Chiến tranh Việt Nam (miền Bắc, 1954-1959)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài Chiến tranh Việt Nam |
|
---|---|
Giai đoạn 1954–1959 | |
Miền Bắc – Miền Nam | |
Thuyết Domino | |
Giai đoạn 1960–1965 | |
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam | |
Kế hoạch Staley-Taylor | |
Sự kiện Phật Đản, 1963 | |
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm | |
Giai đoạn 1965–1968 | |
Miền Bắc – Chiến dịch Tìm-Diệt | |
Diễn biến Quốc tế | |
Tết Mậu Thân, 1968 | |
Giai đoạn 1968–1972 | |
Diễn biến Quốc tế | |
Việt Nam hoá chiến tranh | |
Chiến dịch: Lam Sơn 719 – Hè 1972 – Linebacker II |
|
Hiệp định Paris | |
Giai đoạn 1973–1975 | |
Chiến dịch: Tây Nguyên – Huế-Đà Nẵng |
|
Xuân 1975 – Hồ Chí Minh | |
Sự kiện 30 tháng 4, 1975 | |
Hậu quả chiến tranh | |
Chất độc da cam | |
Thuyền nhân | sửa tiêu bản |
Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959 là một phần của Chiến tranh Việt Nam.
Những người lãnh đạo miền Bắc lúc đó là những người Cộng sản được dân chúng tin tưởng và tung hô vì họ vừa chiến thắng cuộc chiến giành độc lập cho Việt Nam (xem Chiến tranh Đông Dương). Sau khi thắng Pháp, họ ngay lập tức bắt tay vào việc tổ chức đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt là vận dụng các phương pháp cực đoan của Mao Trạch Đông trong các "công tác phát động quần chúng" để đấu tranh giai cấp, thực hành chuyên chính vô sản và các công tác tuyên truyền khác. Các chiến dịch cải cách ruộng đất, hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo tư bản tư doanh đã san bằng các thành phần xã hội, tiêu diệt giai cấp hữu sản và không cho phép các chính kiến đối lập với Đảng Cộng sản. Đời sống xã hội dựa trên nguyên tắc kỷ luật hoá cao độ, các quyền tự do cá nhân và các tổ chức bị hạn chế đến mức chỉ còn là hình thức trong một "nhà nước-đảng". Xã hội nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc sống quân sự hoá toàn diện khi "mỗi người dân đều là một chiến sĩ".
Tuy nhiên, nhìn chung, xã hội miền Bắc trong thời gian 1954-1959 là một xã hội cực quyền cao độ, các chính sách của Đảng Cộng sản có gây ra bất bình và phẫn uất trong dân chúng nhưng về cơ bản người dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vẫn chấp nhận những mất mát và coi đó như điều cam chịu. Uy tín của Đảng vẫn rất cao, dân chúng vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của họ và họ vẫn động viên được sự hy sinh của dân chúng để chuẩn bị cho mục tiêu thống nhất đất nước mà tất yếu sẽ phải giải quyết bằng chiến tranh. Có lẽ các phương pháp phát động quần chúng của những người Cộng sản có mặt nào đó phù hợp với tâm lý của dân chúng ở những xã hội kém phát triển và mang nặng đặc điểm nông nghệ như xã hội miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ.
Quân đội Nhân dân Việt Nam được tổ chức lại, nhất là về mặt chính trị để bảo đảm trung thành tuyệt đối với đảng. Một cán bộ lý luận cộng sản cấp cao nhất, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, được biệt phái sang quân đội để thành lập Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam nhằm thực hiện chính sách của đảng trong quân đội. Công tác chính trị được đặt cao hơn công tác quân sự. Nhiều sĩ quan xuất thân từ thành thị, có kinh nghiệm tác chiến và học vấn tốt đã bị thay thế vì các tiêu chuẩn như thành phần lý lịch và không đủ độ tin tưởng của đảng. Thay vào đó là lớp sĩ quan xuất thân từ nông dân. Tuy đó là một xáo trộn lớn nhưng nó chủ yếu chỉ diễn ra trong hàng ngũ cán bộ sơ cấp và trung cấp. Hàng ngũ tướng lĩnh chỉ huy của quân đội vẫn không bị xáo trộn nhiều. Trong chuyện này có sự can thiệp của những lãnh tụ cấp cao nhất rất thực tế và ít cực đoan như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Việc hiện đại hoá quân đội được tiến hành nhưng chậm và không đồng bộ, nhiều sư đoàn bộ binh được thành lập thêm nhưng vẫn mang tính bộ binh đơn thuần, hoả lực thiếu, yếu và chắp vá. Quân đội chưa có các quân binh chủng kỹ thuật cao như không quân, radar...; hải quân, tăng thiết giáp còn đang trong quá trình sơ khai; phương tiện vận tải, thông tin liên lạc còn yếu kém. Những điều này phản ánh tình hình kinh tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lúc bấy giờ vì lúc đó đồng minh lớn nhất, Liên Xô, còn chưa định hướng được chính sách viện trợ của họ. Còn đồng minh Trung Quốc thì chưa hồi phục sau Chiến tranh Triều Tiên. Cả hai nước này cũng chưa muốn căng thẳng với Hoa Kỳ về vấn đề Việt Nam vào thời điểm đó.
Nhưng chính vào giai đoạn này miền Bắc đã bí mật cho tiến hành phát triển tuyến đường tiếp vận chiến lược: Đường Trường Sơn - còn được gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh. Đây sẽ là một tuyến vận chuyển chiến lược đảm bảo nhu cầu chiến tranh sẽ được mở rộng tại miền Nam sau này. Nhưng vào lúc đó tuyến đường này vẫn chỉ là các lối mòn trong rừng cho giao liên và các toán cán bộ vào nam.
Nói chung, các nỗ lực tranh đấu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào thời kỳ này là đấu tranh chính trị và ngoại giao để đòi tổng tuyển cử theo Hiệp định Genève, mà nếu nó xảy ra chắc chắn các lãnh tụ cộng sản sẽ thắng cử. Miền Bắc ở giai đoạn này đang tích luỹ nhưng chưa đủ khả năng để tiến hành chiến tranh tại miền Nam.