

Lĩnh vực truyền thông ở Việt Nam thụt lùi xa phía sau các nước Đông Nam Á khác, từ năm 1991 Hà Nội đã có những cố gắng lớn nhằm nâng cấp hệ thống.

Tất cả các trạm truyền thông ở các tỉnh đã được số hoá, và những hệ thống truyền tín hiệu cáp quang cũng như vi ba đã được mở rộng từ Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh tới tất cả các tỉnh. Mật độ điện thoại đã tăng gấp đôi trên toàn quốc từ 1993 đến 1995, nhưng vẫn còn thấp so với các quốc gia trong vùng.

Việt Nam có hai vệ tinh Intersputnik (Vùng biển Ấn Độ). Tới năm 1999 có 65 MW (AM), 29 SW (sóng ngắn) và 7 FM trạm sóng radio trên toàn quốc. Có 8.2 triệu thiết bị thu sóng radio (1997 ước tính).

Số lượng các đài truyền hình ít nhất là 10 (hơn 13 trạm tiếp sóng) (1998). Có 7 ISPs (trạm cung cấp dịch vụ internet) (2003).

[sửa] Xem thêm

Ngôn ngữ khác