Phố Hiến

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phố Hiến là một thương cảng nổi tiếng tại tỉnh Hưng Yên, Việt Nam trong các thế kỷ 17-18.

Thế kỷ 17-18, ngoài kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ là thủ đô phồn vinh nhất nước, Phố Hiến đã là một đô thị nổi bật đứng ở vị trí thứ hai. Dân gian có câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Văn bia chùa Thiên ứng, dựng năm Vĩnh Tộ thứ 7 (1625) đã ghi: “Phố Hiến nổi tiếng trong bốn phương là một tiểu Tràng An” - tức một Kinh đô thu nhỏ.

Trong lịch sử, Phố Hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng (đoạn sông ngày xưa chảy qua Phố Hiến gọi là sông Xích Đằng), ngày nay tương ứng với phần đất của thôn Đằng Châu (xã Lam Sơn), tới thôn Nễ Châu (xã Hồng Châu, thị xã Hưng Yên) trên một diện tích khoảng chừng 5 km x 1 km.

Mục lục

[sửa] Vị trí địa l‎ý

Phố Hiến ngày nay thuộc địa phận thị xã Hưng Yên. Xưa kia Phố Hiến nằm sát bên bờ tả ngạn sông Hồng, nhưng do phù sa bồi đắp nên ngày nay đã ở cách dòng sông khoảng chừng 2 km. Theo đường sông, Phố Hiến cách Hà Nội 55 km. Trước đây từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên Kinh đô mất 3 ngày.

Vị trí của Phố Hiến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tuyến giao thông đường thuỷ thuộc hệ thống sông Hồng-sông Thái Bình nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các nhà địa chất chia châu thổ Bắc Bộ thành 3 vùng tương ứng với ba thời kỳ thành tạo lớn: Thượng châu thổ với đỉnh của các triền sông là Việt Trì; Trung châu thổ với đỉnh là Cổ Loa; và Hạ châu thổ với đỉnh là Phố Hiến-Hưng Yên, từ đó các nhánh sông trải ra vùng đồng bằng như những chiếc nan quạt. Bằng đường thuỷ, từ Phố Hiến có thể liên lạc tới hầu hết các địa phương thuộc các trấn Sơn Nam, Hải Dương, An Quảng. Phố Hiến là nơi trung chuyển, cửa ngõ án ngữ hoặc thông thương của mọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh thành Thăng Long, qua các tuyến sông Đáy, sông Hồng, sông Thái Bình. Vị trí này được thể hiện rõ trên Bản đồ dòng chảy Sông Đàng Ngoài từ Cacho (Hà Nội) ra đến biển do một nhà hàng hải người Anh vẽ vào thế kỷ 17.

Trong chuyến du hành đến Đàng Ngoài Việt Nam năm 1688, một nhà hàng hải người Anh tên là William Dampier đã nhắc đến hai cửa sông chính từ biển Đông vào Đàng Ngoài là cửa Rokbo và cửa Domea.

Cửa Rokbo là cửa sông Đáy, cửa sông lớn nhất kể từ phía Nam, trong các thư tịch cổ còn mang tên Cửa Đại, Cửa Đại Ác hoặc Cửa Liêu. Tên Rokbo là biến âm của Độc Bộ, tên đoạn hạ lưu sông Đáy thông ra biển, ngược lên sông Vị Hoàng (thuộc Nam Định), ăn thông vào sông Hồng. Vào thế kỷ 17, cửa sông này tương đối nông, độ nước sâu không quá 12 bộ (khoảng 3,648 m), nhưng đáy là một lớp phù sa mềm, nên rất tiện lợi cho các thuyền nhỏ. Cho đến khoảng giữa thế kỷ 17, đó là lối vào chính của các thuyền mành Trung QuốcXiêm La ngược sông lên bỏ neo ở Phố Hiến. J. B. Tavernier trong Du k‎ý năm 1679 gọi là “Cua Dag” và nhận xét: “Tất cả những tàu lớn đều phải dừng lại ở cửa này, không thể vào đường sông lớn Kẻ Chợ, vì nó đã bị bồi đầy cát từ vài năm nay”. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi: “Cửa Liêu là cửa biển trọng yếu ở Bắc Kỳ, sau vì cát bồi lấp, thuyền ghe không thông”. Các tác giả phương Tây còn nhắc đến một tảng đá trên đó khắc hàng chữ lưu niệm “Baron 1680” ở ven bờ sông Đáy, chứng tỏ vào thời điểm đó, thương nhân Samuel Baron đã đi qua nơi này. Samuel Baron là con lai của một phụ nữ Việt với Giám đốc thương điếm Hà Lan ở Đàng Ngoài Hendrik Baron, sau nhập quốc tịch Anh và làm nhân viên cho Công ty Đông Ấn Anh.

Cửa sông thứ hai, cửa Domea, nơi các tàu thuyền từ biển Đông - nhất là các tàu phương Tây có trọng tải lớn - thường hay vào, chính là cửa Thái Bình. Trong chuyến du hành của mình, William Dampier viết: “Các tàu buôn phương Tây thường nhờ hoa tiêu dẫn theo một luồng nước giữa hai dải cát ngoài cửa sông, tiến ngược qua hạ lưu sông Thái Bình, tới bỏ neo tại một thị trấn có tên Domea cách cửa sông khoảng chừng từ 20-28 km” (có nhiều khả năng đây là làng An Dụ, xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng). Từ đó, dùng thuyền ngược lên theo sông Luộc tới Phố Hiến. Cửa sông Domea chính là cửa Sông Đàng Ngoài (Tonkin River) nổi tiếng trên các bản đồ và trong thư tịch cổ phương Tây thế kỷ 17-18 với tư cách là tuyến giao thương quan trọng nhất của người châu Âu tại khu vực miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ này. Sông Đàng Ngoài là một phức hợp sông, bao gồm sông Hồng chảy từ Hà Nội đến Phố Hiến, sông Luộc và hạ lưu sông Thái Bình thuộc Hải Phòng ngày nay.

Cùng với các tuyến giao thương đường sông, các tuyến giao thương ven biển đã nối liền Phố Hiến với các thị trường xa hơn. Từ thời nhà Trần (1226-1400), các thương nhân người Hoa ở Xích Đằng đã có những mối liên hệ với các cảng Hội Triều (Thanh Hoá), Càn Hải và Hội Thống (Nghệ An). Thế kỷ 17-18, các quan hệ thương mại giữa Phố Hiến và vùng Sơn Nam với các phố cảng miền TrungĐàng Trong thông qua các khách buôn nước ngoài càng được tăng cường, như các bến đò Phục Lễ (Nghệ An), Phù Thạch (Hà Tĩnh) và xa hơn là Thanh Hà (Thuận Hoá), Hội An (Quảng Nam). Cuối cùng, cùng với các liên hệ giao thông nội địa trong các thế kỷ 17-18, qua hai hệ thống sông Đàng Ngoài và sông Đáy, Phố Hiến còn bắt nhịp với các tuyến giao thương quốc tế ở biển Đông, như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, cũng như với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp...

[sửa] Sự ra đời của Phố Hiến

Phố Hiến có một lịch sử khá sớm và lâu dài, nhưng thời kỳ hưng đạt nhất của nó là vào khoảng nửa sau thế kỷ 17.

Trong giai đoạn tiền Phố Hiến, ngay từ thế kỷ 10, các nhà nghiên cứu đã từng lưu ‎ý đến vùng Đằng Châu phía bắc thị xã Hưng Yên ngày nay. Vùng này vốn là một lãnh địa của sứ quân Phạm Phòng Ất (Phạm Bạch Hổ), đến thời Tiền Lê là thực ấp của Lý Công Uẩn. Thế kỷ 18, dưới thời nhà Trần, khi nhà Nguyên diệt Tống, một số kiều dân Trung Quốc tị nạn đã kéo sang Việt Nam, lập nên làng Hoa Dương (hàm ý những Hoa kiều tị nạn thờ Dương Quý Phi). Vung này về sau bao gồm các xã Mậu Dương, Lương Điền và Phương Cái. Cùng lúc đó, một số người Việt từ nhiều địa phương khác nhau cũng dần dần đến sinh sống tại địa điểm tụ cư này để buôn bán và làm ăn.

Có nhiều khả năng là tên gọi Phố Hiến lần đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ 15. Khi đó, trong công cuộc cải cách hành chính của mình, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã chia nước thành 12 đạo Thừa tuyên. Ở mỗi Thừa tuyên có lập một ty Hiến sát sứ trông coi việc kiểm sát, giám sát trong đó có việc kiểm soát các thuyền bè đi lại trên sông. Người dân đã lấy tên Phố Hiến để đặt cho khu phố chợ trước đây mà nay có thêm l‏ị sở của ty Hiến sát sứ đặt ở đấy.

Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một đô thị sầm uất, nổi tiếng trong cả nước, một trung tâm chính trị - kinh tế có nhiều mối giao lưu quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có lị sở của trấn thủ xứ Sơn Nam, ty Hiến sát sứ Sơn Nam, các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong ngoài nước, một đoạn sông tấp nập các thuyền bè đi lại và đỗ bến, những chợ phố đông đúc, các thợ thủ công và thương nhân người Việt, người Hoa, Nhật Bản và phương Tây. Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn có chép: “Cung cũ Hiến Nam ở địa phận xã Nhân Dục, huyện Kim Động là lị sở trấn Sơn Nam đời Lê, phàm người nước ngoài đến buôn bán thì tụ tập ở đây, gọi là Vạn lai triều, phong vật phồn thịnh, nhà ngói như bát úp”.

Địa điểm Hiến ty Sơn Nam chủ yếu đặt ở địa phận thị xã Hưng Yên ngày nay. Nhưng trong lịch sử, do chính sách của từng triều vua và do sự chuyển dòng của sông Hồng, địa điểm này có thể đã thay đổi nhiều lần từ bên này sang bên kia sông. Tấm bia dựng năm 1625 ở chùa Hiến (tên chữ là “Thiên ứng tự”) cho biết trấn lị Sơn Nam đóng ở Hoa Dương và đã di chuyển đi chỗ khác. Đặc biệt, theo tấm bia dựng năm 1682 do Vũ Công Đạo soạn và được tìm thấy ở thôn Tường Lân, xã Trác Văn, huyện Duy Tiên (Hà Nam), thì vào năm 1644, chúa Trịnh Tráng đã lệnh cho dân thôn Tường Lân được miễn lao dịch vì đã phục vụ cho Trấn thủ Sơn Nam. Sau đó, trong 40 năm, lị sở đã nhiều lần chuyển đi nơi khác. Tới năm 1679, Hiến sát sứ Sơn Nam lúc đó là Phan Tự Cường lại cho dựng lị sở mới ở thôn Tường Lân. Tấm bia mô tả: “Chánh đường xây ở giữa hai bên bờ có nhà cửa của quan quân. Dân chúng tụ tập đến giúp đỡ, thợ thuyền đua khéo… tường xây bao bọc xung quanh lị sở lộng lẫy, hành lang rộng…”.

Cùng với Hiến ty, các triều đình phong kiến có đặt ra những trạm tuần ty, kiểm soát thuyền bè, có thể ở cả hai bên bờ sông. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì trạm Lãnh Trì ở sát Phố Hiến về phía bắc thuộc huyện Kim Động (tả ngạn sông Hồng). Nhưng theo sách Các tổng trấn xã danh bị lãm lại thuộc huyện Phú Xuyên (hữu ngạn sông Hồng) có hai cửa phụ: một ở Đằng Châu (thị xã Hưng Yên); một ở Lạc Tràng (Kim Bảng, Hà Nam ngày nay). Trên bản đồ dòng chảy Sông Đàng Ngoài từ Hà Nội ra đến biển do một nhà hàng hải Anh vẽ vào thế kỷ 17, ngoài địa điểm Phố Hiến ở bên tả ngạn được ghi là “Thành phố ở đó người Anh có một thương điếm”, thì cũng đánh dấu một địa điểm tụ cư hoặc một lị sở đáng chú ý ở phía đối diện ở bên kia (hữu ngạn) sông Hồng.

[sửa] Diện mạo của Phố Hiến thế kỷ XVII-XVIII

Ngoài sự tồn tại của một lị sở trấn thủ Sơn Nam như một hạt nhân chính trị, một ty Hiến sát sứ Sơn Nam đóng vai trò một trạm hải quan tiền cảng, Phố Hiến trong lịch sử chủ yếu mang diện mạo của một đô thị kinh tế. Kết cấu của nó bao gồm một bến cảng sông; một tập hợp chợ; khu phường phố; và hai thương điếm phương Tây (Hà Lan và Anh).

[sửa] Bến cảng sông

Mạch máu giao thương của Phố Hiến là sông Xích Đằng - đoạn sông Nhị Hà chảy sát Phố Hiến. Đoạn sông này sau bị cát bồi lấp, đến nay đã ở cách thị xã Hưng Yên khoảng 2 km. Sự thuận tiện của Phố Hiến là ở chỗ đây là nơi trung chuyển và là điểm tụ hội của những đoạn đường sông từ biển Đông vào tới Kinh thành Thăng Long như tuyến Sông Đàng Ngoài, nhiều tuyến sông khác.

Bến cảng Phố Hiến là nơi các tàu thuyền ngoại quốc lưu đỗ để làm thủ tục kiểm soát và xin giấy phép đi tiếp tới Kinh đô. Các thuyền mành Trung Quốc, Xiêm Lachâu Á khác thường đi thẳng từ biển Đông qua các cửa sông tới Phố Hiến rồi ngược lên Thăng Long. Các tàu buôn phương Tây có trọng tải nặng hơn thường bỏ neo tại một địa điểm cách biển không xa được gọi là Domea (Đò Mè) rồi dùng thuyền nhỏ và vừa chuyển lên Phố Hiến. Tuy nhiên, cũng có khi các tàu phương Tây lên tận Phố Hiến, thậm chí Thăng Long - Kẻ Chợ. Năm 1637, khi thương nhân Hà Lan Karel Hartsinck tới Phố Hiến đã gặp nhiều tàu thuyền Bồ Đào Nha đi lại trên sông, chở đầy tơ sống. Năm 1644, thuyền trưởng Anthonio van Brouckhorst, người Hà Lan, đã cho tàu của mình lên tận Kẻ Chợ. Hay năm 1672, tàu Zant của Công ty Đông Ấn Anh đã đi suốt dọc Sông Đàng Ngoài. Nhật ký của Công ty Đông Ấn Anh cũng đã ghi lại trong hơn 10 năm (1672-1683), đã có khoảng 30 chuyến tàu phương Tây cập bến tại Phố Hiến, gồm cả tàu Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh. Ở phía bắc Phố Hiến, bến Xích Đằng là một bến đò quan trọng, nhất là đối với việc buôn bán nội địa. Theo Đại Nam nhất thống chí, bến Xích Đằng có 4 bến đò: Kệ Châu, Quan Xuyên, Nhân Dục và Phương Trà. Bên kia sông lại có trạm tuần ty Lãnh Trì là một trạm tuần lớn. Đền thờ bà hàng nước ở Xích Đằng kể rằng chỉ nhờ vào việc bán nước cho các khách thương của các thuyền bè qua lại mà bà giàu tới ức vạn. Ở phía nam có bến Nễ Châu, còn gọi là Bến Mới, có thể là nơi các tàu thuyền phương Tây thường đỗ đậu. Địa danh truyền lại “Bến Đá”, “Giốc Đá” có thể gợi đến những kè đá táp vào bờ sông cho những tàu thuyền lớn bỏ neo. Ở đấy người ta còn tìm thấy một bệ cột cờ bằng đá, có thể đó là di vật của các thương điếm phương Tây ngày trước. Những người Việt và khách thương Trung Hoa thời đó gọi chung Phố Hiến là “Vạn Lại Triều”, có nghĩa “bến nước mà từ đó các tàu thuyền sau khi được phép sẽ đi vào triều đình (ở Thăng Long)”. Điều đó nói lên vai trò quan trọng có tính quyết định của bến cảng ở Phố Hiến, tính chất thương cảng đối với toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của Phố Hiến.

[sửa] Chợ

Cùng với bến cảng sông là một các khu chợ khá sầm uất. Chợ Vạn ở bến Xích Đằng là một chợ sầm uất nổi tiếng trong dân gian. Chợ Hiến (tức chợ Nhân Dục) bên cạnh lị sở Sơn Nam là chợ chính, theo Đại Nam nhất thống chí, đây là “chợ lớn nhất trong tỉnh hạt”. Phía dưới lại có chợ Bảo Châu, bên cạnh bến Nễ Châu. Những chợ này đã vượt khỏi khuôn khổ những chợ địa phương để chở thành các chợ liên vùng. Thuyền bè từ Thăng Long - Kẻ Chợ và các trấn gần xa trong nước cũng như nước ngoài đã đến đây buôn bán, trao đổi hàng hoá. Một số các thương nhân đã trở nên giàu có từ việc buôn bán trong các chợ này.

[sửa] Khu phường phố

Khu phường phố là khu định cư của người Việt và các kiều dân ngoại quốc (chủ yếu là người Hoa) sản xuất và buôn bán với tính chất cố định ở Phố Hiến. Dựa theo các văn bia ở chùa Hiến (1709) và chùa Chuông (1711), Phố Hiến thời đó có khoảng 20 phường, có thể kể ra sau đây:

a) 9 phường có tên chỉ địa vực: Cựu đê thị (phường đê cũ); Ngoại đê thị (phường ngoài đê); Thuỷ đê nội thị (phường trong đê sông); Hà khẩu thị (phường cửa sông); Hậu bi thị (phường Sau bia); Thuỷ giang nội thị (phường trong kênh sông); Thuỷ giang ngoại thị (phường ngoài kênh sông); Vạn mới thị (phường bến mới); Cửa cái phường.
b) 7 phường sản xuất hàng thủ công nghiệp: Hàng Sũ phường (phường Đồ gỗ); Thổ Oa phường (phường Nhuộm vải); Hàng Chén thị (phường Bát Chén); Thuộc bì thị (phường Thuộc da); Hoa lạp thị (phường Nón hoa); Hàng Sơn phường (phường Hồ sơn thếp).
c) 4 phường buôn bán nông thuỷ sản; Hàng Nhục phường (phường Hàng thịt); Hàng Cá phường (phường Hàng cá); Mộc lang phường (phường Bán rau); Hàng Bè phường (phường Bán tre nứa).

Qua các bi ký, có thể đọc được 13 phố và 32 tên cửa hiệu buôn bán như các Tân Thị, Tân Khai, Tiên Miếu, Hậu Trường… Nổi tiếng và nhộn nhịp nhất là các phố do các thương gia Hoa kiều cư trú và buôn bán. Theo Đại Nam nhất thống chí, “hai phố Bắc Hoà thượng và Bắc Hoà hạ đời Lê có dinh Hiến Nam, nhà ngói như bát úp, là nơi người Trung Quốc tụ hội buôn bán”. Phố Nam Hoà đối diện với Phố Bắc Hoà, cũng do người Trung Quốc ở. Năm 1688, du khách Trung Quốc Phan Đỉnh Khuê đến Phố Hiến đã mô tả như sau: “Người ta thấy ở đây những phố buôn bán, con số có đến hàng mấy chục, được gọi là Thiên triều nhai hay phố người Trung Quốc. Thực vậy, người Trung Hoa ở đây đã được người ta tôn kính gọi là Thiên triều. Và các Hoa kiều cũng vậy, được gọi là người của Thiên Triều. Đấy là một thông lệ truyền thống”.

Diện mạo của Phố Hiến trong cùng năm đó cũng được nhà hàng hải Anh William Dampier mô tả như sau: “Đó là một thành phố khá lớn, có độ 2000 nóc nhà nhưng dân cư phần lớn là những người nghèo và lính tráng, họ đóng giữ một đồn binh ở đấy, dù rằng không hề có tường luỹ, thành quách hoặc súng lớn gì cả. Đây là một đường phố thuộc các thương nhân Trung Quốc. Vài năm trước đây, đại bộ phận trong số họ đã sinh sống ở Kẻ Chợ, cho đến khi họ phát triển thành đông đúc quá, đến nỗi bản thân những người bản xứ cũng bị họ lấn át. Nhà vua nhận thấy điều đó, bèn ra lệnh cho phải rời khỏi nơi đây, cho phép họ có thể sống ở bất kỳ nơi nào khác nhưng không phải ở Kinh thành. Một số lớn họ đã ở lại đây suốt từ khi đó. Những thương nhân này, mặc dù đã có lệnh cấm, vẫn thường xuyên lên Kẻ Chợ mua bán hàng hoá, nhưng không được phép thường trú ở đó”.

[sửa] Các thương điếm phương Tây

Trong thế kỷ 17, có hai thương điếm phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến: thương điếm Hà Lan (1637-1700) và thương điếm Anh (1672-1683). Đây là văn phòng đại diện kiêm nhà kho của các Công ty Đông Ấn của Hà Lan và Anh. Công ty Ấn Độ của Pháp cũng được phép thành lập một thương điếm ở Phố Hiến vào năm 1680, nhưng trên thực tế đã không có hoạt động gì đáng kể. Đây là một quần thể kiến trúc được xây bằng gạch, nằm ở phía dưới Phố Hiến, quãng gần thôn Nễ Châu và Vạn Mới.

Từ thế kỷ 18, quần thể kiến trúc này đã bị huỷ hoại trở thành đồng ruộng. Đến cuối thế kỷ 19, tác giả người Pháp G. Dumoutier đã miêu tả: "Nằm ở phía sau các vườn tược, ở giữa đường phố lớn của Phố Hiến và con đê, các thương điếm này bao gồm nhiều địa khu hình tứ giác, đất nền đã được nâng cao lên, lấy từ con hào được đào bao bọc xung quanh. Đường hào này hình chữ nhật rộng và sâu, thường khô về mùa đông, và cung cấp nước cho việc trồng lúa về mùa mưa. Vào thời kỳ có các thương điếm nước ngoài, dòng sông mà ngày nay đã ở cách xa 2 km, còn chảy sát gần chân đê và mặt bằng đê ở trước các ngôi chùa đã được dùng làm bến đậu dỡ hàng cho thương cảng".

Thế kỷ 17, các thương nhân Hà LanAnh đã cho đào một con kênh từ sông Hồng vào tới các thương điếm cho thuyền bè thuận tiện đi lại, hai bên bờ có đắp đê con. Con kênh này cũng nối các thương điếm phương Tây với một đầu là cảng sông và một đầu bên kia là khu phố châu Á (tức Phố Khách), hơn nữa còn có thể là một phương tiện cung cấp nước sinh hoạt cho khu thương điếm.

[sửa] Các công trình kiến trúc văn hoá

Phố Hiến là đô thị của các thương gia người Việt và ngoại quốc, vì vậy nó mang những nhu cầu tâm linh văn hoá của nhiều cộng đồng người khác nhau, thể hiện qua những công trình kiến trúc. Có thể nói, đã có một thời kỳ trong lịch sử mà Phố Hiến đã là một đô thị đa văn hoá và mang dáng dấp quốc tế.

Nổi bật là các phong cách kiến trúc Việt Nam và phong cách kiến trúc Trung Hoa (với sắc thái vùng Phúc Kiến, phía Nam Trung Quốc), thấp thoáng có phong cách kiến trúc châu Âu (nhà thờ Gô-tích Phố Hiến). Nhiều khi, các phong cách kiến trúc đó pha trộn lẫn nhau. Tại Phố Hiến tổng cộng có tới 60 di tích lịch sử văn hoá. Những kiến trúc tôn giáo của người Việt ở Phố Hiến gồm nhiều loại hình như đền, chùa, đình, miếu... Có thể kể đến những công trình nổi tiếng như đền Mây ở Xích Đằng (thờ tướng quân Phạm Phòng Ất), đền Ngọc Thanh ở Nễ Châu (thờ vợ thứ của vua Lê Hoàn), đền Trần (thờ Trần Hưng Đạo), đền Ủng (thờ Phạm Ngũ Lão)... Các chùa lớn ở Phố Hiến có chùa Chuông, chùa Hiến (Thiên Ứng tự), chùa Nễ Châu. Ngoài ra còn có nhiều đình, văn miếu. Người Hoa sinh sống ở Phố Hiến đã để lại nhiều công trình kiến trúc tôn giáo như đền Mẫu (thờ Dương Qu‎ý Phi), đền Thiên Hậu (thờ Lâm Tức Mặc), Võ Miếu (thờ ba anh em Lưu Bị, Quan Vân Trường và Trương Phi)…

Nhà thờ Kitô giáo ở Phố Hiến là một nhà thờ cổ, xây dựng từ thế kỷ 17 theo kiểu Gô-tích, chưa rõ lai lịch, tương truyền là do các giáo sĩ Bồ Đào NhaTây Ban Nha xây. Mặt khác, du k‎ý của William Dampier lại nói đến hai vị giám mục người Pháp ở Phố Hiến lúc đó là Deydier và J.de.Bourges. Hai giám mục này đã cho xây "một ngôi nhà đẹp nhất thành phố. Đó là một toà dinh thự thấp, mỹ lệ ở đầu phía bắc thành phố, cạnh bờ sông. Nó có một vòng tường bao khá cao, có một cổng lớn trông ra mặt phố, từ hai bên người ta có thể nhìn thấy nhà cửa trại đến tận toà dinh". Không rõ ngôi nhà này có liên quan gì đến nhà thờ Phố Hiến.

Cũng như ở các đô thị Việt Nam khác, bên cạnh những kiến trúc bằng gạch ngói, đại bộ phận nhà ở của dân đều bằng gỗ tre nứa, lại ở sát nhau. Nhiều vụ hoả hoạn đã xảy ra. Tài liệu của Công ty Đông Ấn của Anh cho biết: năm 1673, hàng trăm nóc nhà Phố Hiến đã bị cháy. Lưu trữ của Hội truyền giáo đối ngoại ghi lại vụ cháy ở Phố Hiến tháng 7 năm 1867, "đã thiêu huỷ một nửa thành phố".

[sửa] Cộng đồng cư dân

Phố Hiến thế kỷ XVII-XVIII Trong lịch sử, Phố Hiến là một thành phố đa quốc tịch, trong đó thành phần chủ thể là người Việt và người Hoa. Những kiều dân ngoại quốc khác ở đây - thường trú hoặc tạm trú - là Nhật, Xiêm La, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…

[sửa] Người Việt

Số cư dân người Việt có quê gốc lâu đời ngay tại Phố Hiến là tương đối ít. Phần lớn dân cự ngụ ở Phố Hiến là từ các địa phương khác đổ về sinh sống làm ăn, đó là một cộng đồng cư dân tứ xứ. Theo tấm bia Chùa Hiến dựng năm 1709, đã có tới hơn 50 địa phương rải rác khắp miền Bắc đã có người di cư tới Phố Hiến làm ăn, như các huyện Chương Đức (Hà Tây ngày nay), Đường Hào (Hưng Yên), Thuỷ Nguyên (Hải Phòng), Nông Cống, Hoằng Hoá (Thanh Hoá), Bố Chính (Quảng Bình), Thanh Trì, Từ Liêm (Hà Nội).

Bộ máy hành chính có các cơ quan của Trấn Sơn Nam như Thừa ty, Trấn ty, Hiến ty. ở Phố Hiến cũng có đồn binh với nhiều quân sĩ đồn trú, nhưng không hề có thành luỹ bao bọc xung quanh. Các nhà nghiên cứu thường gọi Phố Hiến là “một đô thị bỏ ngỏ”. Quan chức trị nhậm Phố Hiến vào thời kỳ thịnh đạt nhất của đô thị này (trong nửa cuối thế kỷ XVII) là Lê Đình Kiên (1620-1704). Ông quê làng Thiết Danh, Thiệu Yên, Thanh Hoá, giữ chức Trấn thủ Sơn Nam trong suốt 41 năm (1664-1704), cho đến khi mất ở tuổi 84. Công đức ông rạng rỡ, được triều đình tín nhiệm, dân chúng yêu mến, các khách thương nước ngoài nể trọng. Sau khi ông mất, nhân dân đã dựng đền thờ tưởng niệm ông. Trong Tấm bia Anh linh vương do thương nhân Trung Quốc người Phúc Kiến là Trần Kế Đào cho dựng khắc ở Phố Hiến để ca ngợi Lê Đình Kiên, có đoạn viết: “Ngài yêu dân như yêu con, dẹp yên giặc biển, tiết kiệm tiêu pha, ngay cả con trẻ cũng biết và ca ngợi lòng trung của Ngài với vua với nước […] Chúng tôi là những thương nhân đến từ xa, không dám tự coi mình là những thần dân. Nhưng vì đã sống lâu năm ở Việt Nam, hưởng ân sủng của Ngài, chúng tôi tỏ lòng nhiệt thành sủng ái Ngài”. William Dampier cũng kể về Lê Đình Kiên như sau: “Viên quan trấn thủ ở đây [Phố Hiến] là một trong những đại thần của quốc gia, luôn có một số lớn quân lính trong thành phố và những quan chức thuộc hạ mà ông có thể tuỳ ý sử dụng trong bất cứ trường hợp nào […] Viên trấn thủ hoặc đại diện của ông ta đã cấp giấy thông hành cho mọi tàu bè xuôi ngược, ngay cả đến một chiếc thuyền nhỏ cũng không khởi hành được nếu không có giấy phép”. Viên trấn thủ Sơn Nam kế nhiệm Lê Đình Kiên vào năm 1704 đóng lị sở ở Phố Hiến là Đặng Đình Tướng, người quê làng Lương, huyện Chương Đức (Hà Tây), có họ hàng thuộc đàng ngoại với chúa Trịnh. Bia chùa Thiên ứng cho biết Đặng Đình Tướng và bà vợ là Bùi Thị Khang, hai vợ chồng đều rất sùng Phật, đã cúng tiền bạc cho nhà sư Châu Thuận và ni cô Diệu My xây dựng lại đền Linh Hiên ở làng Hoa Dương.

Ngoài 2 trấn thủ Sơn Nam, chúng ta được biết thêm tên của 2 viên Hiến sát sứ ty. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, năm 1670, Hiến sát sứ ty lúc đó là Lê Trí Bình đã bị giáng chức vì cớ đốc suất đắp đường để tính việc chưa được rõ ràng. Còn theo tấm bia ở xóm Dinh (Trác Văn, Duy Tiên, Hà Nam) thì năm 1679, Phan Tự Cường và Trần Công Sơn đã được bổ nhiệm làm Hiến sát và Phó Hiến sát sứ ty Sơn Nam. ít lâu sau, hai người này đã cho xây dựng trụ sở ty Hiến sát ở thôn Tường Lân.

[sửa] Hoa kiều và Nhật kiều

Bên cạnh cộng đồng người Việt, đông đảo người Hoa đã đến cư trú sinh nhai tại Phố Hiến. Trước đây Phố Hiến còn được gọi là Phố Khách, điều đó nói lên tính trội của yếu tố Hoa trong đô thị này. Người Hoa đến cư trú tại Phố Hiến từ nhiều địa phương khác nhau trong đó có hai nguồn chính. Thứ nhất là những người Hoa vượt biển từ Trung Quốc sang Việt Nam. Một số là những Hoa kiều di tản tị nạn - những người trung thành với nhà Tống và sau là nhà Minh - một số là những chủ tàu thương nhân buôn bán đường dài xuyên đại dương. Đại bộ phận những người Hoa này có quê gốc ở các tỉnh miền Nam Trung Hoa, đặc biệt ở các huyện phủ thuộc tỉnh Phúc Kiến (như Tân Giang, Triều Châu…). Có những người tuy quê gốc ở Phúc Kiến nhưng đã sang làm ăn ở đảo Hải Nam, như trường hợp của thương nhân Trần Kế Đào, người đã cho dựng Bia Anh linh vương ca ngợi công đức Lê Đình Kiên. Nguồn thứ hai là những Hoa Kiều từ Trung Hoa từ lâu đời đã di cư bằng đường bộ sang Việt Nam, sau đó lại tiếp tục di chuyển đến Phố Hiến. Trong đó có các Hoa Kiều từ Vạn Ninh (Móng Cái) và Vân Đồn, đặc biệt là từ Thăng Long - Kẻ Chợ đã đổ dồn về Phố Hiến.

Địa điểm tụ cư đầu tiên của người Hoa ở Phố Hiến là Hoa Dương, sau gộp thêm các xã Hoa Điền (Lương Điền), Hoa Cái (Phương Cái) hợp thành Tam Hoa. Các cửa hiệu của Hoa Kiều được tập trung ở Phố Khách, phố Bắc Hoà, Nam Hoà; nhiều nhà xây gạch ngói. Họ xây dựng nhiều đình, đền, chùa, miếu, quảng hội thờ các vị nhân thần người Trung Quốc như Quan Vân Trường, Dương Qúy Phi, Lâm Tức Mặc. William Dampier miêu tả về người Trung Quốc ở Phố Hiến như sau: “Tất cả họ đều tết bím tóc dài ở đằng sau như phong tục của họ ở trong nước trước khi bị Mông Cổ chinh phục”. Một số đã lấy vợ người Việt Nam, sau đó trở thành người Minh Hương.

Tuyệt đại bộ phận người Hoa ở Phố Hiến làm nghề buôn bán. Một số có cửa hiệu ở các phố Bắc Hoà, Nam Hoà, bán các mặt hàng nhập từ Trung Quốc như vải vóc, đồ sứ, tạp hoá và thuốc bắc. Đại Nam nhất thống chí ghi ở 2 phố đó có làm và bán bông, vải, mật, đường cát. Một số phú thương Hoa Kiều buôn bán đường dài vượt biển, buôn bán Phố Hiến với vùng Hoa Nam, các đảo Hải Nam, Đài Loan. Đặc biệt, từ khi Nhật Bản có lệnh toả quốc (sakoku) vào năm 1636 cấm người Nhật xuất dương, thì các phú thương Hoa Kiều đã thay chân người Nhật độc quyền buôn bán tuyến Nhật Bản (Hirado, Nagasaki) - Phố Hiến, hoặc trực tiếp, hoặc chở thuê hàng hoá cho người phương Tây, nhất là người Hà Lan. Một số Hoa Kiều khác cũng chở các thuyền hàng buôn bán giữa Phố Hiến và các nước Đông Nam á phía nam, trong đó có thành phố Batavia ở Inđônêxia. Nhật kí lưu trữ của Công ty Đông ấn Anh có ghi lại trong khoảng 8 năm (từ 1672 đến 1680) các thuyền buôn Trung Hoa đã có 16 lần qua lại giữa Phố Hiến và Nhật Bản, 6 lần qua lại giữa Phố Hiến và Nam Dương. Các mặt hàng buôn bán thường là: các loại tơ (xuất sang Nhật Bản); bạc, đồng (nhập từ Nhật); hồ tiêu, đường, lưu huỳnh, diêm tiêu (nhập từ phía nam); tơ lụa, đồ gốm, đồ sơn (xuất đi Batavia…). Những Hoa Kiều buôn bán vượt đại dương nổi tiếng ở Phố Hiến được ghi lại là thuyền trưởng Nithoe (theo Nhật kí Công ty Đông ấn Anh) và thương nhân Trần Kế Đào.

Sang thế kỷ XVIII và XIX, trong khi việc buôn bán giữa phương Tây và Phố Hiến sa sút thì các Hoa thương vẫn trụ lại ở đô thị này, gần như nắm giữ độc quyền các hoạt động ngoại thương. Lúc này cũng có hiện tượng một số Hoa thương ở Phố Hiến di cư ngược trở lại Thăng Long - Hà Nội, như trường hợp các gia đình họ Phan ở phố Hàng Ngang. Hiện nay, vẫn có tới 14 họ thuộc các Hoa Kiều sinh sống ở Phố Hiến - Hưng Yên như các họ Ôn, Tiết, Hoàng, Lý, Trần, Bạch, Quách, Mã, Thái, Hà, Hứa, Từ, Lâm, Khu.

Người Nhật cũng đã đến Phố Hiến từ rất sớm vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Một số trong họ là thương nhân các Châu ấn thuyền (shuinsen) trước lệnh toả quốc (Sakoku) ban hành năm 1636. Từ năm 1604 đến 1636 đã có 47 Châu ấn thuyền đến Đàng Ngoài. Họ thường mang bạc, đồng đến mua đổi lấy các loại tơ hoặc vải lụa. Một số khác là các giáo sĩ và giáo dân Nhật Bản, có tên đạo theo chữ La Tinh, đã đi theo và phục vụ các giáo sĩ phương Tây tới Đàng Ngoài giảng đạo, trong đó có Giuliamo Piani bên cạnh cha cố Baldinotti và Pedro Marquez bên cạnh cha cố A. de Rhodes. Sau lệnh toả quốc của Mạc phủ Tokugawa, các kiều dân Nhật này không dám trở về tổ quốc mình vì sợ bị kết tội tử hình, đã nương náu ở lại Đàng Ngoài, trong đó có Phố Hiến.

Vì đã sinh sống lâu năm ở Việt Nam, những người Nhật này thường làm một số nghề như hoa tiêu dẫn tàu vào cửa sông, phiên dịch, môi giới… Trong chuyến đi của chiếc tàu Grol của Công ty Đông ấn Hà Lan đến Đàng Ngoài cập bến Phố Hiến năm 1637, thuyền trưởng Karel Hartsinck đã sử dụng viên hoa tiêu kiêm phiên dịch Guando, người phụ nữ Nhật Bản làm phiên dịch kiêm môi giới Ouru San, một số người môi giới Nhật Bản khác và một người phiên dịch Nhật Bản “rất giỏi tiếng Đàng Ngoài và tiếng Bồ Đào Nha”. Cũng theo nhật kí tàu Grol, người ta có thấy ở Đàng Ngoài cả một làng kiều dân Nhật làm đồ gốm theo kiểu gốm Nhật Hizen và một đoàn vũ nữ Nhật Bản. Tàu Zant của Công ty Đông ấn Anh đến Đàng Ngoài có đậu ở Phố Hiến năm 1672 cũng sử dụng một viên hoa tiêu kiêm phiên dịch tên là Domingo, là một người Nhật Bản theo đạo Thiên chúa giáo. Tại Phố Hiến trước đây có một khu đất được gọi là Nghĩa trang Nhật Bản, chứng tỏ sự có mặt của một cộng đồng người Nhật tại đó, nhưng nay đã bị huỷ hoại, trở thành hoang phế.

ở Phố Hiến ngoài người Trung Quốc và Nhật Bản còn có các thương nhân châu á khác đến buôn bán như Xiêm La, Mã Lai, Lữ Tống (Philíppin), nhưng không rõ họ có lưu trú lại không.

[sửa] Các khách thương phương Tây

Ngoài hai thành phần chính là người Hà Lan và người Anh đã từng lập thương điếm ở Phố Hiến, còn một số người Bồ Đào Nha và Pháp.

Người Bồ Đào Nha là người phương Tây đến Đàng Ngoài nói chung và Phố Hiến nói riêng sớm nhất. Ngay từ 1626, giáo sĩ Baldinotti đã từ Macao qua Phố Hiến tới Kẻ Chợ. Sau đó nhiều thuyền buôn Bồ Đào Nha đã đến Đàng Ngoài, qua lại trên sông từ Phố Hiến đến Kẻ Chợ. Đó là những thương nhân độc lập, không lập công ty, không đặt thương điếm. Nhật kí hành trình tàu Grol đã ghi lại, vào năm 1636, 3 thuyền buôn Bồ Đào Nha đã đến Đàng Ngoài, ngược Phố Hiến lên Kẻ Chợ mua tơ sống, đổi lại bán các loại vải dạ nhung, làm giá tơ tăng vọt lên. Những năm về sau, do sự cạnh tranh của Hà Lan và do chúa Trịnh nghi ngờ người Bồ đã ủng hộ giúp đỡ chúa Nguyễn chống lại Đàng Ngoài, việc buôn bán của người Bồ ở Phố Hiến có giảm sút. Tuy nhiên, một số người Bồ Đào Nha vẫn ở lại sinh sống ở Phố Hiến. Một phụ nữ Bồ ở Phố Hiến có tên Monica Dabada là người giàu có, lúc đầu đã có nhà cho Công ty Đông ấn Anh thuê làm trụ sở thương điếm, sau này cũng đã cho Công ty Đông ấn Anh thuê nhà ở Kẻ Chợ. Monica Dabada có chồng là người Pháp, làm phụ tá cho Công ty ấn Độ Pháp ở Phố Hiến.

Tuy đến sau so với những người phương Tây khác, đã có không ít những người Pháp sống ở Phố Hiến vào những năm 80 của thế kỷ XVII. Thương điếm của Công ty ấn Độ Pháp thành lập ở Phố Hiến năm 1680. Nhưng hoạt động của nó không đều và không sinh lợi như Công ty Đông ấn Hà Lan và Anh. Người Pháp xoay ra hoạt động truyền giáo, nói đúng hơn là kết hợp việc buôn bán với việc truyền giáo. Gyfford phụ trách thương điếm Anh ở Phố Hiến năm 1672 cho biết rằng: “người Pháp có một ngôi nhà ở đây, nhưng chúng tôi không thể phân biệt được rằng nó dùng cho những mục đích tôn giáo hay vì phương tiện kinh tế”. Đó là ngôi nhà xây bằng gạch mà William Dampier đã khen là “đẹp nhất thành phố” của hai giám mục Deyder và J. de Bourges. Dampier còn cho biết thêm là “các giám mục này hoạt động dưới danh nghĩa được mượn là các nhà mại biện thương nghiệp người Pháp, họ đã có thể phần nào tự do truyền đạo cho các tín đồ và cải giáo cho những người dị đạo […] ở Phố Hiến, ngoài hai giám mục Pháp trên còn cò 10 cố đạo người châu Âu, thêm 3 người bản xứ Đàng Ngoài, cho đến lúc đó đã cải đạo cho được 14.000 người. Các giáo sĩ Pháp ở Phố Hiến khi muốn lên kinh đô Thăng Long đều phải xin và được cấp phép, và họ thường tìm cách nấn ná ở lại đó một thời gian…”. Mặt khác, năm 1680, thương nhân người Pháp Chappelain đi trên con tàu Tonquin đã đến Phố Hiến và theo lời khuyên của giám mục Deydier, mang nhiều đồ hiếm đẹp mà làm quà dâng tặng vua chúa và các quan, bán hàng rẻ hơn người Anh để được phép mở thương điếm. Nhưng sau do hoạt động không kết quả, Chappelain đã bỏ đi Bantam (Inđônêxia) để lại viên phụ tá của mình và một người giúp việc. Viên phụ tá này vào đầu năm 1682 đã kết hôn với người phụ nữ Bồ Đào Nha Monica Dabada đã nói ở trên.

[sửa] Các hoạt động kinh tế của Phố Hiến thế kỷ XVII-XVIII

[sửa] Buôn bán nội địa

Trong quá trình thành lập và phát triển, Phố Hiến từ khi còn là nơi tụ cư, một thị trấn sau đó phát triển thành một đô thị lớn vào thế kỷ XVII đã luôn mang tính nổi trội đậm sắc thái kinh tế. Lúc đầu là các hoạt động buôn bán quá mạng lưới chợ và các hoạt động dịch vụ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn chủ yếu, đặc biệt là ngoại thương. Điều kiện tự nhiên thuận lợi của Phố Hiến là một bến sông, đầu mối của các tuyến giao thông vùng. Trên cơ sở đó, các yếu tố kinh tế - xã hội mang tính kích thích là một cụm chợ, một số phường thủ công (với 20 phường, chủ yếu phục vụ tại chỗ đời sống của cộng đồng cư dân địa phương). Điểm tụ cư ban đầu của số người Hoa tị nạn (làng Hoa Dương) cũng là một hạt nhân kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ trong những thời kỳ sau. Bước chuyển về chất trong đời sống kinh tế của Phố Hiến là khi có sự tác động của một nhân tố chính trị (sự thành lập Hiến sát sứ ty Sơn Nam) vào cái nền tảng kinh tế đó và hệ quả là sự chuyển dịch trọng tâm từ những yếu tố nội sinh (thủ công thương nghiệp địa phương) sang những yếu tố ngoại sinh (buôn bán với nước ngoài). Khi ngoại thương đã chiếm vị trí trọng yếu, thì đồng thời nó cũng đã kích thích cả thủ công nghiệp và thương nghiệp nội địa.

[sửa] Buôn bán với nước ngoài

Ngoài các hoạt động buôn bán của các thương nhân người Hoa, Nhật, Bồ, Pháp đã được phần nào đề cập ở trên, đặc biệt đáng chú ý là các hoạt động kinh tế của các thương nhân Hà Lan và Anh, những công ty Đông ấn đã đặt ở Phố Hiến những thương điếm của mình và làm ăn buôn bán tương đối có hiệu quả.

Các lái buôn Hà Lan là những người phương Tây đặt thương điếm sớm nhất ở Phố Hiến. Ngay sau chuyến đi của Karel Hartsinck trên chiếc tàu Grol từ Hirado (Nhật Bản) đến Đàng Ngoài năm 1637, thương điếm ở Phố Hiến đã được mở. ý đồ của họ là lợi dụng lệnh cấm xuất dương (toả quốc) của Nhật Bản, người Hà Lan sẽ thay thế người Nhật trong việc buôn bán với Đàng Ngoài. Về phía Việt Nam, chính quyền chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cũng có ý ưu tiên người Hà Lan, mong muốn một sự viện trợ quân sự của Hà Lan cho Đàng Ngoài trong cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Công việc buôn bán của Công ty Đông ấn Hà Lan với Đàng Ngoài cũng khá phát đạt. Liên tiếp các năm sau đó đều có các tàu buôn của hà Lan đến Phố Hiến và Kẻ Chợ để mua hàng hoá, chủ yếu là tơ.

Năm 1638, Karel Hartsinck lại đến Phố Hiến trên chiếc tàu Zandwourt mang theo tiền mặt và hàng hoá. Cùng năm đó, đến Phố Hiến cũng có chiếc tàu Hà Lan Waterlooge Verve và chiếc Wijdenes (do Duijker chỉ huy) Năm 1639, N. Couckebaber đi trên tàu Rijp và đến Phố Hiến, mang theo tiền, mua được 685 tạ tơ. Năm 1640, K. Hartsinck trên tàu Lis và Egel, mang tiền mua tơ sống và các hàng lụa, lĩnh. Năm 1641, K. Hartsinck lại đến Phố Hiến trên chiếc tàu Klein Rotterdam và Meerman, mang theo tiền mua được 50 kiện tơ và 500 tấm lụa. Năm 1642, Anthonio van Brouckhorst đến Phố Hiến trên chiếc tàu Zeeuwsche Nachtegqal mag theo 2 vạn lạng bạc. Cùng năm đó, Liesvelt đến Phố Hiến trên chiếc Meerman mua được 250 tạ tơ sống và 41 tạ quế. Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến tồn tại được 64 năm, ngay cả khi người Hà Lan được phép mở một thương điếm nữa ở Kẻ Chợ vào năm 1645. 13 đời giám đốc thương điếm lần lượt là: K. Hartsinck (1637-1640); A. van Brouckhorst (1640-1647); Ph. Schillman (1647-1649); N. de Voogel (1649-1659); Hendrik Baron (1659-1663); L. Morre (1663-1666); D. Verdonk (1666-1667); C. Rond (1667-1687); J. Sibens (1687-1691) và J. van Loo (1691-1700).

Những thập kỷ đầu, công việc buôn bán của thương điếm Hà lan ở Phố Hiến diễn ra khá suôn sẻ và được nhà nước Lê - Trịnh chiếu cố ưu tiên so với những người ngoại quốc khác. Những người Hà Lan ở Đàng Ngoài cũng như ở những nơi khác “chịu biết uốn mình theo hoàn cảnh”. Họ thường đi lại tặng các món quà cho vua Lê chúa Trịnh và các quan phụ trách khám tàu, thu thuế. Vua Lê Thần Tông đã nhận Karel Hartsinck làm con nuôi (nghĩa tử). Mặt khác các chúa Trịnh cũng muốn tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ vũ khí của Hà Lan trong cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Năm 1642, các tàu Hà Lan đã từng hỗ trợ chúa Trịnh trong một cuộc thuỷ chiến tấn công chúa Nguyễn, nhưng không thành công.

Tuy nhiên, trong thời gian sau, thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến đã làm ăn kém phát đạt, dần sa sút. Sau khi cuộc chiến Trịnh - Nguyễn chấm dứt (1672), chúa Trịnh dần tỏ thái độ lạnh nhạt với Hà Lan. Tình hình buôn bán trở nên khó khăn hơn, lại thêm sự cạnh tranh của các lái buôn phương Tây khác, đặc biệt là người Anh. Những vụ rắc rối và chạm giữa lái buôn Hà Lan với các quan chức địa phương và nhà nước Lê - Trịnh ngày càng nhiều. Lái buôn Hà Lan than phiền về chính sách gây phiền hà, mua rẻ bán đắt của chính quyền Lê - Trịnh, cũng như thái độ sách nhiễu, tham nhũng ăn hối lộ của các quan tuần hà kiểm soát tàu thuyền. Ngược lại, chính quyền Lê - Trịnh trách cứ người Hà Lan là không biết điều, tuy đã được chiếu cố ưu tiên mà vẫn không chịu tuân theo các luật lệ của Đàng Ngoài. Theo đó, các tàu buôn Hà Lan thường khai man để trốn lậu thuế, thường là chỉ khai man một nửa số hàng hoá có thực, gây thiệt hại cho triều đình. Sau khi cân nhắc, năm 1700 giám đốc thương điếm J. van Lô đã quyết định đóng cửa vĩnh viễn thương điếm Đàng Ngoài, rút nhân viên, thiết bị về Batavia, không gặp lại nhà vua. Chúa Trịnh cũng tỏ thái độ lạnh nhạt, không tiễn đưa, nhưng có gửi thư cho toàn quyền Batavia, theo đó, “nhà vua không thể không chống lại việc toàn quyền đã rút về các nhân viên công ty của mình, ngừng buôn bán với Đàng Ngoài, tuy nhiên nhà vua vẫn hy vọng rằng sau này Batavia sẽ thay đổi ý kiến”.

Người Anh đến Phố Hiến muộn hơn người Hà Lan. Sau những thất bại trong công việc buôn bán với Đàng Trong, năm 1672, theo một lệnh chung từ Luân Đôn, William Gyfford đi trên chiếc tàu Zant do thuyền trưởng A. Parrick chỉ huy, đã từ Bantam (Inđonêxia) đến Đàng Ngoài ngày 25/6/1672, theo đường cửa sông Thái Bình (tức cửa sông Đàng Ngoài). Gyfford tới Phố Hiến ngày 13/7/1672 và được các quan chức địa phương cho phép thành lập ở đó một thương điếm cùng với thương điếm Hà Lan đã có trước đó. Tuy nhiên vì lúc đó vua Lê Gia Tông và chúa Trịnh Tạc đang bận đi đánh chúa Nguyễn, nên phải đợi đến năm sau (1643), khi quay lại, Gyfford mới được chúa Trịnh cho tiếp kiến. Ngay từ đầu, Gyfford đã được thông báo rằng chỉ được phép ở lại Phố Hiến và rằng “đừng có nghĩ đến việc thành lập thương điếm ở Kẻ Chợ, vì những người ngoại quốc đều không được lưu trú tại Kinh đô, trừ người Hà Lan”. Ngày 20/7/1672, quan trấn thủ Phố Hiến đã cho người Anh ở một ngôi nhà trong thị trấn, được mô tả là “bất tiện, vì nó ở xa bờ sông, vận chuyển hàng hoá khá vất vả”. Ngôi nhà này sau chuyển giả cho thương nhân Hoa Kiều là Nithoe, lúc đó đang đi buôn bán ở Nhật Bản. Đến tháng 10/1672, Gyfford dời đến một ngôi nhà thuê của Monica Dabada, là một ngôi nhà làm bằng tre, phòng thứ nhất dùng làm văn phòng, phòng thứ hai dùng làm kho, có trồng nhiều cây dâu xung quanh nhà. Chỉ đến tháng 8/1679, cuối cùng người Anh mới được cấp cho một miếng đất gần thương điếm Hà Lan ở Kẻ Chợ và được xây dựng thương điếm của mình ở đó. Nhưng người Anh vẫn còn ở lại Phố Hiến cho đến năm 1683, trước khi rời hẳn lên Kẻ Chợ. Gyfford điều hành thương điếm Anh ở Phố Hiến từ 1672 đến 1676, sau đó là Benjamin Sanjer. Viên giám đốc thương điếm Anh cuối cùng ở Phố Hiến là William Hodges.

Trong những năm đầu, thương điếm Anh ở Phố Hiến làm ăn tương đối phát đạt, cạnh tranh với các đối thủ của mình như các thương nhân Hà Lan, Trung Quốc, một phần nhờ tài tháo vát, ứng xử khôn khéo của W. Gyfford. Ngoài tàu Zant, một số các tàu buôn Anh xuất phát từ Bantam thường qua lại buôn bán ở Phố Hiến, như các tàu Flying Eagle, Formosa. Các mặt hàng nhập của Công ty Đông ấn Anh vào Đàng Ngoài qua cửa khẩu Phố Hiến thường là lưu huỳnh, diêm tiêu (nguyên liệu tạo thuốc súng), vũ khí, hợp kim kẽm-đồng-sắt dùng để đúc tiền, các loại dạ và vải khổ rộng Anh, những đồ kỹ xảo ngoại quốc dành cho vua chúa. Mặt hàng người Anh ở Phố Hiến đặt mua để xuất khẩu nhiều nhất và chủ yếu là các loại tơ lụa, nhung, dưới dạng tơ sống, tơ đã chuốt, đã dệt thành tấm, trợ hoặc dệt hoa với rất nhiều loại hạng khác nhau. Trong đó loại được ưa chuộng nhất và cũng giá đắt nhất là các loại lĩnh. Thường thường, thương điếm Anh giao mẫu đặt hàng gia công cho các thợ dệt Đàng Ngoài, một số lớn tập trung ở các Xứ Bắc (tức Kinh Bắc) và Xứ Tây (Sơn Tây), đem về giao hàng tại thương điếm Phố Hiến. Sau tơ lụa, một mặt hàng Đàng Ngoài mà thương điếm Anh ở Phố Hiến ưa chuộng, tìm mua để xuất cảng là đồ sơn, nhất là trong những năm 1680. Năm 1682, Luân Đôn đặt mua hàng đồ sơn đủ mọi loại, nhất là các mẫu mã mới lạ và quí hiếm. Sản phẩm có thể là những đồ sơn được chế tạo ở Đàng Ngoài mà cũng có thể là những đồ gỗ được chế tạo tại các công trường thủ công nước Anh rồi mang sang Đàng Ngoài gia công sơn thếp, bao gồm các loại bàn ghế, hòm rương, hộp, khay, khung gương, ngăn kéo, mành che… sơn màu đen hoặc có trang trí hoa lá, chim muông. Ngoài ra thương điếm Anh còn đặt mua một số vật liệu sản phẩm khác như đồ gốm sứ, hương liệu, xạ hương, lâm thổ sản… Phương thức mua bán ngoài việc trả tiền mặt còn có trao đổi hàng hoá như diêm tiêu, lưu huỳnh đổi lấy tơ lụa, lĩnh. Trong công việc giao dịch buôn bán, thương điếm Anh ở Phố Hiến cũng đã gặp phải một số khó khăn, trục trặc. Người Anh than phiền nhiều về thái độ sách nhiễu của một số viên quan tàu vụ, những việc cầu cạnh, hối lộ cho giới quan chức, những món hàng bị ép trả giá thấp hoặc những món nợ không đòi được. Một số vụ việc rắc rỗi cũng đã xảy ra, William Dampier kể lại câu chuyện Brewster đã chuyên trở từ Kẻ Chợ 2 chiếc đồng hồ lớn do các thợ Đàng Ngoài đúc, mỗi chiếc nặng khoảng 500 cân Anh, đi qua Phố Hiến đã bị các quan chức trấn thủ Phố Hiến lệnh đưa lên bờ tịch thu… Sau những lần cân nhắc, kể cả dự định huỷ bỏ, thương điếm Anh ở Phố Hiến đã được chuyển rời lên Kẻ Chợ vào năm 1683, tiếp tục kinh doanh, sau đó đến năm 1697 thì đã đóng cửa vĩnh viễn.

[sửa] Quá trình suy thoái của Phố Hiến

Thời kỳ hoàng kim, phồn thịnh nhất của Phố Hiến là vào khoảng giữa thế kỷ XVII, từ những năm 30 đến những năm 80 của thế kỷ này. Sau đó tiếp theo là một quá trình suy thoái, dần dần diễn ra trong gần 2 thế kỷ để cuối cùng đô thị sầm uất thứ hai trong cả nước này chỉ còn để lại những kỷ niệm, trở thành một tỉnh lị Hưng Yên nhỏ bé.

Biểu hiện rõ nhất của sự suy thoái của Phố Hiến là sự sa sút trong các hoạt động buôn bán với nước ngoài, vốn là thế mạnh kinh tế chủ yếu của đô thị. Mặt khác, lúc này tình hình chính trị khu vực và hệ thống kinh tế thương mại biển Đông cũng đã có những chuyển biến. Trung Quốc, sau khi dẹp yên cuộc nổi dậy của Trịnh Thành Công ở Đài Loan năm 1683, một lần nữa đã bãi bỏ lệnh hải cấm, mở ra một thị trường đông đúc hấp dẫn đối với các Công ty Đông ấn phương Tây cũng như một nguồn xuất khẩu quan trọng các mặt hàng tơ lụa và đồ gốm sứ. Nhật Bản cũng chuyển sang chiến lược xuất khẩu bạc, vàng, tơ lụa. Các tuyến buôn bán đường biển trực tiếp trở nên thông thoáng hơn, không cần qua khâu trung gian trung chuyển, như trường hợp Đàng Ngoài, nữa. Trong hoàn cảnh đó, bước sang thế kỷ XVIII, ngoại thương Việt Nam và ở Phố Hiến nói riêng đã giảm thiểu đáng kể. Các thương điếm phương Tây ở Phố Hiến và Kẻ Chợ lần lượt đóng cửa, các tàu buôn phương Tây hầu như rất ít còn lại vùng Đàng Ngoài. Phố Hiến vắng hẳn các khách buôn nước ngoài, trừ người Trung Quốc là còn ở lại buôn bán. Tuy nhiên các hoạt động kinh tế của những Hoa Kiều ở Phố Hiến lúc này cũng đã khác trước. Những tàu buôn mà các chủ tàu là các đại thương Trung Quốc qua lại giữa Phố Hiến và Nhật bản không còn nữa. Việc buôn bán trực tiếp giữa Việt Nam và Trung Quốc một phần lớn đã chuyển qua đường Cửa Cấm với bến Ninh Hải, một số khác theo đường sông và đường bộ. ở Phố Hiến, các Hoa thương đã chuyển sang hình thức mở cửa hiệu buôn bán tại chỗ và kinh doanh dịch vụ.

Thế kỷ XIX, khi kinh đô chuyển vào Huế, một làn sóng của thương nhân Trung Hoa ồ ạt nhập cư vào Hà Nội, một số gia đình Hoa Kiều trước kia từ Kẻ Chợ di cư đến Phố Hiến nay quay ngược trở về Hà Nội, phần nào cũng làm cho Phố Hiến trở nên vắng vẻ đi. Cũng trong quá trình suy thoái về kinh tế, Phố Hiến đã mất dần đi vai trò quan trọng về chính trị. Bến cảng Phố Hiến do sự bồi lở của sông Hồng ngày càng trở nên bất tiện, làm Phố Hiến ngày càng cách xa dòng sông. Vì vậy, năm 1726, chính quyền Lê - Trịnh đã chuyển dời trấn lị Sơn Nam sang bên hữu ngạn sông Hồng thuộc huyện Duy Tiên. Tuy năm 1737, Thừa ty Sơn Nam có di chuyển trở lại Phố Hiến nhưng Hiến ty vẫn còn được giữ lại ở thôn Tường Lân, xã Trác Văn bên hữu ngạn. Năm 1741, trấn Sơn Nam được tách thành Sơn Nam thượng và hạ, trọng tâm chính trị đã chuyển xuống mạn dưới, ở Vị Hoàng (Nam Định ngày nay).

Cũng trong thế kỷ XVIII, nhiều biến động xã hội - chính trị đã diễn ra tại địa bàn Phố Hiến. Năm 1730, đê Mạn Trù vỡ, dân của nhiều vùng ở Sơn Nam trở nên nghèo đói, phải tha phương cầu thực. Tiếp đến là những cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu đã tàn phá vùng này, càng làm cho tiềm lực kinh tế của Phố Hiến kiệt quệ. Rồi sau đó là cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh. Sang đến thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, vai trò một đô thị kinh tế, một thương cảng quốc tế của Phố Hiến ngày nào giờ đây không còn nữa. Năm 1804, dưới thời Gia Long, trấn lị Sơn Nam thượng từ Phố Hiến đã được di chuyển về Châu Cầu (Phủ Lý ngày nay). Năm 1831, với cuộc cải cách của vua Minh mạng, tỉnh Hưng Yên được thành lập, thành tỉnh được xây dựng trên địa bàn Phố Hiến cũ, mang nhiều chức năng quân sự, nhưng đã mất đi hoàn toàn vai trò kinh tế của một trạm hải quan, lúc này đã được chuyển qua bến Ninh Hải (Hải Phòng). Cuối thế kỷ XIX, sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Cung cũ Hiến Nam, phàm người nước ngoài đến buôn bán thời đều tụ tập ở đây, phong vật phồn thịnh […] nhưng nay thì không còn được như trước”. Cuộc đời của một đô thị sầm uất nổi tiếng trong cả nước, chỉ đứng sau Kinh Kỳ, đã đi vào lịch sử.