Xứ Nghệ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Xứ Nghệ là tên chung của vùng Châu Hoan cũ (bao gồm cả Nghệ AnHà Tĩnh). Thực sự hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi là văn hóa Hồng Lam, có chung biểu tượng là núi Hồng, sông Lam. Mặc dù núi Hồng Lĩnh nằm trọn trong đất Hà Tĩnh và sông Lam nằm ở ranh giới giữa Nghệ An và Hà Tĩnh. Trung tâm của văn minh Xứ Nghệ nằm ở hai bên dòng sông Lam là phủ Đức Quang và phủ Anh Đô khi xưa, tức là các huyện Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh và các huyện Thanh Chương, Nghi Lộc, thành phố Vinh, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương, Anh Sơn của Nghệ An ngày nay. Sắp tới đây, thành phố Vinh sáp nhập một số huyện của Nghệ An và Hà Tĩnh như Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Xuân và trở thành đô thị loại một trực thuộc trung ương. Lúc đó Xứ Nghệ sẽ bị chia thành 3 đơn vị trực thuộc trung ương.

Mục lục

[sửa] Lịch sử Xứ Nghệ

[sửa] I- Đời Hùng Vương xưa và An Dương Vương

Xứ Nghệ là một trong 1/15 bộ của nước Văn Lang, có tên là Hoài Hoan

[sửa] II- Thời một nghìn năm Bắc thuộc

- nhà Tần: Xứ Nghệ thuộc Tượng quận;

- nhà Hán: là huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân;

- nhà Ngô: tách ra khỏi quận Cửu Chân, đặt làm quận Cửu Đức;

- nhà Tấn, nhà Tống vẫn theo như nhà Ngô;

- nhà Lương: chia đặt làm Đức Châu, Lỵ Châu và Minh Châu;

- nhà Tùy năm Khai Hoàng thứ 8 đổi Đức Châu làm Hoan Châu, Lỵ Châu làm Trí Châu; năm Đại Nghiệp thứ 3 hợp cả Minh Châu, Trí Châu và Hoan Châu, đổi lệ thuộc quận Nhật Nam;

- nhà Đường:

+ niên hiệu Vũ Đức chia quận Nhật Nam đặt làm Nam Đức châu, Lạo châu, Minh Châu và Hoan Châu,

+ năm Trinh Quán nguyên niên đổi Đức Châu lại làm Hoan Châu, còn Hoan Châu cũ thì đổi làm Diễn Châu;

+ năm thứ 16 bỏ Diễn Châu hợp vào Hoan Châu;

+ Đầu năm Thiên Bảo lại đổi là Hoan Châu, thuộc vào quận Nhật Nam;

+ từ năm Kiền Nguyên trở về sau gọi là Hoan Châu, rồi bỏ Tri Châu mà cho lệ thuộc vào Hoan Châu;

+ năm Quảng Đức thứ hai chia Hoan Châu đặt quận Long Trì thuộc Diễn Châu, lại gọi là quận Diễn Thủy.

[sửa] III-Thời kỳ đất nước độc lập, tự chủ

- Nhà Đinh, nhà Lê: gọi là Hoan Châu;

- nhà Lý: đổi làm trại; năm Thiên Thành thứ 2 (năm 1030)đổi tên là Nghệ An,

mà Diễn Châu thì đứng riêng làm châu;

- nhà Trần:

+ năm Nguyên Phong thứ 6 lại gọi là trại,

+ năm Long Khánh thứ 3 đổi Diễn Châu làm Diễn Châu lộ, chia Hoan Châu làm 4 lộ: Nhật Nam và Nghệ An nam, Nghệ An bắc, Nghệ An trung, cũng gọi là Nghệ An phủ;

+ năm Quang Thái thứ 10 đổi Nghệ An làm Lâm An trấn, Diễn Châu làm Vọng An trấn;

- Đời nhà Hồ đổi Diễn Châu làm Linh Nguyên phủ, cùng với Thanh Hóa, Cửu Chân, Ái Châu gọi là tứ phụ;

- thuộc Minh lại đổi làm 2 phủ Diễn Châu và Nghệ An;

- nhà Lê:

+ năm Thuận Thiên nguyên niên thuộc đạo Hải Tây;

+ năm Quang Thuận thứ 7 đặt làm Nghệ An thừa tuyên;

+ năm Hồng Đức thứ 21 đổi làm xứ;

Lúc bấy giờ, Xứ Nghệ gồm tám phủ:

1- Phủ Đức Quang quản lĩnh 6 huyện: Thiên Lộc (Can Lộc ngày nay), La Sơn (Ðức Thọ), Chân Phúc (Nghi Lộc), Thanh Chương, Hương Sơn và Nghi Xuân;

2- Phủ Diễn Châu quản lĩnh 2 huyện: Đông Thành (Yên Thành và Diễn Châu) và Quỳnh Lưu;

3- Phủ Anh Đô quản lĩnh 2 huyện: Hưng Nguyên và Nam Đường (Nam Ðàn, Ðô Lương, Anh Sơn);

4- Phủ Hà Hoa quản lĩnh 2 huyện: Thạch Hà và Kỳ Hoa (Kỳ Anh và Cẩm Xuyên);

5- Phủ Trà Lân quản lĩnh 4 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Vĩnh Khang và Hội Ninh;

6- Phủ Quỳ Châu quản lĩnh 2 huyện: Trung Sơn và Thúy Vân;

7- Phủ Ngọc Ma quản lĩnh 1 châu: Trịnh Cao;

8- Phủ Lâm An quản lĩnh 1 châu: Quy Hợp.

- Thời nhà Tây sơn: đổi làm Trung Đô:

Hoàng đế Quang Trung cho xây Phượng Hoàng Trung Ðô ở thành phố Vinh ngày nay,

lại gọi là Nghĩa An trấn;

- Thời nhà Nguyễn

+ Bản triều năm Gia Long nguyên niên lại đặt làm Nghệ An trấn;

+ năm Minh Mệnh thứ 12 chia Nghệ An trấn thành 2 tỉnh: Nghệ An và Hà Tĩnh;

+ năm Tự Đức thứ 6 đổi tỉnh Hà Tĩnh làm đạo, hợp vào Nghệ An;

+ năm thứ 29 lại đặt tỉnh Hà Tĩnh như cũ.....

- Năm 1976, Nghệ an và Hà tĩnh hợp thành tỉnh lớn Nghệ Tĩnh.

- Năm 1991, Nghệ Tĩnh lại tách ra Nghệ AnHà tĩnh.