Công an Nhân dân Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Công an Nhân dân Việt Nam là lực lượng gìn giữ trật tự công cộng và thi hành pháp luật của chính phủ Việt Nam.
Mục lục |
[sửa] Từ nguyên
Từ "công an" được xem là có nguồn gốc từ Trung Quốc, dùng để chỉ lực lượng cảnh sát ở Việt Nam và Trung Quốc. Có thông tin cho rằng từ này được ghép từ "Công bằng và An ninh" hoặc "Công cộng và trị An". Tuy nhiên, danh từ "công an" ở hai nước này dùng để chỉ lực lượng bán quân sự, thực hiện nhiệm vụ cảnh sát ở cả hành pháp và tư pháp.
[sửa] Lịch sử
Nguồn gốc của lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam được xem là bắt đầu từ các đội Tự vệ đỏ trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), các Đội Danh dự trừ gian, Hộ lương diệt ác... do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập với mục đích bảo vệ tổ chức.
Sau cuộc Cách mạng tháng Tám (nổ ra ngày 19 tháng 8 năm 1945), chính quyền lâm thời của Việt Minh đã có chỉ thị thành lập một lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. Tuy nhiên, lực lượng này chưa có tên gọi chung mà mang nhiều tên gọi khác nhau, như Sở Liêm phóng (ở Bắc Bộ), Sở trinh sát (ở Trung Bộ), Quốc gia tự vệ cuộc (ở Nam Bộ). Đến ngày 21 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 23/SL hợp nhất các lực lượng này thành một lực lượng có tên gọi thống nhất là Việt Nam Công an vụ có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Đứng đầu lực lượng này là một Giám đốc, mà người đầu tiên là Lê Giản.
Trong thời kỳ đầu, cơ quan quản lý ngành Công an là Nha Công an vụ, trực thuộc Bộ Nội vụ. Đến ngày 16 tháng 2 năm 1953, thành lập thành Thứ bộ Công an, trực thuộc Bộ Nội vụ, đứng đầu là một Thứ trưởng. Đến năm 1955, thì tách hẳn thành Bộ Công an. Năm 1959, sát nhập các lực lượng biên phòng thành lực lượng Công an vũ trang (nay là lực lượng Biên phòng) trực thuộc quyền quản lý của Bộ Công an (về sau lại chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng). Cũng từ năm này, lực lượng Công an được tổ chức vũ trang và bán vũ trang theo phiên chế, có phù hiệu và cấp hàm tương tự như quân đội.
Tên gọi bộ quản lý qua các thời kỳ:
- 1953-1975: Bộ Công an
- 1975-1998: Bộ Nội vụ
- 1998-nay: Bộ Công an
Trừ 2 bộ trưởng đầu tiên là dân sự, các đời bộ trưởng về sau đều là sĩ quan cấp tướng. Ngay cả bộ trưởng đương nhiệm cũng thuộc dân sự, sau được đồng hóa thành cấp hàm Đại tướng.
[sửa] Tổ chức - Cấp bậc
Hiện tại, tên chính thức của Công an Việt Nam là Công an Nhân dân, tổ chức theo hình thức bán quân sự và cơ cấu thành một bộ trong chính phủ, do một bộ trưởng đứng đầu.
Trong lực lượng Công an Nhân dân chia thành hai lực lượng riêng biệt là Cảnh sát Nhân dân và An ninh Nhân dân, thực thi các nhiệm vụ chuyên biệt.
- Nhiệm vụ của An ninh nhân dân
- Phòng ngừa, phát hiện, làm thất bại các âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.
- Hoạt động tình báo.
- Hướng dẫn và phối hợp với các tổ chức thực hiện công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá - tư tưởng, an ninh thông tin; tham gia thẩm định quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến bảo vệ an ninh quốc gia.
- Thực hiện quản lý công tác xuất cảnh, nhập cảnh; quản lý người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú tại Việt Nam; quản lý về bảo vệ bí mật nhà nước; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia ở biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
- Làm nòng cốt xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên các lĩnh vực, tại các địa bàn.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
- Nhiệm vụ của Cảnh sát nhân dân
- Phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, về bảo vệ môi trường; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật khác và kiến nghị biện pháp khắc phục; tham gia giáo dục đối tượng vi phạm pháp luật tại cộng đồng theo quy định của pháp luật.
- Quản lý hộ khẩu, cấp giấy chứng minh nhân dân; quản lý con dấu; quản lý về an ninh, trật tự các nghề kinh doanh có điều kiện và dịch vụ bảo vệ; quản lý và bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, trật tự công cộng; quản lý vũ khí, vật liệu nổ; quản lý, thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy; tham gia cứu hộ, cứu nạn theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Cấp bậc của cán bộ, chiến sĩ Công an Việt Nam phân thành 5 cấp: cấp tướng (4 bậc); cấp tá (4 bậc); cấp úy (4 bậc); cấp hạ sĩ quan (3 bậc); và cấp chiến sĩ (2 bậc); với danh xưng tương tự hệ thống cấp bậc của quân đội. Ngoài ra còn được phân loại thành Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật. Cấp bậc thấp nhất của Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật là Hạ sĩ và cao nhất là Thượng tá.
Bộ trưởng Bộ Công an đương nhiệm là Đại tướng Công an Nhân dân Lê Hồng Anh.
[sửa] Các bộ trưởng
- Trần Quốc Hoàn (1954-1981)
- Phạm Hùng (1981-1987)
- Mai Chí Thọ (1987-1991)
- Bùi Thiện Ngộ (1991-1996)
- Lê Minh Hương (1996-2002)
- Lê Hồng Anh (2002-)