Giao Chỉ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Giao Chỉ nguyên là tên gọi của một bộ trong số 15 bộ của nước Văn Lang thời xưa.

Nhà Triệu sau khi thôn tính Âu Lạc đã chia Âu Lạc thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân.

[sửa] Quận Giao Chỉ và bộ Giao Chỉ thời Bắc thuộc

Khi nhà Hán đô hộ Việt Nam vào năm 111 trước Công nguyên thì Âu Lạc bị chia thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân như ở thời nhà Triệu. Đứng đầu quận là thái thú. Quận Giao Chỉ (Giao Chỉ quận) nằm trong bộ Giao Chỉ (Giao Chỉ bộ). Đứng đầu bộ Giao Chỉ là một thứ sử. Quận trị của quận Giao Chỉ có thể ban đầu đã đặt tại Mê Linh, sau này đặt tại Liên Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Khi Chu Xưởng làm thái thú Giao Chỉ đã dời quận trị đến Long Biên.

Bộ Giao Chỉ là một cấp hành chính của nhà Tây Hán, gồm 9 quận là Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Đạm Nhĩ, Châu Nhai (Đạm Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (nay thuộc Quảng TâyQuảng Đông). Sau này nhà Đông Hán đổi bộ Giao Chỉ thành Giao Châu trên cơ sở đề nghị của Sĩ Nhiếp, thái thú quận Giao Chỉ.

Theo sách Tiền Hán thư, địa lý chí thì quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên và Chu Diên. Theo nhận định của Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời (NXB Văn hóa Thông tin, 2005) dựa vào các sách cổ thì Giao Chỉ phủ kín đất Bắc Bộ ngày nay, trừ vùng thượng lưu sông Đà và thượng lưu sông Mã, đồng thời ăn sang cả vùng tây nam Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Riêng góc tây nam tỉnh Ninh Bình là địa đầu của quận Cửu Chân (nay thuộc Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). Sau này nhà Hán đặt thêm quận Nhật Nam ở phía nam quận Cửu Chân (khoảng từ đèo Ngang vào đến Quảng Nam).

Thời Hán mạt và Tam Quốc, nhân dân Giao Chỉ đã nhiều lần nổi lên giết chết các thứ sử Giao Châu là Chu Phù rồi Trương Tân. Sau đó nhà Hán đã phong cho thái thú Giao Chỉ Sĩ Nhiếp làm Tuy Nam Trung lang tướng, tổng đốc 7 quận. Năm 210, Tôn Quyền nước Đông Ngô sai Bộ Chất sang làm thứ sử Giao Châu thì Sĩ Nhiếp tuân phục.

[sửa] Chia tách Giao Châu

Sau khi Sĩ Nhiếp chết, năm 226, Đông Ngô đã chia Giao Châu ra làm hai châu: Quảng Châu gồm các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Giao Châu gồm các quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và cử Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp làm thái thú Cửu Chân, nhưng Sĩ Huy không tuân lệnh mà dấy binh chiếm giữ Giao Chỉ. Thứ sử Giao Châu là Đào Lương và thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại cùng hợp binh tiến đánh và giết chết mấy anh em Sĩ Huy. Khi đó Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ và đến năm 264 mới chia lại thành Quảng Châu (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (trị sở tại Long Biên). Giao Châu gồm có 6 quận: Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ Bình, Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam.

Quận Giao Chỉ lúc này có 14 huyện: Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Liên Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, Ngô Hưng, Bắc Đái, Kê Từ, An Định, Vũ An và Quân Bình với 12.000 hộ.

Nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, cử Dương Tắc làm thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân. Đào Hoàng, bề tôi của Đông Ngô đánh chiếm được Giao Chỉ và Cửu Chân, được làm thứ sử Giao Châu, sau này Tôn Hạo phong cho làm Giao Châu mục.

Đến đời nhà Tùy, quận Giao Chỉ gồm 9 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Long Bình, Bình Đạo, Giao Chỉ, Gia Ninh, Tân Xương và An Nhân.

[sửa] Ý nghĩa tên gọi Giao Chỉ

Giao Chỉ còn được dùng để gọi người Việt cổ. Chữ Giao 交 nghĩa là giao nhau, qua lại, kết hợp với nhau. Riêng chữ Chỉ không được chép và lý giải thống nhất.

Các sách Sử ký Tư Mã Thiên, Tiền Hán thư,... viết chữ Chỉ có bộ "phụ" ở bên: 阯. Còn các sách Hậu Hán thư, Từ nguyên, Từ hải,... lại viết có bộ "túc" ở bên: 趾.

Tuy vậy, bộ Từ hải và học giả Nguyễn Văn Tố cho rằng viết chữ Chỉ nào cũng được. Theo Từ hải, chữ 趾 có 4 nghĩa:

  1. Cùng nghĩa với "cước" là chân
  2. Nghĩa là "cước chỉ", tức ngón chân
  3. Nghĩa là "tông tích", tức dấu tích
  4. thông nghĩa với chữ chỉ có bộ thổ 址, nghĩa là cái nền, nền móng, như "cơ chỉ", "trụ chỉ"

Do vậy chữ Chỉ được hiểu theo nhiều cách, từ đó chữ Giao Chỉ (交趾 hoặc 交阯) cũng được hiểu theo nhiều cách. Đỗ Hựu trong bộ Thông điển cho rằng: Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái). Ý kiến này được nhiều học giả Trung Hoa và Việt Nam chấp nhận.

Bộ Từ nguyên (quyển Tý, trang 141) bác lại ý kiến trên mà cho rằng: Theo nghĩa cũ bảo hai ngón chân cái giao nhau là Giao Chỉ, nhưng xét đời cổ bên Hy Lạp, có tiếng "đối trụ", có tiếng "lân trụ" để gọi loài người trên thế giới. "Đối trụ" là phía Nam, phía Bắc đối nhau, "lân trụ" là phía Đông, phía Tây liền nhau. Sở dĩ có tên Giao Chỉ là hợp vào nghĩa "đối trụ", vì dân tộc phương Bắc gọi dân tộc phương Nam, cũng như một chân phía Bắc, một chân phía Nam đối nhau, không phải thực là chân người giao nhau.

Các nhà sử học Việt Nam kể từ Nguyễn Văn Siêu, Đặng Xuân Bảng, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh,... đều theo cách giải thích thứ hai này.

Năm 1868, bác sĩ Thorel trong đoàn thám hiểm của Doudart de Lagrée đã nhận xét hiện tượng hai ngón chân cái giao nhau là "một đặc điểm của giống người An Nam". Sau này các học giả Pháp khác cũng ghi nhận điều này.

Hiện tượng hai ngón chân cái trẹo ra ngoài để có tư thế giao nhau khi hai bàn chân đặt song song gần nhau được gặp không chỉ ở các dân tộc Đông Dương mà còn ở các dân tộc khác như người Mã Lai, Xiêm, Trung Hoa, A rập, Melanesia và người da đen, chỉ khác nhau ở mức độ. Nhưng hiện tượng này rất hiếm gặp ở người châu Âu. Đây không phải là hiện tượng bệnh lý, mà có thể coi là một biến dị lại tổ (variation atavique) do xương mọc không thẳng như bình thường.