MiG-17

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Lim-5 (MiG-17F do Ba Lan chế tạo) với các ký hiệu của Không quân Ba Lan.
Phóng lớn
Lim-5 (MiG-17F do Ba Lan chế tạo) với các ký hiệu của Không quân Ba Lan.

Mikoyan-Gurevich MiG-17 (МиГ-17 trong ký tự Kirin) (tên hiệu của NATO Fresco) là một máy bay phản lực chiến đấu Liên xô, được đưa vào sử dụng từ năm 1952.

Mục lục

[sửa] Phát triển

Thiết kế MiG-17 nói chung dựa trên loại máy bay chiến đấu MiG-15 đã thành công trước đó của Mikoyan và Gurevich. Điểm mới là ứng dụng cánh xuôi phía sau với hình dạng: 45° độ gần thân chính, và 42° so với phần bên ngoài. Nó cũng dùng động cơ VK-1 và những phần khác hoàn toàn tương đương. Mẫu đầu tiên, ký hiệu SI cất cánh ngày 14 tháng 1, 1950. Mẫu biến thể thứ hai SP-2 là một máy bay đánh chặn, với một radar. Dù mẫu SI đã lao xuống đất ngày 17 tháng 3, 1950, những cuộc thử nghiệm với các mẫu khác như SI-2 và một loạt máy bay thực nghiệm SI-02SI-01, năm 1951, nói chung là thành công và vào ngày 1 tháng 9, 1951 loại máy bay này được chấp nhận đưa vào sản xuất. Theo ước tính với động cơ tương tự như của MiG-15, tốc độ tối đa của MiG-17 cao hơn 40-50 km/h, và tính năng cơ động tốt hơn ở độ cao lớn.

Sản xuất hàng loạt bắt đầu diễn ra từ năm 1951. Trong khi sản xuất, máy bay được cải tiến và sửa đổi nhiều lần. MiG-17 căn bản có nhiệm vụ chiến đấu ban ngày, được trang bị 3 súng máy, được coi là hiệu quả nhất trong hoạt động chống lại máy bay địch. Nó cũng có thể được dùng làm máy bay chiến đấu-ném bom, nhưng trọng lượng bom bị coi là nhỏ so với những loại máy bay chiến đấu khác cùng thời kỳ, và nó thường mang theo thùng dầu phụ thay cho bom.

Ngay sau đó một số lượng MiG-17P hoạt động mọi thời tiết đã được chế tạo với trang bị radar Izumrud và những sửa đổi cửa nạp khí phía trước. Mùa xuân năm 1953 MiG-17F chiến đấu ban ngày bắt đầu được sản xuất. Được trang bị động cơ VK-1F với một bộ phận đốt nhiên liệu lần hai, nên tính năng của nó đã được cải thiện, nó trở thành biến thể được biết đến rộng rãi nhất của MiG-17. Biến thể được chế tạo hàng loạt tiếp theo có trạng bị bộ phận tái đốt nhiên liệu và radar là MiG-17PF. Năm 1956 một số chiếc (47) được chuyển đổi thành MiG-17PM (cũng được gọi là PFU) với 4 tên lửa không đối không K-5 (NATO: AA-1) đầu tiên. Một số máy bay MiG-17R trinh sát được chế tạo trang bị động cơ VK-1F (nó đã được thử nghiệm với động cơ VK-5F).

Tới năm 1958 vài ngàn chiếc MiG-17 đã được chế tạo tại Liên bang Xô viết.

[sửa] Chế tạo theo giấy phép

Năm 1955 Ba Lan nhận được giấy phép chế tạo MiG-17. Việc sản xuất MiG-17F diễn ra tại WSK-Mielec với tên hiệu là Lim-5. Chiếc Lim-5 hoàn thành ngày 28 tháng 11, 1956 và cho đến năm 1960 tổng cộng 477 chiếc đã được chế tạo. Một số chiếc được chế tạo ở kiểu biến thể trinh sát Lim-5R, với máy ảnh AFA-39. Từ 1959-1960, 129 chiếc MiG-17PF đánh chặn đã được sản xuất với tên hiệu Lim-5P. Sau đó, Ba Lan đã phát triển những chiếc máy bay tấn công dựa trên MiG-17: Lim-5M sản xuất từ 1960, Lim-6bis sản xuất từ 1963 và Lim-6M (đã được chuyển đổi trong thập kỷ 1970) và các biến thể trinh sát: Lim-6R (Lim-6bisR) và MR.

Tại Trung Quốc, chiếc MiG-17F đầu tiên được lắp ráp từ các bộ phận năm 1956, sau đó từ năm 1957 bắt đầu sản xuất theo giấy phép tại Shenyang. Phiên bản chế tạo của Trung Quốc được gọi là Shenyang J-5 (dùng trong nước) hay F-5 (cho xuất khẩu - không nên nhầm với loại F-5 Freedom Fighter). Theo một số nguồn tin, những chiếc MiG-17 ban đầu, do Liên xô chuyển giao, được gọi là J-4. Tư năm 1964, các biến thể do Trung Quốc sản xuất với một radar, tương tự như MiG-17PF, được gọi là J-5A (F-5A). Người Trung Quốc cũng phát triển một phiên bản huấn luyện hai ghế ngồi JJ-5 (FT-5 cho xuất khẩu), cabin J-5 theo kiểu JJ-2 (sản xuất theo giấy phép MiG-15UTI). Nó đã được sản xuất trong giai đoạn 1966-1986, là biến thể cuối cùng và duy nhất có hai ghế ngồi của MiG-17 được sản xuất. Người Xô viết không sản xuất MiG-17 hai chỗ ngồi vì họ cho rằng biến thể huấn luyện của loại MiG-15 vẫn đáp ứng tốt yêu cầu.

[sửa] Sử dụng

MiG-17 đã trở thành máy bay chiến đấu tiên chuẩn của mọi nước thuộc khối Hiệp ước Vácxava ở cuối thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960. Nhiều nước thuộc tầm ảnh hưởng chính trị của Liên bang Xô viết, và các nước khác, đa số ở Châu PhiChâu Á cũng mua loại máy bay này.

MiG-17 không được sử dụng trong Chiến tranh Triều Tiên nhưng nó được coi là loại máy bay chính của Không quân Bắc Việt trong Chiến tranh Việt Nam, khi nó thường kết hợp cùng với loại MiG-21s ban đầu do các phi công Liên xô hay Trung Quốc điều khiển. [cần chú thích] Trên thực tế, các phi công thích MiG-17 hơn MiG-21 trong cuộc chiến tranh đó bởi vì MiG-17 nhanh nhẹn hơn, dù có tốc độ kém MiG-21. MiG-17 cũng đã được sử dụng chống lại Israel trong nhiều cuộc xung đột Ả rập-Israel.

Hai mươi nước đã sử dụng MiG-17.

[sửa] Ứng dụng

Trong Chiến tranh Việt Nam, mục tiêu chiến lược của MiG-17, cũng như MiG-21, là bắn hạ các máy bay ném bom của Mỹ, chứ không phải là lao vào các cuộc hỗn chiến. Loại máy bay dưới tốc độ siêu âm (.93 Mach) này rất hữu dụng để chống lại những máy bay ném bom tốc độ chậm (.6-.8 Mach), chở nặng của Hoa Kỳ. Thậm chí khi mục tiêu đã có đủ thời gian cảnh báo trước và thả bớt trọng lượng nhằm tăng tốc độ để tẩu thoát, thì việc đó cũng là đủ để chúng phải từ bỏ nhiệm vụ ném bom của mình.

[sửa] Các biến thể

  • MiG-17 - máy bay chiến đấu cơ bản với động cơ VK-1 ('aircraft SI'), Fresco-A
  • MiG-17A - máy bay chiến đấu với động cơ VK-1A và thời gian hoạt động lâu hơn
  • MiG-17AS - phiên bản cải tiến tấn công, được trang bị tên lửa không dẫn đường
  • MiG-17P - máy bay chiến đấu mọi thời tiết với radar Izumrud ('aircraft SP'), Fresco-B
  • MiG-17F - máy bay chiến đấu căn bản với động cơ VK-1F và bộ phận đốt lần hai ('aircraft SF'), Fresco-C
  • MiG-17PF - máy bay chiến đấu mọi thời tiết với radar Izumrud và động cơ VK-1F ('aircraft SP-7F'), Fresco-D
  • MiG-17PM (PFU) - máy bay chiến đấu với radar và tên lửa không đối không K-5 ('aircraft SP-9'), Fresco-E
  • MiG-17R - máy bay trinh sát với động cơ VK-1F và máy ảnh ('aircraft SR-2s')

Trong số những biến thể thực nghiệm, có một máy bay tấn công 'aircraft SN' năm 1953, với cửa hút gió phía trước được thay thế bằng hai cửa hút gió bên, và hai súng máy 23 mm lắp ở trên cái mũi mới, có thể lao xuống bắn mục tiêu mặt đất. Nó không được chế tạo.

Một số chiếc không sử dụng nữa được chuyển đổi thành những mục tiêu điều khiển từ xa.

[sửa] Vũ khí

Armament:
Các biến thể chiến đấu ban ngày (MiG-17, MiG-17F) được trang bị hai súng máy NR-23 23 mm (80 viên mỗi súng) và một súng máy N-37 37 mm (40 viên), ở giá lắp súng chung bên dưới cửa hút gió trung tâm. Giá lắp súng có thể được tháo ra dễ dàng khi bảo dưỡng. Nhiều biến thể với radar (MiG-17P, PF) được trang bị ba súng máy NR-23 23 mm (100 viên), vì trọng lượng radar. Tất cả các biến thể có thể mang 100kg bom trên hai mấu dưới cánh (một số chiếc có thể mang 250 kg bom), nhưng thường thì chúng mang theo thùng dầu phụ 400 lít. MiG-17R chỉ được trang bị hai súng máy 23 mm. Biến thể duy nhất có trang bị tên lửa không đối không là MiG-17PM (PFU), mang 4 tên lửa K-5 (NATO: AA-1). Nó không có súng máy. Ở nhiều nước, MiG-17 thỉnh thoảng được cải tiến để mang tên lửa không điều khiển hoặc bom ở các mấu treo lắp thêm.

MiG-17P được trang bị radar Izumrud-1 (RP-1), MiG-17PF với RP-1 hay sau này với radar Izumrud-5 (RP-5). MiG-17PM cũng được trang bị một radar, dùng để nhắm tên lửa. Các biến thể khác không có radar.

[sửa] Đặc điểm kỹ thuật (MiG-17F)

MiG-17F
Phóng lớn
MiG-17F
  • đội bay=một người
  • chiều dài chính=11.36 m
  • chiều dài quy đổi=37 ft 3 in
  • sải cánh chính=9.63 m
  • sải cánh quy đổi=31 ft 7 in
  • chiều cao chính=3.80 m
  • chiều cao quy đổi=12 ft 6 in
  • diện tích chính=22.6 m²
  • diện tích quy đổi=243.2 ft²
  • trọng lượng rỗng chính=3,930 kg
  • trọng lượng rỗng quy đổi=8,646 lb
  • trọng lượng có tải chính=5,354 kg
  • trọng lượng có tải quy đổi=11,803 lb
  • trọng lượng cất cánh tối đa chính=6,286 kg
  • trọng lượng cất cánh tối đa quy đổi=13,858 lb
  • động cơ (phản lực)=Klimov VK-1F
  • kiểu phản lực=đốt nhiên liệu lần hai phản lực turbin
  • số lượng động cơ=1
  • lực đẩy chính=33.1 kN với bộ phận đốt nhiên liệu lần hai
  • lực đẩy quy đổi=7,440 lbf
  • tốc độ tối đa chính=1,144 km/h ở độ cao 3,000 m
  • tốc độ tối đa quy đổi=711 mph ở độ cao 10,000 ft
  • tầm hoạt động chính=1,080 km, 1,670 km với thùng dầu phụ
  • tầm hoạt động quy đổi=670 mi / 1,035 mi
  • trần bay chính=16,600 m
  • trần bay quy đổi=54,500 ft
  • climb rate main=65 m/s
  • climb rate alt=12,795 ft/min
  • chất tải chính=237 kg/m²
  • chất tải quy đổi=48 lb/ft²
  • lực đẩy/trọng lượng=0.63
  • trang bị vũ khí=
  • súng máy 1x 37-mm Nudelman N-37, 40 viên
  • súng máy 2x 23-mm Nudelman-Rikhter NR-23, 80 viên/súng
  • Lên tới 500 kg (1,100 lb) treo ngoài 2 mấu, gồm 100 kg (220 lb) và 250 kg (550 lb) bom hay thùng dầu phụ.

[sửa] Nước sử dụng

[sửa] Chủ đề liên quan


Các loại máy bay do hãng Mikoyan sản xuất
Máy bay quân sự
MiG-1 | MiG-3 | MiG-5 | MiG-7 | MiG-9 | MiG-13 | MiG-15 | MiG-17 | MiG-19
MiG-21 | MiG-23 | MiG-25 | MiG-27 | MiG-29 | MiG-31 | MiG-33 | MiG-35 | MiG I-250
Máy bay thử nghiệm
MiG-8 | MiG-23 | MiG-110 | MiG AT | MiG I-270 | MiG dự án 1.44/1.42
Các hãng sản xuất máy bay của Nga
Antonov - Ilyushin - Mikoyan - Sukhoi - Tupolev - Yakovlev