Đế quốc Khmer
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đế quốc Khmer là đế quốc rộng lớn nhất Đông Nam Á (với diện tích lên đến 1 triệu km2, gấp 3 lần nước ta hiện nay) tại phần đất hiện nay là Campuchia. Đế quốc Khmer, tách ra từ Vương quốc Chân Lạp, đã từng cai trị và có phần đất phiên thuộc mà ngày nay thuộc lãnh thổ của các quốc gia: Lào, Thái Lan và Việt Nam
Trong quá trình tạo lập nên đế chế này, người Khmer đã có các mối quan hệ thương mại với đế quốcJava và sau đó với đế quốc Srivijaya giáp biên giới đế quốc Khmer về phía nam. Di sản lớn nhất của Đế quốc Khmer là Angkor - là kinh đô của Đế quốc này vào thời cực thịnh của nó. Angkor là chứng tích của sức mạnh và sự giàu có vô biên của Đế quốc Khmer và cũng là hiện thân của nhiều tính ngưỡng mà nó đã mang trong trong mình kể từ xưa đến nay. Các tôn giáo chính thức của đế chế này là: Đạo Hindu, Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cho đến khi Phật giáo Tiểu thừa chiếm ưu thế sau khi được du nhập từ Sri Lanka vào thế kỷ 13.
Lịch sử của Angkor với vai trò là trung tâm của vương quốc Kambuja lịch sử cũng là lịch sử Khmer từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 15. Từ Vương quốc Kambuja và cũng từ khu vực Angkor - không có một ghi chép bằng văn bản nào còn sót lại đến ngày này mà chỉ có những văn bản được khắc chạm trên đá. Do đó những gì còn được biết đến ngày nay về nền văn minh Khmer lịch sử được chủ yếu tham khảo từ các nguồn:
- Khai quật khảo cổ, phục dựng lại và điều tra.
- Các bản chạm khắc trên bia và trên đá ở các đền ghi chép lại những chiến công chính trị và tôn giáo của các triều hoàng đế.
- Các bức phù điều trên các bức tường của các đền đài miêu tả các cuộc hành quân, cuộc sống ở trong cung, các cảnh chợ búa và các cảnh sinh hoạt thường ngày của dân chúng.
- Các ghi chép còn lưu lại được của các sứ thần, nhà buôn và những người lũ hành Trung Hoa xưa.
Sự khởi đầu của kỷ nguyên Vương quốc Khmer Angkor được cho là bắt đầu từ năm 802 sau Công nguyên. Trong năm này, vua Jayavarman II đã tự xưng "Chakravartin" (hoàng đế của thiên hạ).
Mục lục |
[sửa] Lịch sử
[sửa] Jayavarman II - người sáng lập Angkor
Jayavarman II là một hoàng tử của triều đại Sailendra ở Java như là một con tin hoàng gia của vương quốc chư hầu của Java hay là đến để học tập (hoặc cả hai) vẫn chưa được khẳng định. Nhờ thời gian ở Java, ông đã mang nghệ thuật và văn hóa của triều đình Sailendran của Java về cho triều đình Campuchia. Sau khi trở về nhà ở vương quốc Chân Lạp, ông đã nhanh chóng xây dựng thế lực của mình, đánh bại nhiều vị vua khác và năm 790 trở thành hoàng đế của vương quốc Kampuja. Trong những năm tiếp theo, ông đã mở rộng lãnh thổ của mình và cuối cùng đã thành lập kinh đô mới Hariharalaya gần thị xã Roluos của của Campuchia ngày nay. Do vậy, ông đã đặt nền móng cho kinh đô Angkor trải dài đến 15 km về phía tây bắc. Năm 802, ông tự xưng Chakravartin (vua thiên hạ) bằng một lễ đăng quang theo phong cách Hindu của Ấn Độ. Bởi thế, ông không những trở thành một vị vua được thành thánh sắc phong và vô địch mà còn đồng thời tuyên bố sự độc lập của vương quốc mình khỏi vương quốc Java. Jayavarman II mất năm 834.
[sửa] Yasodharapura - thành phố đầu tiên của Angkor
Các vị vua kế nhiệm Jayavarman II đã liên tục mở rộng lãnh thỏ của Kambuja. Indravarman I (trị vì từ 877 - 889) đã thành công trong việc mở rộng vương quốc của mình mà không cần đánh nhau và ông đã bắt đầu triển khai các dự án xây dựng lớn nhờ vào của cải giành được thông qua mậu dịch và nông nghiệp. Công trình đầu tiên là đền Preah Ko và các công trình thủy lợi. Con ông là Yasovarman I (trị vì từ 889 - 915), là người thiết lập một kinh đô mới Yasodharapura - thành phố đầu tiên của Angkor.
Ngôi đền trung tâm của thành phố được xây ở Phnom Bakheng, một ngọn đồi cao 60 m giữa đồng bằng trong khu vực Angkor. Dưới triều Yasovarman I công trình Đông Baray cũng được tạo dựng, đây là công trình hồ chứa nước có kích thước 7,5 x 1,8 km.
Vào đầu thế kỷ 10 thì đế quốc này bị chia rẽ. Jayavarman IV thiết lập một kinh đô mới ở Koh Ker, cách Angkor 100 km. Chỉ có dưới triều đại của Rajendravarman II (trị vì 944 - 968) thì hoàng cung mới được quay trở lại Yasodharapura. Ông ta bắt đầu bắt đầu các dự án xây dựng lớn mà các vua đầu tiên đã dự tính và đã cho thiết lập một loạt các đền ở khu vực Angkor; trong đó có Đông Mebon, trên một cù lao của East Baray, và nhiều đền thờ Phật và chùa. Năm 950, chiến tranh lần đầu nổ ra giữa Kambuja và Vương quốc Champa ở phía đông (ngày nay là miền Trung Việt Nam.
Từ năm 968 đến 1001 là thời kỳ trị vì của con trai Rajendravarman II, Jayavarman V. Sau khi ông ta đã đăng quang ngôi vua sau khi đã vượt qua các hoàng thân khác, giai đoạn trị vì của ông phần lớn là thời kỳ thanh bình, đánh dấu bởi sự phát triển thịnh vượng và phát triển rực rỡ nền văn hóa. Ông cho thiết lập một kinh đô mới gần Yashodharapura, Jayenanagari. Dưới triều của vua Jayavarman V có các nhà triết học, các học giả và các nghệ sỹ. Các ngôi đền mới cũng được xây dựng, trong đó, quan trọng nhất là Banteay Srei, được xem như công trình có tính nghệ thuật và thẩm mỹ bậc nhất của Angkor và Ta Keo là ngôi đền đầu tiên của Angkor xây hoàn toàn bằng sa thạch. Sau cái chết của Jayavarman V là một thập kỷ xung đột. Các vị vua chỉ trị vì vài năm và bị thay thế thông qua bạo lực của các vị kế nhiệm cho mãi đến thời vua Suryavarman I (trị vì 1010 - 1050) cuối cùng giành được ngôi báu. Thời kỳ trị vì của ông được đánh dấu bằng các nỗ lực đảo chính liên tục của các đối thủ hòng lật đổ bằng quân sự. Về phía tây, ông đã mở rộng vương quốc của mình đến tỉnh Lopburi của Thái Lan ngày nay, về phía nam đến Kra Isthmus. Tại Angkor, việc xây dựng Tây Baray bắt đầu dưới triều Suryavarman I, một hồ chứa nước thứ 2 và rộng hơn hồ Đông Baray với kích thước 8 x 2,2 km.
[sửa] Suryavarman II - Angkor Wat
Thế kỷ 11 là thời kỳ của các cuộc xung đột và tranh giành quyền lực tàn bạo.f mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài. Dưới sự cai trị của ông, ngôi đền lớn nhất của Angkor được xây dựng trong khoảng thời gian 37 năm: Angkor Wat, là nơi thời thần Vishnu. Suryavarman II xâm chiwwsm vương quốc Haripunjaya của dân tộc Môn đến phía tây (ngày nay là miền trung Thái Lan) và một khu vực xa hơn về phía tây của vương quốc Bagan (Myanmar ngày nay), phía nam lấn về khu vực Bán đảo Malay đến vương quốc Grahi (trùng với tỉnh Nakhon Si Thammarat của Thái Lan ngày nay), về phía đông lấy nhiều tỉnh của Champa và các nước phía bắc đến biên giới phía bắc của Lào ngày nay. Sự kết thúc của hoàng đế Suryavarman II không được rõ ràng lắm. Văn bản chạm khắc cuối cùng ghi nhận tên ông có liên quan đến dự tính xâm lược Đại Việt là từ năm 1145. Có lẽ ông mất trong một cuộc hành quân trong khoảng thời gian từ năm 1145 đến 1150.
Thời kỳ tiếp theo các vua trị vì trong thời gian ngắn và bị lật đổ thông qua bạo lực bởi những triều vu kế tiếp. Cuối cùng, năm 1177, Kambuja đã bị đánh bại trong một trận thủy chiến trên hồ Tonlé Sap bởi quân Chàm và bị sáp nhập thành một tỉnh của Champa.
[sửa] Jayavarman VII - Angkor Thom
Vị vua tương lai Jayavarman VII (trị vì từ 1181-1219) đã là một nhà lãnh đạo quân sự như với tước vị hoàng thân dưới thời các vua trước. Sau khi người Chăm đã xâm chiếm Angkor, ông đã tập hơkng một đội quân và giành lại kinh đô Yasodharapura. Năm 1181, ông đã lên ngôi và tiếp tục gây chiến chống lại các vương quốc phía đông trong 22 năm cho đến khi Đế quốc Khmer đánh bại Chăm Pa năm 1203 và xâm chiếm phần lớn lãnh thổ của Chăm Pa.
Jayavarman VII được coi là vị hoàng đế vĩ đại cuối cùng của Angkor không chỉ vì những chiến công của ông chống lại quân Chăm Pa mà còn là một người cai trị không phải là bạo chúa như cách các hoàng đế trước đó đã cai trị vì ông là người thống nhất đế quốc này và trên cả là do các công trình xây dựng được tiến hành dưới thời kỳ cai trị của ông. Kinh đô mới có tên gọi là Angkor Thom (có nghĩa là: "Thành phố vĩ đại") được xây dựng. Ở khu trung tâm, chính nhà vua (là một phật tử Phật giáo tiểu thừa (Mahayana Buddhism)) had constructed as the state temple the Bayon, with its towers bearing faces of the boddhisattva Avalokiteshvara, each several metres high, carved out of stone. Further important temples built under Jayavarman VII were Ta Prohm, Banteay Kdei and Neak Pean, as well as the reservoir of Srah Srang. Alongside, an extensive network of streets was laid down, which connected every town of the empire. Beside these streets 121 rest-houses were built for traders, officials and travellers. Not least of all, he established 102 hospitals.
[sửa] Chu Đạt Quan (周达观) - thời kỳ rực rỡ cuối cùng
Sau cái chết của vua Jayavarman VII, con trai ông Indravarman II (trị vì 1219-1243) lên ngôi. Giống như cha mình, ông là một Phật tử và ông đã cho xây xong một loạt chùa chiền được khởi công từ thời cha mình. Ông không thành công về mặt chiến tranh. Năm 1220, người Khmer rút khỏi nhiều tỉnh trước đấy xâm lược của Champa. Về phía tây, các thần dân người Thái của ông đã nổi lên chống lại và thành lập nên vương quốc Xiêm đầu tiên là Vương quốc Sukhothai và đẩy lùi người Khmer. Trong 200 năm tiếp theo, người Thái đã trở thành đối thủ chính của Kambuja. Indravarman II được kế nhiệm bởi Jayavarman VIII (trị vì 1243-1295). Trái với các vua trước đó, ông theo đạo Hindu và là một người chống Phật giáo một cách kịch liệt. Ông đã cho phs hủy phần lớn các tượng Phật ở Đế quốc này (các nhà khảo cổ ước đoán có khoảng hơn 10.000, trong đó còn rất ít phế tích còn sót lại đến ngày nay) và cho chuyển các chùa Phật giáo thành đền thờ Hindu. Từ bên ngoài, Đế quốc Khmer đang bị quân Mông Cổ của tướng Sagatu của Kublai Khan đe dọa. Ông ta đã tránh đụng độ với quân Mông Cổ (đã chiếm hết Trung Hoa) bằng cách cống nạp hàng năm cho Đế quốc Mông Cổ. Thời kỳ trị vì của Jayavarman VIII kết thúc năm 1295 khi ông bị con rể là Srindravarman (trị vì 1295-1309) lật đổ. Vua mới là người theo Phật giáo Tiểu thừa Theravada Buddhism, một trường phái của Phật giáo du nhập vào Đông Nam Á từ Sri Lanka và sau đó lan ra khắp khu vực.
Tháng 8/1296, một nhà ngoại giao Trung Hoa là Chu Đạt Quan đến Angkor và ở lại triều đình của vua Srindravarman cho đến 1297. Chu Đạt Quan không phải là người đầu tiên hay người cuối cùng viếng thâm Kambuja nhưng cuộc viếng thăm của ông trở nên nổi tiếng vì ông đã ghi chép lại cuộc sống ở Angkor một cách chi tiết. Miêu tả của ông ngày nay là nguồn tham khảo quan trọng nhất để hiểu biết Angkor. Ngoài các miêu tả về các đền lớn như ( Bayon, Baphuon và Angkor Wat), mà nhờ Chu Đạt Quan chúng ta được biết rằng các tháp của Bayon đã từng được dát vàng, các văn bản cũng cho thấy nhiều thông tin có giá trị về cuộc sống thường nhật và các tập quán của cư dân Angkor.
[sửa] Sự suy tàn của Angkor
Có rất ít tư liệu lịch sử về thời kỳ sau triều vua Srindravarman. Văn bản cuối cùng người ta biết được là một bia khắc từ năm 1327. Không có ngôi đền lớn nào được xây thêm. Các nhà sử học nghi ngờ. Historians suspect a connection with the kings' adoption of Theravada Buddhism: they were therefore no longer considered "devarajas", and there was no need to erect huge temples to them, or rather to the gods under whose protection they stood. The retreat from the concept of the devaraja may also have led to a loss of royal authority and thereby to a lack of workers. The water-management apparatus also degenerated, meaning that harvests were reduced by floods or drought. While previously three rice harvests per years were possible - a substantial contribution to the prosperity and power of Kambuja - the declining harvests further weakened the empire. Its western neighbour, the first Thai kingdom of Sukhothai, was conquered by another Thai kingdom, Ayutthaya, in 1350. After 1352 there were several assaults on Kambuja, although these were repelled. In 1431, however, the superiority of Ayutthaya was too great, and the Thai army conquered Angkor.
The centre of the residual Khmer kingdom was in the south, in the region of today's Phnom Penh. However, there are indications that Angkor was not completely abandoned. One line of Khmer kings would have remained there, while a second moved to Phnom Penh to establish a parallel kingdom. The final fall of Angkor would then be due to the transfer of economic - and therewith political - significance, as Phnom Penh became an important trade centre on the Mekong. Costly construction projects and conflicts over power between the royal family sealed the end of the Khmer empire.
Ecological failure and infrastrucual break down is a new alternative answer to the end of the Khmer Empire. The Great Angkor Project believe that the Khmers had an elaborate system of reservoirs and canals used for trade, travel and irrigation. The canals were used for the harvesting of rice. As the population grew there was more strain on the water system. Failures include water shortage and flooding. To adapt to the growing population, trees were cut down from the Kulen hills and cleared out for more rice fields. That created rain runoff carrying sediment to the canal network. Any damage to the water system would leave an enormous amount of consequences.[1]
In any event, there is evidence for a further period of use for Angkor. Under the rule of king Barom Reachea I (reigned 1566 - 1576), who temporarily succeeded in driving back the Thai, the royal court was briefly returned to Angkor. From the 17th century there are inscriptions which testify to Japanese settlements alongside those of the remaining Khmer. The best-known tells of Ukondafu Kazufusa, who celebrated the Khmer New Year there in 1632.
[sửa] Các hoàng đế trị vì
Thứ tự theo niên đại cai trị, danh hiệu sau khi mất, nguồn gốc thông tin.
- 657-681: Jayavarman I
- 802-850: Jayavarman II (Paramesvara)
- 854-877: Jayavarman III (Vishnuloka)
- 877-889: Indravarman II (Isvaraloka)
- 889-910: Yasovarman I (Paramasivaloka)
- 910-923: Hashavarman I (Rudraloka)
- 923-928: Isanavarman II (Paramarudraloka)
- 928-941: Jayavarman IV (Paramasivapada)
- 941-944: Harshavarman II (Vrahmaloka or Brahmaloka)
- 944-968: Rajendravarman (Sivaloka)
- 968-1001: Jayavarman V (Paramasivaloka)
- 1001-1002?: Udayadityavarman I
- 1002-1011?: Jayaviravarman
- 1001-1050: Suryavarman I (Narvanapala la)
- 1050-1066: Udayadityavarman II
- 1066-1080?: Harshavarman III (Sadasivapada)
- 1080-1113?: Jayavarman VI (Paramakaivalyapada)
- 1113-1150: Suryavarman II (Paramavishnuloka)
- 1150-1160: Dharanindravarman II (Paramanishkalapada)
- 1160-1165/6: Yasovarman II
- 1181-1220?: Jayavarman VII (Mahaparamasangata?)
- 1220-1243: Indravarman II
- 1243-1295: Jayavarman VIII (abdicated) (Paramesvarapada)
- 1295-1308: Indravarman III?
- 1300-1307?: Srindravarman (abdicated)
- 1308-1327: Indrajayavarman
- 1330-1353: Paramathakemaraja
- 1371-?: Hou-eul-na
- 1404: Samtac Pra Phaya
- 1405: Samtac Chao Phaya Phing-ya
- 1405-1409: Nippean-bat
- 1409-1416: Lampong hoặc Lampang Paramaja
- 1416-1425: Sorijovong, Sorijong or Lambang
- 1425-1429: Barom Racha, hoặc Gamkhat Ramadhapati
- 1429-1431: Thommo-Soccorach hoặc Dharmasoka
- 1432-1462: Ponhea Yat hoặc Gam Yat
[sửa] Tham khảo các tài liệu tiếng Anh
- Michael Freeman, Claude Jacques: Ancient Angkor, Asia Books, ISBN 974-8225-27-5
- Vittorio Roveda: Khmer Mythology, River Books, ISBN 974-8225-37-2
- Bruno Dagens (engl: Ruth Sharman): Angkor - Heart of an Asian Empire, Thames & Hudson, ISBN 0-500-30054-2
- Dawn Rooney: Angkor: Cambodia's Fabulous Khmer Temples, Odyssey Publications, Ltd., ISBN 962-217-727-1
- David Chandler: A History of Cambodia, Westview Press, ISBN 0-8133-3511-6
- Zhou Daguan: The Customs of Cambodia, The Siam Society, ISBN 974-8359-68-9
- Henri Mouhot: Travels in Siam, Cambodia, Laos, and Annam, White Lotus Co, Ltd., ISBN 974-8434-03-6
- Benjamin Walker, Angkor Empire: A History of the Khmer of Cambodia, Signet Press, Calcutta, 1995.