Trần Tế Xương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Căn gác cũ của Tú Xương, 280 phố Hàng Nâu, Thành phố Nam Định
Phóng lớn
Căn gác cũ của Tú Xương, 280 phố Hàng Nâu, Thành phố Nam Định

Nhà thơ Trần Tế Xương (còn gọi là Tú Xương, tên khai sinh Trần Duy Uyên [1]; 1871–1907) là một nhà thơ nổi tiếng vì tính trào phúng và trữ tình của mình và được Tam Nguyên Yên Ðổ Nguyễn Khuyến, một nhà thơ cùng thời xếp vào loại thi hào bất tử:

Kìa ai chín suối Xương không nát
Có nhẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.

Ông sinh ngày 10 tháng 8 năm 1871 tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Sinh ra trong một gia đình nghèo, nên đường khoa cử của ông cũng khá long đong. Tuy đã bắt đầu tham dự thi từ lúc ông mới mười lăm tuổi, mãi đến năm Giáp Ngọ 1894, năm ông hai mươi tư tuổi, Trần Tế Xương mới đỗ Tú tài. Ông mất ngày 20 tháng 1 năm 1907, lúc mới 37 tuổi tại làng Địa Tứ, huyện Mỹ Lộc.

Mục lục

[sửa] Hoàn cảnh lịch sử

Mộ Trần Tế Xương tại thành phố Nam Định
Phóng lớn
Mộ Trần Tế Xương tại thành phố Nam Định

[sửa] Tác phẩm

[sửa] Khoa Thi

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.[2]
Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà![3]

[sửa] Tự cười mình

Ở phố Hàng Nâu[4] có phỗng sành
Mặt thời lơ láo, mắt thời xanh.[5]
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh.
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh.
Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi
Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành.
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười: thằng bé nó hay chơi...
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Tiền bạc phó cho con mụ[6] kiếm
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi.
Còn dăm ba chữ nhồi trong ruột
Khéo khéo không mà nó cũng rơi.[7]

[sửa] Đi thi

Tập tễnh người đi tớ cũng đi,
Cũng lều cũng chõng cũng vào thi.
Tiễn chân, cô[8] mất hai đồng chẵn,
Sờ bụng: thầy không một chữ gì!
Lộc nước còn mong thêm giải ngạch[9]
Phúc nhà nay được sạch trường qui.
Ba kì trọn vẹn thêm kì nữa,
Ú ớ u ơ ngọn bút chì.[10][11]

[sửa] Thói Ðời

Người bảo ông điên, ông chẳng điên
Ông thương, ông tiếc, hóa ông phiền.
Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ[12]
Ðứa trọng thằng khinh, chỉ vị tiền.
Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch[13]
Ðược voi tấp tểnh lại đòi tiên.
Khi cười khi khóc khi than thở
Muốn bỏ văn chương học võ biền.[14]

[sửa] Chúc Tết

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước; đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết ở trong đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.[15]

[sửa] Thương vợ

Quanh năm buôn bán ở mom sông[16]
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc![17]
Có chồng hờ hững cũng như không![18]

[sửa] Ông Cò

Hà Nam danh giá nhất ông Cò,
Trông thấy ai ai chẳng dám ho.
Hai mái trống Tung, đành chịu dột;
Tám giờ chuông đánh, phải nằm co.
Người quên mất thẻ, âu trời cãi;
Chó chạy ra đường, chủ phải lo.
Ngơ ngẩn đi xia, may vớ được,
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to![19]

[sửa] Ghi chú

  1. Trần Duy Uyên thi hương bị hỏng nhiều lần nên đổi thành Trần Tế Xương, rồi Trần Cao Xương, rồi lại Trần Tế Xương. Nhưng sau 8 kỳ thi ông chỉ đậu tú tài nên mọi người gọi là Tú Xương (Theo Họ và tên người Việt Nam- PGS.TS Lê Trung Hoa- NXB Khoa học xã hội-2005).
  2. Toàn quyền Paul Doumer vừa ở Pháp sang nhậm chức, lần đầu chứng kiến cảnh thi của Việt Nam (và cũng là lần đầu trường Nam có một "quan Tây to" đến dự lễ xướng danh và phát quà thưởng (1 đồng hồ vàng hay bạc v.v...). Sau này trong hồi ký L'Indo-Chine française (Souvenirs) Doumer dành mấy tờ nhắc lại quang cảnh trường thi, nhưng vì không hiểu rõ nên viết nhiều điều sai lầm, chẳng hạn: sĩ tử vào trường được mang theo người hầu, trong khi thầy ngồi làm văn thì tớ nằm khểnh một góc đợi giờ sửa soạn cơm nước v.v. có lẽ Doumer đã lầm quan trường với thí sinh? Doumer còn ở lại đến 1901 mới về nước, và được chứng kiến thêm khoa 1900 nữa ở Nam Định.
  3. Trích ở trang Khoa cử: Ai là chủ khảo trường Hà Nam khoa Đinh Dậu (1897)?
  4. Phố Hàng Nâu (Nam Định), nơi Tú Xương ở.
  5. Có bản chép: "mắt thời nhanh"
  6. Chỉ vợ tác giả (nói bỡn)
  7. Trích ở trang Chủ đề: Thơ Tú Xương
  8. Tức vợ của tác giả
  9. Mong lấy thêm người đỗ
  10. Từ 1897, kỳ thứ tư phải thi quốc ngữ viết các chữ như a, ă, â, v.v. nhà nho dùng bút chì vẽ các chữ này, vừa tức cười, vừa tủi nhục
  11. Trích ở trang Chủ đề: Thơ Tú Xương
  12. Biết gì chuyện chữ nghĩa
  13. Tục ngữ: ở bể vào ngòi
  14. Trích ở trang Trần Tế Xương
  15. Trích từ trang Trần Tế Xương
  16. Tức sông Vị (Nam Định)
  17. Tác giả tự trách mình một cách chua chát, đồng thời cũng chửi vào mặt đời bạc bẽo
  18. Trích ở trang Chủ đề: Thơ Tú Xương
  19. Trích từ trang Trần Tế Xương

[sửa] Liên kết ngoài