Mariah Carey

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mariah Carey năm 1998
Phóng lớn
Mariah Carey năm 1998

Mariah Carey (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1970) là một ca sĩ và nhạc sĩ thể loại pop, một nhà sản xuất âm nhạc và là một diễn viên không thường xuyên. Cô bắt đầu sự nghiệp âm nhạc vào năm 1990 dưới sự hướng dẫn của giám đốc hãng Columbia Records là Tommy Mottola. Cô là nghệ sĩ đầu tiên có 5 đĩa đơn đều đạt quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Mỹ. Sau khi kết hôn với Mottola vào năm 1993, một loạt các ấn phẩm âm nhạc thành công sau đó đã củng cố vị trí của cô như là một trong những nghệ sĩ thành công nhất của hãng Columbia. Trong thập niên 1990, cô là nghệ sĩ thành công nhất ở Mỹ (theo tạp chí Billboard) và là nghệ sĩ bán chạy nhất trên toàn cầu (theo giải thưởng World Music Awards).

Sau khi chia tay với Mottola vào năm 1996, cô hoàn toàn làm chủ khả năng sáng tạo hình ảnh và âm nhạc của bản thân, cũng như mang nặng âm thanh hip-hop trong những đĩa nhạc của mình. Sự nổi tiếng của cô bị suy yếu khi cô rời khỏi hãng Colombia vào năm 2001, và bị hãng Virgin Records cắt hợp đồng vào năm sau do sự suy sụp về cơ thể lẫn tinh thần bị công bố rộng rãi và do sự thờ ơ của công chúng với dự án phim và nhạc phim Glitter. Sau đó, Carey ký hợp đồng với hãng Island/Def Jam và, sau một giai đoạn chỉ đạt những thành công nhỏ nhoi, cô đã trở lại vị trí hàng đầu trên sân khấu âm nhạc vào năm 2005.

Giải World Music Awards đã gọi Carey là nữ nghệ sĩ bán chạy nhất mọi thời đạt vào năm 2000, và cũng là nữ nghệ sĩ có nhiều đĩa đơn quán quân nhất ở Mỹ. Bên cạnh đó, cô còn nổi tiếng với âm vực rộng và phong cách hát melisma.

Mục lục

[sửa] Cuộc sống ban đầu và sự phát hiện

Carey sinh tại Long Island, tiểu bang New York. Cô là con gái út của gia đình. Mẹ là Patricia Hickey, một ca sĩ opera và giáo viên thanh nhạc người Mỹ gốc Ireland theo đạo Công giáo La mã. Bố là Alfred Roy Carey, một kỹ sư hàng không người Venezuela gốc Phi. Vì là một gia đình đa chủng tộc, gia đình cô thường chịu đựng sự gièm pha, thù địch và đôi lúc là bạo lực, khiến cho gia đình phải thường xuyên chuyển nơi cư trú quanh vùng New York và Rhode Island. Sự căng thẳng đè trên gia đình khiến bố mẹ cô ly hôn khi cô 3 tuổi.[1] Carey đã rất ít liên lạc với bố, và mẹ cô thường làm nhiều nghề khác nhau để nuôi gia đình.

Trải qua nhiều thời gian ở nhà một mình, Carey đến với âm nhạc như một lối thoát. Cô bắt đầu đi hát vào lúc 3 tuổi, biểu diễn lần đầu tiên trước công chúng khi còn học cấp hai, và bắt đầu sáng tác vào đầu năm học cấp ba. Carey đã tốt nghiệp trung học tại trường Harborfields (ở quận Greenlawn, New York), mặc dù cô thường hay nghỉ học để làm ca sĩ demo cho các phòng thu âm địa phương. Tiếng tăm tầm tầm trong vùng Long Island đã cho cô cơ hội làm việc với những nhạc công như Gavin Christopher và Ben Margulies, cũng là những người đồng sáng tác với cô trong cuộn băng demo. Sau khi chuyển đến Thành phố New York, Carey đã làm nhiều nghề bán thời gian để trả tiền thuê nhà và hoàn tất năm trăm giờ học ở trường thẫm mỹ. Cô đã làm thợ uốn tóc cho một thẩm mỹ viện hạng sang và bỏ nghề sau khi người chủ yêu cầu cô đổi tên thành Echo. Cô đã làm hầu bàn và kiểm tra áo khoác, sau đó là làm ca sĩ hát đệm cho Brenda K. Starr.[2].

Năm 1988, Carey gặp giám đốc hãng Columbia là Tommy Mottola tại một bữa tiệc. Tại đó, Starr đã trao cho anh ta cuộn băng demo của Carey. Mottola nghe cuộn băng lúc rời khỏi buổi tiệc và rất ấn tượng. Anh ta trở lại bữa tiệc để tìm Carey nhưng cô đã rời khỏi buổi tiệc. Tuy nhiên, Mottola đã hẹn gặp và ký hợp đồng với cô. Câu chuyện như Cinderella này đã trở thành một phần quan trọng để quảng bá tên tuổi cho Carey trên con đường tiến thân.[3]

[sửa] 1990–92: Thành công thương mại đầu tiên

Carey đồng sáng tác tất cả những tác phẩm gốc trong đĩa nhạc đầu tiên Mariah Carey vào năm 1990, và tiếp tục đồng sáng tác gần như tất cả các tác phẩm trong toàn bộ sự nghiệp, nhưng cô thể hiện sự không thỏa mãn với phần công tác của những nhà sản xuất như Ric Wake và Rhett Lawrence.[4] Với sự quảng cáo chắc chắn, đĩa nhạc đã vọt lên vị trí quán quân trong bảng xếp hạng Billboard 200 ở Mỹ, và giữ vững vị trí đó trong nhiều tuần. Đĩa nhạc đã có 4 đĩa đơn quán quân và biến Carey thành ngôi sao ở Mỹ, nhưng sự thành công ngoài khu vực Bắc Mỹ vẫn còn giới hạn. Giới phê bình đánh giá cao đĩa nhạc này, và Carey đã thắng các giải thưởng Grammy như: Best New Artist và Best Female Pop Vocal Performance cho đĩa đơn đầu tiên "Vision of Love".

Đĩa nhạc thứ hai Emotions, được coi như bày tỏ sự kính trọng với nhạc soul Motown và thể hiện sự hợp tác của Carey với Walter Afanasieff và nhóm nhạc dance C&C Music Factory. Nó được phát hành ngay sau đĩa đầu tiên vào mùa thu năm 1991, nhưng đã không thành công về mặt thương mại và phê bình như đĩa đầu. Tạp chí Rolling Stone nhận xét đĩa này rằng more of the same, with less interesting material ... pop-psych love songs played with airless, intimidating expertise ("vẫn như cũ, ít chất liệu thú vị, những bản tình ca thiên về mặt tinh thần lại được thể hiện thiếu sinh khí nhưng lại khoe nhiều về mặt kỹ thuật").[5] Ca khúc chủ đề "Emotions" đưa Carey trở thành nghệ sĩ duy nhất có 5 đĩa đơn đầu tiên đạt quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Mỹ, tuy vậy, những đĩa đơn tiếp theo từ đĩa nhạc này lại thất bại trong việc phá kỷ lục này. Carey được vận động tự sản xuất những bài hát của mình, và bắt đầu với Emotions, cô đã đồng sản xuất hầu hết chất liệu của mình. Cô đã nói "I didn't want Emotions to be somebody else's vision of me. There's more of me on this album." (Tôi đã không muốn Emotions trở thành ảo mộng của ai khác ngoại trừ tôi. Đĩa nhạc này chứa đựng bản thân tôi nhiều hơn.) [6] Cô cũng đã bắt đầu sáng tác và sản xuất cho các nghệ sĩ khác như Penny Ford và Daryl Hall trong năm sau đó.

Mặc dù cô từng thường hay trình diễn sống, nhưng chứng sợ sân khấu đã khiến Carey không thể xuất hiện trong bất kì những chuyến biểu diễn lớn trước công chúng nào. Buổi hòa nhạc lớn đầu tiên của cô là chương trình MTV Unplugged vào năm 1992, và cô đã từng nói rằng cô cảm thấy những màn trình diễn sống chứng tỏ các khả năng giọng hát của cô không được như ý, vì như một số người đã từng đề cập rằng giọng hát của cô bị chi phối bởi kỹ thuật phòng thu.[7] Bên cạnh những phiên bản acoustic của những bài hát ban đầu của cô, Carey còn lần đầu tiên trình bày lại ca khúc "I'll Be There" của ban nhạc Jackson 5 với ca sĩ hát đệm Trey Lorenz. Ca khúc được phát hành dưới dạng đĩa đơn, và đã đạt quán quân ở Mỹ và giúp cho Trey Lorenz ký được hợp đồng ghi âm và có đĩa nhạc đầu tay do Carey sản xuất. Vì chương trình Unplugged được đánh giá cao, nên buổi hòa nhạc được phát hành dưới dạng đĩa EP MTV Unplugged. Tuần báo Entertainment Weekly đã gọi đĩa này là "the strongest, most genuinely musical record she has ever made ... Did this live performance help her take her first steps toward growing up?" (một đĩa nhạc tốt nhất và chân thật nhất mà cô từng thực hiện... Liệu có phải buổi trình diễn sống này đã giúp cô ấy bước những đi đầu tiên đến sự trưởng thành?).[8]

[sửa] 1993–96: Nổi tiếng toàn thế giới

Carey và Tommy Mottola đã có mối quan hệ tình cảm trong thời gian thực hiện đĩa nhạc đầu tiên, và họ đã kết hôn vào tháng 6 năm 1993.

Kenneth "Babyface" Edmonds đã hội ý về đĩa Music Box, mà được phát hành một năm sau và trở thành đĩa thành công nhất của Carey trên toàn cầu. Bản hát lại bài "Without You" của Badfinger đã trở thành ca khúc quán quân đầu tiên của cô tại Anh Quốc, cũng như những ca khúc quán quân ở Mỹ như : Dreamlover, và Hero. Tạp chí Billboard đã nhận xét đĩa nhạc này như sau: "heart-piercing ... easily the most elemental of Carey's releases, her vocal eurythmics in natural sync with the songs" (cảm xúc thấu tận trong tim... dễ dàng trở thành tác phẩm hay nhất của Carey, giọng hát của cô phối hợp tự nhiên với những bài hát),[9] nhưng tạp chí TIME lại tỏ vẻ tiếc cho cố gắng của Carey trong việc tạo ra một ấn phẩm dịu dàng và chín chắn : "Music Box seems perfunctory and almost passionless ... Carey could be a pop-soul great; instead she has once again settled for Antonio-Salieri-like mediocrity." (Music Box có vẻ như đại khái và hầu như không có nồng nàn... Đáng lẽ Carey có thể là một nghệ sĩ pop-soul tuyệt vời; nhưng cô lại một lần nữa đặt mình vào vị trí tầm thường như Antonio Salieri) [10] Một chuyến lưu diễn sau đó trên toàn nước Mỹ đã bị công kích bởi hầu hết giới phê bình. Carey đã nói trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Vogue: "As soon as you have a big success, a lot of people don't like that. There's nothing I can do about it. All I can do is make music I believe in." (Ngay khi bạn có một thành công lớn, lại có nhiều người không thích như vậy. Tôi chẳng thể làm gì về điều đó. Tất cả những gì tôi có thể làm là tạo ra âm nhạc mà tôi tin tưởng.)[11]

Sau khi thành công với bản song ca "Endless Love" cùng Luther Vandross (trước đây do Lionel Richie và Diana Ross thể hiện) vào cuối năm 1994, Carey phát hành đĩa nhạc mừng lễ Giáng sinh Merry Christmas. Đĩa này bao gồm những ca khúc hát lại và những ca khúc mới như là "All I Want for Christmas Is You", bài này đã trở thành ca khúc quán quân đầu tiên của Carey tại Nhật Bản và trở thành một trong những ca khúc lưu niên nổi tiếng nhất trong những năm sau này trên làn sóng phát thanh Hoa Kỳ. Có nhiều thái độ khác nhau của giới phê bình về Merry Christmas, website All Music Guide tỏ vẻ thờ ơ: "otherwise vanilla set ... Pretensions to high opera on 'O Holy Night' and a horrid danceclub take on 'Joy to the World'" (nếu không là một đĩa nhạc ngọt ngào thì cũng là sự kỳ vọng muốn đạt đến phong cách opera trong "O Holy Night" và một bản nhạc dance kinh khủng với "Joy To the World").[12] Công chúng thì chấp nhận đĩa này nồng nhiệt hơn, trở thành đĩa nhạc Giáng sinh thành công nhất của mọi thời đại.[13]

Năm 1995, Carey phát hành đĩa nhạc Daydream, kết hợp những cảm giác pop của Music Box với những ảnh hưởng của R&B và hip-hop. Carey kể lại rằng hãng Columbia đã phản ứng tiêu cực về những ý định của cô cho đĩa này: "Everybody was like 'What, are you crazy?'. They're very nervous about breaking the formula." (Mọi người như thể nói với tôi rằng: "Cái gì cơ, cô có mất trí không đấy?". Họ rất căng thẳng về công thức đột phá này.) [14] Đĩa nhạc đã trở thành đĩa bán chạy nhất của cô ở Mỹ, và các đĩa đơn của nó cũng đạt thành công tương tự: "Fantasy" trở thành đĩa đơn thứ hai bay thẳng lên vị trí quán quân ở Mỹ và dẫn đầu các bảng xếp hạng ở Canada trong 12 tuần lễ, "One Sweet Day" (song ca với Boyz II Men) chinh phục vị trí quán quân ở Mỹ trong 16 tuần lễ liên tục (hiện nay vẫn là kỷ lục chưa bị phá), và "Always Be My Baby" (đồng sản xuất bởi Jermaine Dupri) đã dẫn đầu bảng xếp hạng tổng kết cả năm 1996 "Billboard Hot 100 Airplay". Daydream đã tạo ra nhiều lời nhận xét tích cực cho sự nghiệp của Carey[15] và được coi là một trong những đĩa nhạc hay nhất năm 1995 bởi nhiều tạp chí như New York Times đã viết rằng: "best cuts bring pop candy-making to a new peak of textural refinement ... Carey's songwriting has taken a leap forward, becoming more relaxed, sexier and less reliant on thudding cliches". (Những ca khúc hay nhất trong đĩa này đã đưa việc tạo những bản pop ngọt ngào lên một đỉnh cao mới của sự tinh tế... Khả năng sáng tác của Carey đã tiến một bước nhảy vọt, trở nên có tính giải trí hơn, gợi cảm hơn và ít dựa dẫm vào những lời sáo rỗng)[16] Doanh số của đĩa tăng lên nhiều nhờ chuyến lưu diễn toàn thế giới thu được lợi nhuận cao, và đã nhận được 6 đề cử Grammy.

[sửa] 1997–2000: Độc lập và hình ảnh mới

Carey và Mottola chia tay vào năm 1996. Mặc dù hình ảnh trước công chúng về cuộc hôn nhân là một đôi vợ chồng hạnh phúc, nhưng cô đã nói rằng thực tế cô cảm thấy bị mắc bẫy bởi mối quan hệ với Mottola, người mà cô thường miêu tả như là người điều khiển cô.[17] Họ chính thức thông báo ly thân vào năm 1997, và ly hôn vào năm sau đó. Carey đã tuyển người quản lý và luật sư mới ngay sau khi ly thân, cũng như tuyển một người đại diện độc lập. Cô trở thành một nhạc sĩ và nhà sản xuất cho những nghệ sĩ khác trong suốt giai đoạn này, như tham gia vào những đĩa nhạc đầu tay của Allure, 7 Mile, và Blaque thông qua hãng đĩa của mình Crave Records (hãng này đã không tồn tại được lâu).

Đĩa "Butterfly" của Carey vào năm 1997 được mở màn bằng đĩa đơn quán quân "Honey", lời và video ca nhạc đã thể hiện một hình ảnh gợi cảm công khai hơn trước đây. Cô đề cập rằng Butterfly đã đánh dấu điểm mà cô đã đạt đến sự điều khiển sáng tạo hòan toàn về âm nhạc của mình, và cô đã tiếp tục đi theo hướng R&B/hip-hop với những ca khúc đồng sáng tác và sản xuất bởi các rapper như Sean "Puffy" Combs và Missy Elliott. Cô nói thêm: "I don't think it's that much of a departure from what I've done in the past ... It's not like I went psycho and thought I was going to be a rapper. Personally, this album is about doing whatever the hell I wanted to do." (Tôi không nghĩ điều này quá xa với những gì mà tôi đã làm trước đây...Không phải như là về vấn đề tinh thần và tôi nghĩ là tôi sắp trở thành rapper. Bản thân tôi cho rằng đây là đĩa nhạc mà tôi đã muốn làm bất cứ điều gì cũng được.)[18] Những lời bình luận hầu hết là tích cực: website LAUNCHcast coi Butterfly như con bướm đã thoát khỏi vỏ bọc, có thể làm bối rối những người hâm mộ bảo thủ, nhưng là một sự thay đổi đáng hoan nghênh.[19] Tờ báo Los Angeles Times viết: "Butterfly rất dễ là đĩa nhạc riêng tư nhất và chuyên nghiệp nhất mà cô từng thực hiện..." [20] Đĩa nhạc cũng đạt được thành công thương mại, và ca khúc "My All" (đĩa đơn quán quân thứ 13 của cô trên bảng xếp hạng Hot 100) đã ghi kỷ lục như là nữ nghệ sĩ có nhiều ca khúc quán quân nhất nước Mỹ. Hướng đến thiên niên kỷ mới, Carey đã phát triển dự án phim All That Glitters, và cô cũng sáng tác nhạc cho phim Men In Black (1997) và How the Grinch Stole Christmas (2000).

Trong suốt quá trình sản xuất Butterfly, Carey đã nảy sinh quan hệ với cầu thủ bóng chày Derek Jeter mang 2 chủng tộc của đội New York Yankees, Mối quan hệ của họ kết thúc vào năm 1998, cả hai bên nêu rằng sự quấy rầy của giới truyền thông là lý do tan vỡ.[21] Cùng năm đó, đĩa nhạc #1's được phát hành, hợp tuyển những ca khúc quán quân của cô cho đến thời điểm đó. Carey đã ghi âm một số ca khúc mới trong đĩa này để tặng người hâm mộ,[22] và cũng có cả ca khúc "When You Believe", bản song ca đạt giải thưởng Academy với Whitney Houston cho phim hoạt hình The Prince of Egypt. #1's đã bán trên mức kỳ vọng, nhưng một lời nhận xét trên tạp chí NME xem Carey như là "một người chuyên đi thầu chuyện nhảm nhí ngọt xớt như ca khúc Hero, mà thông điệp nghe có vẻ lành mạnh: nếu bạn bỏ qua suy nghĩ sáng suốt, hãy đá lông nheo và chịu khó ước muốn thì những anh chàng sẽ bám đuôi".[23] Cũng năm đó, cô xuất hiện trong buổi hòa nhạc từ thiện VH1 Divas được tổ chức lần đầu tiên, dẫu cho những hành vi bị coi là thái quá đã làm nhiều người xem cô như là một diva.[24] Sang năm sau, cô bắt đầu mối quan hệ với ca sĩ Luis Miguel.

Rainbow, đĩa nhạc studio thứ 6 của Carey được phát hành vào năm 1999. Đĩa này vẫn bao gồm những ca khúc R&B/hip-hop, nhiều ca khúc đồng sáng tác bởi Jimmy Jam và Terry Lewis. Cả hai ca khúc "Heartbreaker" (hát với Jay-Z) và "Thank God I Found You" (hát với Joe và ban nhạc 98 Degrees) đã đạt quán quân tại Mỹ, và thành công của "Heartbreaker" đã chứng nhận Carey là nghệ sĩ duy nhất cứ mỗi năm lại có một đĩa đơn quán quân trong suốt thập niên 90, thế kỷ 20. Giới truyền thông đón tiếp sự kiện này rất hăng hái, tờ báo Sunday Herald xem đĩa nhạc này như là "sự chập chững ấn tượng giữa các bản tình ca đậm chất soul và sự cộng tác với những nhân vật nặng ký trong thể loại R&B/hip-hop như Snoop Doggy Dogg, Usher ... Một tuyển tập tao nhã của pop-soul."[25] Tạp chí Vibe cũng bộc lộ những ý kiến tương tự "Cô ấy đã phá bỏ mọi điểm dừng...Rainbow thậm chí sẽ nhận được nhiều sự tôn trọng hơn",[26] nhưng Rainbow lại là đĩa bán thấp nhất của Carey cho đến thời điểm đó, và đã có lời phê bình rằng các ca khúc nghe tựa tựa như nhau. Khi ấn phẩm "Crybaby"/"Can't Take That Away (Mariah's Theme)" trở thành đĩa đơn đầu tiên lọt khỏi Top 20, Carey đã cáo buộc Sony vì đã quảng bá nghèo nàn, và cô đã viết lên website của mình rằng: "Tình trạng quản lý trong sự nghiệp chuyên môn của tôi không có sự tích cực ... Tôi đang nhận thấy có nhiều phản hồi tiêu cực từ những con người trong công ty".[27]

[sửa] 2001–04: Những khó khăn trong sự nghiệp và đời tư

Sau khi nhận giải thưởng Nghệ sĩ của Thập niên do tạp chí Billboard trao tặng, và giải nữ nghệ sĩ bán chạy nhất thiên niên kỷ tại giải World Music Award, Carey đã rời khỏi Columbia và ký hợp đồng trị giá 80 triệu USD với hãng Virgin của tập đoàn EMI. Cô thường đề cập rằng Columbia từng coi cô như một thứ hàng hóa, sự chia tay với Mottola đã làm trầm trọng thêm mối quan hệ của cô với những người lãnh đạo trong hãng. Chỉ vài tháng sau, vào tháng 7 năm 2001, thông tin được công bố rộng rãi rằng Carey đã chịu đựng đột quỵ về cơ thẩ lẫn tinh thần. Cô đã gửi thông điệp trên website của mình giải thích lí do là do làm việc quá sức,[28] và mối quan hệ với Luis Miguel đã kết thúc. Vào năm sau, trong một buổi phỏng vấn, cô đã nói rằng: "Những người xung quanh không thật sự hiểu tôi, và tôi chẳng có người nào để giúp đỡ chuyện cá nhân. Tôi đã phải thực hiện những buổi phỏng vấn dài cả ngày, chỉ có 2 giờ mỗi đêm để ngủ."[29] Trong một lần xuất hiện trên chương trình Total Request Live của MTV, Carey đã giơ ngón giữa vào khán giả, và hành động này được báo chí miêu tả như là cực kỳ thô lỗ.[30] Cuối tháng đó, cô đã tiến hành nhập viện tại một bệnh viện tâm thần, và người đại diện của cô thông báo rằng cô cần nghỉ ngơi để tránh xuất hiện trước công chúng.[31]

Giới phê bình đã chỉ trích gay gắt bộ phim Glitter, được coi như là một phim bán tự truyện đã nhiều lần bị trì hoãn của Carey, và bộ phim cũng thất bại về doanh thu. Đĩa nhạc Glitter, mang ảnh hưởng của âm nhạc những năm 1980, bị coi là thất bại nặng nề nhất của cô trên các bảng xếp hạng Mỹ. Ca khúc "Loverboy" đạt vị trí á quân trên bảng xếp hạng Hot 100 nhờ giảm giá,[31] nhưng các đĩa đơn sau đó đều thất bại trong việc chinh phục các bảng xếp hạng.

Hãng Columbia đã phát hành đĩa Greatest Hits không lâu sau thất bại của Glitter, và đầu năm 2002, hãng Virgin đã chấm dứt hợp đồng với Carey với số tiền đền bù là 28 triệu USD, càng tạo ra đề tài để giới truyền thông công kích cô. Carey nói rằng thời gian cô ở tại Virgin "hoàn toàn căng thẳng... Tôi đã quyết định ngon ơ chỉ vì tiền, và tôi chưa bao giờ quyết định điều gì dựa trên tiền bạc. Tôi đã học được một bài học lớn từ điều đó."[32] Cuối năm đó, cô đã ký một hợp đồng trị giá 20 triệu USD với hãng Island (của công ty Def Jam) và mở hãng đĩa riêng mang tên MonarC. Việc bố cô qua đời vào mùa hè năm đó đã tạo thêm gánh nặng tinh thần cho Carey.

Sau vai phụ được đánh giá khả quan trong phim WiseGirls, Carey phát hành đĩa Charmbracelet, mà cô xem như là một cuộc sống mới.[29] Doanh thu của Charmbracelet chỉ tạm ổn, và chất giọng của Carey còn dưới mức đánh giá của giới phê bình. Tờ Boston Globe coi đĩa này như là "tệ nhất trong sự nghiệp, bộc lộ một giọng hát không còn mềm mại và điêu luyện",[33] và tạp chí Rolling Stone nhận xét rằng: "Carey cần những bài hát đậm nét có thể khai thác sức mạnh và âm vực nổi tiếng của cô. Charmbracelet như một dòng màu nước chảy vào vũng bùn màu nâu."[34] Các đĩa đơn như "Through the Rain" đều thất bại trên bảng xếp hạng và với các đài nhạc pop, khi mà chúng ngày càng trở thành những khung cửa hẹp với những diva trưởng thành như Carey, Whitney Houston và Celine Dion.[29]

"I Know What You Want", đĩa đơn của rapper Busta Rhymes vào năm 2003 mà Carey góp giọng được đánh giá thành công hơn và lọt vào Top 5 ở Mỹ. Hãng Columbia sau đó đã đưa nó vào tuyển tập remix The Remixes, đĩa có doanh số thấp nhất của Carey. Năm đó, cô được trao giải "World Music Chopard Diamond Award" vì đã bán được hơn 100 triệu đĩa trên toàn cầu.[35] Năm 2004, cô cũng góp giọng trong đĩa đơn "U Make Me Wanna" của rapper Jadakiss, và đã lọt vào Top 10 của bảng xếp hạng Billboard R&B/Hip-Hop.

[sửa] 2005–hiện nay: Sự trở lại của giọng ca

Đĩa nhạc thứ 14 của Carey, The Emancipation of Mimi, được phát hành vào năm 2005 và bao gồm những ca khúc hợp tác với những nhà sản xuất như The Neptunes và Kanye West.Carey nhận xét đĩa này "rất giống với một đĩa nhạc vui nhộn dành cho các buổi tiệc ... như thể lúc bạn đang trang điểm và chuẩn bị đi tham dự cuộc vui... Tôi đã rất muốn thực hiện một đĩa nhạc phản ánh điều đó."[36] Mimi đã trở thành đĩa bán chạy nhất trong năm tại Mỹ và thắng 3 giải Grammy (bao gồm giải "Đĩa nhạc R&B đương đại xuất sắc nhất"), tăng số giải Grammy trong sự nghiệp của cô lên 5 giải. Đĩa này mang lại những lời phê bình mà Carey tâm đắc nhất, chẳng hạn: tờ The Guardian coi Mimi như "một chiếc bánh quy cứng cỏi" và "hay, tập trung và thời thượng ... Những giai điệu đầu tiên của Mariah Carey trong những năm qua mà tôi không phải bị trả tiền để nghe lại".[37] Đĩa đơn "We Belong Together" chiếm lĩnh vị trí quán quân trên Hot 100 trong 14 tuần lễ (thời gian ở tại vị trí quán quân lâu nhất của cô với tư cách là ca sĩ đơn ca) và là ca khúc hit lớn nhất của năm 2005, và được phát sóng rất nhiều trên các đài radio trên toàn cầu. "Don't Forget About Us" trở thành ca khúc quán quân thứ 17 của Carey tại Mỹ, làm cô gần bằng với Elvis Presley trong kỷ lục nghệ sĩ đơn ca có nhiều ca khúc quán quân nhất dựa theo phương pháp thống kê của tạp chí Billboard (chuyên gia thống kê Joel Whitburn của báo này vẫn ghi nhận Elvis với 18 lần quán quân).[38] Theo cách tính này thì Carey hiện chỉ đứng sau nhóm The Beatles, ban nhạc đang nắm giữ 20 lần quán quân.

[sửa] Sự nghiệp diễn xuất

Carey bắt đầu học diễn xuất chuyên nghiệp vào năm 1997, và vào năm sau, cô đã tham gia thử vai trong nhiều phim. Cô chính thức diễn xuất lần đầu tiên với vai ca sĩ opera trong phim hài lãng mạn The Bachelor (1999) với 2 diễn viên chính là Chris O'Donnell và Renée Zellweger. Kênh CNN đã nhận xét vai diễn diva bất tài của Carey trong phim này là "hoàn hảo".[39]

Carey đóng vai chính lần đầu tiên trong phim Glitter (2001), và trong phim này, cô đóng vai một ca sĩ bước vào ngành công nghiệp âm nhạc sau khi gặp một DJ (Max Beesley đóng) vào những năm 90 của thế kỷ trước. Trong khi nhà phê bình Roger Ebert nhận xét "Carey có thể diễn từ những vai lăng nhăng chỉ mang tính trách nhiệm đến sự chân thật đầy nhiệt huyết",[40] thì các lời phê bình còn lại đều chỉ trích gay gắt: Leslie Halliwell của website Film Guide gọi phim này là "phương tiện truyền bá nhạt nhẽo cho một ca sĩ nhạc pop không biết diễn xuất",[41] và tờ The Village Voice nhận xét thêm: "Bất cứ cảm xúc nào Carey thể hiện đều như thể lúc cô ta bị đánh mất chìa khóa xe."[42]Glitter thất bại về doanh thu, và Carey đã được một giải Razzie . Sau này cô phát biểu rằng "phim bắt đầu theo một nội dung có giá trị nhưng kết thúc lại giống như phim trẻ em. Nó đã đánh mất rất nhiều điều hay ... Điều đó đã luôn khiến tôi suy nghĩ."[29]

Sau phim đó, Carey, Mira Sorvino và Melora Walters cùng đóng vai những nữ hầu bàn trong nhà hàng của những tên cướp trong phim độc lập WiseGirls (2002), đã được khởi chiếu tại liên hoan phim Sundance và được chiếu trên các đài truyền hình cáp ở Mỹ. Các lời phê bình khen ngợi sự nỗ lực của Carey: tờ Hollywood Reporter đã dự đoán, "Những lời phê bình gay gắt cho phim Glitter sẽ đi vào quên lãng một khi Carey làm nóng khán giả với vai diễn Raychel",[43] và nhà phê bình Roger Friedman, coi cô như là "một Thelma Ritter của thiên niên kỷ mới", và nhận xét, "Tuyến nhân vật của Carey sắc sảo và hài hước".[44] Nhà sản xuất phim WiseGirls là Anthony Esposito đã mời Carey diễn trong phim The Sweet Science, phim về một nữ võ sĩ quyền anh vô danh được phát hiện bởi một người quản lý, nhưng phim vẫn chưa tiến hành thực hiện.[45]

Carey cũng là một trong số nhiều nghệ sĩ âm nhạc xuất hiện trong các phim độc lập của Damon Dash là Death of a Dynasty (2003) and State Property 2 (2005), trong khi vai trò diễn viên truyền hình vẫn giới hạn trong tập phim Ally McBeal được chiếu vào tháng 1 năm 2002. Carey đã tham gia vai diễn trong phim độc lập Tennessee vào năm 2006, đóng vai nữ hầu bàn cùng với hai anh trai lên đường đi tìm người bố nhiều năm bị thất lạc.[46]

[sửa] Phong cách âm nhạc

Carey đã nói rằng cảm hứng âm nhạc của cô đến từ những nghệ sĩ Soul/R&B như Billie Holiday, Sarah Vaughan, Gladys Knight, Aretha Franklin và Al Green, từ lúc còn bé. Âm nhạc của cô còn ảnh hưởng mạnh mẽ từ nhạc gospel, và các ca sĩ gospel yêu thích của cô bao gồm The Clark Sisters, Shirley Caesar và Edwin Hawkins.[47] Khi Carey bắt đầu đưa hip-hop vào phong cách của mình, có suy đoán cho rằng cô tận dụng sự phổ biến của thể loại này, nhưng cô đã kể với tờ báo Newsweek, "Người ta hoàn toàn không hiểu rằng tôi đã lớn lên với âm nhạc này".[48] Cô đã bày tỏ sự tôn kính đến những rapper như The Sugarhill Gang, Eric B. & Rakim, Wu-Tang Clan, Notorious B.I.G. và Mobb Deep, và với những người đã cộng tác cùng cô trong ca khúc "The Roof (Back in Time)".[3]

Đĩa đầu tay của Carey bị phê bình là phong cách quá giống với Whitney Houston, và trong suốt sự nghiệp của cô, phong cách âm nhạc và giọng hát của Carey cùng với cấp độ thành công đã được so sánh với Whitney Houston và Celine Dion. Carey và các ca sĩ đồng nghiệp của cô được nhà báo Garry Mulholland coi là "những công chúa gào thét ... những giọng ca điêu luyện phối hợp nhạc pop đại chúng với những bản tình ca ủy mị đa thể loại".[49] Trong cuốn sách She Bop II: The Definitive History of Women in Rock, Pop and Soul (2002), tác giả Lucy O'Brien đã so sánh tự trở lại của Barbra Streisand với Carey và Dion, và miêu tả họ với Whitney Houston là "được tô vẽ và phóng đại đến sự hoàn hảo".[50] Một Carey thuần túy âm nhạc và một Carey gợi cảm từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước góp phần làm xa rời hình ảnh cũ, và rồi Carey nhận xét rằng âm nhạc thời kì đầu của cô là "đa thể loại và ủy mị quá đáng". Không như Whitney Houston và Celine Dion, Carey tự viết hầu hết các bài hát cho mình, và cuốn sách Guinness Rockopedia (1998) đã xếp hạng cô như là một trong những ca sĩ-nhạc sĩ quan trọng nhất.[51]

[sửa] Ấn phẩm

[sửa] Đĩa nhạc

  1. Mariah Carey (1990)
  2. Emotions (1991)
  3. MTV Unplugged (1992)
  4. Music Box (1993)
  5. Merry Christmas (1994)
  6. Daydream (1995)
  7. Butterfly (1997)
  8. #1's (1998)
  9. Rainbow (1999)
  10. Glitter (2001)
  11. Greatest Hits (2001)
  12. Charmbracelet (2002)
  13. The Remixes (2003)
  14. The Emancipation of Mimi (2005)

[sửa] Những đĩa đơn quán quân

Năm Đĩa đơn Vị trí cao nhất
US UK CAN AUS
1990 "Vision of Love" 1 9 1 9
"Love Takes Time" 1 37 1 14
1991 "Someday" 1 38 5 44
"I Don't Wanna Cry" 1 n/a 7 49
"Emotions" 1 17 3 11
1992 "I'll Be There"
(feat. Trey Lorenz)
1 2 1 9
1993 "Dreamlover" 1 9 1 7
"Hero" 1 7 10 7
1994 "Without You" 3 1 2 3
1995 "Fantasy" 1 4 1 1
"One Sweet Day"
(with Boyz II Men)
1 6 2 2
1996 "Always Be My Baby" 1 3 2 17
1997 "Honey" 1 3 2 8
1998 "My All" 1 4 12 39
1999 "Heartbreaker"
(feat. Jay-Z)
1 5 1 10
2000 "Thank God I Found You"
(feat. Joe and 98 Degrees)
1 10 2 27
"Against All Odds (Take a Look at Me Now)"
(with Westlife)
n/a 1 22 n/a
2005 "We Belong Together" 1 2 2 1
"Don't Forget about Us" 1 11 17 12
số lượng đĩa đơn quán quân 17 2 6 2

[sửa] Chú thích

  1. Shapiro, Marc. Mariah Carey (2001). pg. 19–20. UK: ECW Press, Canada. ISBN 1550224441.
  2. "Miss Mariah". Cosmopolitan. December 1997. �UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000001
  3. 3,0 3,1 Gardner, Elysa. "Cinderella Story". Vibe. April 1996. �UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000002
  4. Shapiro, pg. 60.
  5. Evans, Paul. The Rolling Stone Album Guide (1992). pg. 110–111. UK: Virgin Books. ISBN 0863696430.
  6. Shapiro, pg. 62.
  7. Shapiro, pg. 69.
  8. Sandow, Greg. "MTV Unplugged EP". Entertainment Weekly. June 19 1992. �UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000003
  9. White, Timothy. "Mariah Carey's stirring 'Music Box'". Billboard. New York: pg. 5, August 28 1993, Vol. 105, Iss. 35.
  10. Farley, Christopher John. "Hurray! a B Minus!". Time. September 6 1993. Retrieved March 4 2006.
  11. Shapiro, pg. 78.
  12. Parisien, Roch. "Merry Christmas – Review". All Music Guide. Retrieved March 17 2006.
  13. Healey, Mitchell. "Carey On". V. January 20 2006. �UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000004
  14. Shapiro, pg. 92.
  15. Shapiro, pg. 94–96.
  16. Holden, Stephen. "Mariah Carey Glides Into New Territory". New York Times. pg. 76, October 13 1995. �UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000005
  17. Shapiro, pg. 97–98.
  18. Shapiro, pg. 101.
  19. Reynolds, J.R. "Album Review: Butterfly". Yahoo! Music. September 16 1997. Retrieved March 17 2006.
  20. Johnson, Connie. Los Angeles Times. pg. 58, September 14 1997.
  21. Shapiro, pg. 112.
  22. Shapiro, pg. 116.
  23. "#1's". NME. Retrieved March 10 2006.
  24. Haring, Bruce. "Mariah: I'm Not a Diva". Yahoo! Music. May 14 1998. Retrieved March 17 2006.
  25. Virtue, Graham. "Rainbow, Mariah Carey". Sunday Herald. November 7 1999. �UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000006
  26. "Mariah Carey, Rainbow". Vibe. pg. 258, December 1999.
  27. Shapiro, pg. 134.
  28. Friedman, Roger. "Mariah Melts Down; Madonna Disappoints". FOX News. July 26 2001. Retrieved March 17 2006.
  29. 29,0 29,1 29,2 29,3 Gardner, Elysa. "Mariah Carey, 'standing again'". USA Today. November 28 2002. Retrieved March 17 2006.
  30. "Carey Shocked by MTV Striptease Fuss". Internet Movie Database. December 3 2002. Retrieved March 17 2006.
  31. 31,0 31,1 Cook, Shanon. "Mariah before breakdown -- 'It all seems like one continuous day'". CNN. August 14 2001. Retrieved March 17 2006.
  32. "The fall and rise of Mariah Carey". BBC.co.uk. February 8 2006. Retrieved March 12 2006.
  33. Anderman, Joan. "For Carey, the Glory's Gone but the Glitter Lives On". Boston Globe. pg. D.4, September 10 2003 [THIRD Edition].
  34. Walters, Barry. "Charmbracelet". Rolling Stone. New York: pg. 93, December 12 2002, iss. 911.
  35. "Diamond Award". World Music Awards. Retrieved April 7 2006.
  36. Ferber, Lawrence. "Mariah Carey: Free at last". HX. April 4 2005. �UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000007
  37. Sullivan, Caroline. "Mariah Carey, The Emancipation of Mimi". The Guardian. April 1 2005. Retrieved March 17 2006.
  38. Bronson, Fred. "Chart Beat Chat". Billboard. December 22 2005. Retrieved March 17 2006.
  39. Tatara, Paul. "Review: 'The Bachelor' -- cold feet, bad film". CNN.com. November 9 1999. Retrieved March 17 2006.
  40. Ebert, Roger. "'Glitter' glosses over important moments". Chicago Sun-Times. September 23 2001. Retrieved from the Wayback Machine on March 17 2006.
  41. Walker, John. Halliwell's Film Guide 2004: 19th Edition (2003). pg. 338. UK: HarperCollins Publishers Inc. ISBN 0060554088.
  42. Atkinson, Michael. "Eat Drink Man Mariah". The Village Voice. September 26–October 2 2001. Retrieved March 17 2006.
  43. Honeycutt, Kirk. "Wisegirls". Hollywood Reporter. January 15 2002. Retrieved March 17 2006.
  44. Friedman, Roger. "Mariah Makes Good in Mob Movie". FOX News. January 14 2002. Retrieved March 17 2006.
  45. Moss, Corey. "Despite 'Glitter,' Mariah Carey's Movie Career Could Still Sparkle". MTV.com. February 20 2002. Retrieved March 17 2006.
  46. Serpe, Gina. "Mariah Pulls a J.Lo". E! Online. March 3 2006. Retrieved March 12 2006.
  47. Norent, Lynn. "Mariah Carey: 'Not another White girl trying to sing Black'". Ebony. March 1991. �UNIQ698d95a8273ef6b-HTMLCommentStrip15527b2c27d27bee00000008
  48. Shapiro, pg. 124.
  49. Mulholland, Garry. The Illustrated Encyclopedia of Music (2003). pg. 57. UK: Flame Tree Publishing. ISBN 1904041701.
  50. O'Brien, Lucy. She Bop II: The Definitive History of Women in Rock, Pop and Soul (2002). pg. 476–477. UK: Continuum. ISBN 0826457762 (paperback).
  51. Guinness Rockopedia (1998). pg. 74. UK: Guinness Publishing Ltd. ISBN 0851120725.

[sửa] Nguồn tham khảo

[sửa] Liên kết ngoài