Hội Đền Đô
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lễ hội đền Đô là một lễ hội truyền thống của Việt Nam, được tổ chức hàng năm vào ngày 15 tháng 3 âm lịch, đúng ngày Lý Công Uẩn đăng quang (15- 3 năm Canh Tuất - 1010), tại đền Đô, Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là lễ hội nhằm kỷ niệm tám vị vua nhà Lý trong lịch sử Việt Nam.
[sửa] Xem thêm
[sửa] Liên kết ngoài
- Hội đền Đô theo trang mạng chính thức của tỉnh Bắc Ninh.
Đền Đô nằm ở phía đông nam làng Đình Bảng trên một khu đất cao, rộng, phẳng sát đầu thôn Thượng là khu di tích đền Đô - “Sơn lăng cấm địa” nơi thờ tám vị vua nhà Lý. Đây là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng được bảo tồn khá trọn vẹn, nơi tưởng niệm và phụng thờ của toàn dân đối với các vị vua nhà Lý.
Đền Đô còn có tên là Cổ Pháp điện, được khởi dựng từ thế kỷ XI trên đất làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh) - nơi phát tích nhà Lý, rồi được liên tục tôn tạo, mở rộng vào nhiều thế kỷ sau. Đền Đô rộng 31.250m2, gồm hơn 20 hạng mục công trình với trung tâm là điện thờ, nơi đặt bài vị thờ tám vị vua nhà Lý; xung quanh có nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, nhà phương đình, nhà bia, nhà để kiệu thờ, cửa rồng... Tất cả đều được xây dựng công phu, đắp vẽ chạm khắc tinh xảo, tài nghệ.
Đền Đô được xây dựng rất quy mô và bề thế. Nội thất gồm nhà hậu cung đặt ngai thờ và bài vị tám vị vua nhà Lý, kiến trúc theo kiểu nhà chuyển bồng đao cong mềm mại thanh thoát, bao quanh nội thất là tường gạch. Ngoại thất gồm nhà vuông, kiến trúc kiểu chồng diềm tám mái, đao cong gồm: nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách, đền thờ thân mẫu Lý Công Uẩn. Từ cửa đi thẳng tới sát bờ hồ bán nguyệt là nhà rối (thủy đình); phía ngoài cùng, bên hồ bán nguyệt là nhà bia, hai bên là nhà văn chỉ và võ chỉ.
Đến với đền Đô, du khách còn được tận mắt chiêm ngưỡng nhiều cổ vật quý, nhiều tài liệu lịch sử quan trọng; đặc biệt là văn bia “Cổ Pháp điện tạo bi” của trạng nguyên Phùng Khắc Khoan được khắc vào năm 1604 nhân việc nhà Lê cho trùng tu đền Đô.
Đền Đô là trung tâm thờ các vua Lý với nhiều nghi thức rất trọng thể trong các dịp lễ hàng năm, kỷ niệm ngày mất của các vị vua. Đặc biệt lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch nhằm kỷ niệm ngày Lý Công Uẩn đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất 1010). Đây là ngày hội lớn mang tính quốc gia, thu hút hàng vạn khách hành hương thể hiện lòng thành kính và nhớ ơn của người dân Việt đối với các vua Lý. Đó còn là lễ hội truyền thống có từ lâu đời và trở thành phong tục được nhân dân xã Đình Bảng tự nguyện lưu giữ, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Mặc dù bị chiến tranh phá hủy vào năm 1952 nhưng được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, nhân dân Đình Bảng và sự đóng góp của khách thập phương, đến năm 1989 đền Đô được khởi công xây dựng lại, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.
Với vị thế, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân Việt và in đậm bản sắc văn hóa dân tộc, đền Đô đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa theo Quyết định số 154 của Bộ Văn hóa - Thông tin ngày 25/01/1991.
Về đền Đô là về với những cảm xúc thiêng liêng, gắn bó, cảnh trí hữu tình, nơi đây đã làm vấn vương, lưu luyến biết bao người: Đền Đô nằm trên vùng đất "địa linh nhân kiệt" Đình Bảng, cách thủ đô Hà Nội gần 20 km về phía Bắc, thuộc địa phận hương Cổ Pháp, châu Cổ Pháp (làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay) nên còn gọi là đền Cổ Pháp. Đền thờ 8 vị vua nhà Lý nên còn có tên là đền Lý Bát Đế. Đó là: Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (1009-1028); Lý Thái Tông (1028-1054); Lý Thánh Tông (1054-1072); Lý Nhân Tông (1072-1128); Lý Thần Tông (1128-1138); Lý Anh Tông (1138-1175); Lý Cao Tông (1175-1210) và Lý Huệ Tông (1210-1224). Từ xa xưa, Cổ Pháp được liệt vào làng "tam cổ": "Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp". Đất Cổ Pháp là nơi thắng địa bậc nhất Kinh Bắc, vượng khí, linh thiêng. Làng Cổ Pháp là nơi phát tích của triều đình nhà Lý, kéo dài hơn 200 năm. Sử sách ghi lại, năm 1010, sau khi lên ngôi hoàng đế, Lý Công Uẩn trở về thăm quê nhà Cổ Pháp. Người thăm hỏi thần dân, ban tiền lụa cho các bậc kỳ lão, yết lăng thái hậu và đo mươi dặm đất làm cấm địa thuộc Sơn Lăng (Thọ lăng Thiên Đức, nơi yên nghỉ của các vị vua triều Lý ngày nay). Đền Đô được xây dựng từ ngày ấy. Từ xa xưa, đền Đô luôn được các đời vua coi là khu "Sơn Lăng cấm địa", liên tục được tôn tạo, mở rộng. Vào đời vua Lê Kính Tông, năm Giáp Thìn (1605), đền Đô được xây dựng lại ngay trên đất tôn miếu cũ và khắc văn bia ghi lại công đức của các vị vua triều Lý. Trong thời kỳ bị tạm chiếm, giặc Pháp đã phá hủy nhiều di sản văn hóa ở Cổ Pháp. Năm 1952, giặc Pháp dội bom, phá hủy hoàn toàn đền Đô. Đến năm 1989, đền Đô đã được khởi công xây dựng lại, theo đúng hình dáng và kiến trúc mà các nhà nghiên cứu lịch sử đã phác thảo, căn cứ vào dấu tích còn lại và các tài liệu lưu trữ. Đền Đô rộng 31.250 m², với trên 20 hạng mục công trình, chia thành 2 khu vực: nội thành và ngoại thành. Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc". Tường gạch bao quanh cao 13 m, rộng 1 m, 2 bên xây gạch, giữa đổ đất. Trung tâm của đền Đô là khu chính điện trang nghiêm, với các nét chạm khắc tinh xảo. Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ quanh năm nghi ngút khói hương. Nhìn lên tường, phía bên trái điện thờ, chúng ta có thể đọc "Chiếu dời đô" của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý. Phía bên phải là bài thơ hào hùng nổi tiếng của Lý Thường Kiệt: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư...”. Phía sau ngôi chính điện là nhà hậu cung, nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý. Mỗi người một vẻ, trang trọng, oai nghiêm. Trong nội thất còn có nhà chuyển bồng, kiến trúc theo kiểu chồng diêm 8 mái, 8 đao cong mềm mại, nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ. Đặc biệt, phía Đông đền có nhà bia, nơi đặt “Cổ Pháp Điện Tạo Bi (bia đền Cổ Pháp). Tấm bia đá này cao 190 cm, rộng 103 cm, dày 17 cm, được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn văn bia, ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền Đô và ghi công đức của các vị vua triều Lý. Khu ngoại thất đền Đô gồm nhà vuông, kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong, nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng). Hai bên tả hữu đền Đô là nhà văn chi và võ chi. Trước đây, đền Đô còn có nhà phương đình, nhà thủy đình. Nhà thủy đình đền Đô từng được Ngân hàng Đông Dương xưa chọn là hình ảnh in trên "giấy năm đồng vàng"... Trong khi hướng dẫn du khách tham quan, các cụ trong Ban Quản lý di tích đền Đô kể lại, không phải chỉ một lần, vào những ngày giỗ các vị vua Lý, trên nóc đền Đô thường xuất hiện 8 đám mây trắng xếp thành một dải nối tiếp nhau. Đám mây hiện hữu khoảng mươi, mười lăm phút rồi mới tản ra. Những người dự lễ xôn xao bàn tán. Các cụ bảo, đó là linh hồn 8 vị vua Lý hiện về. Lại nữa, vào đúng ngày Lễ hội đền Đô năm 2003 (15-3 âm lịch - ngày Lý Công Uẩn đăng quang), những người dự lễ hội tại đây đã chứng kiến một hiện tượng thiên nhiên kỳ lạ: Một dải mây hình rồng vàng từ phía Thăng Long - Hà Nội bay về đứng lên nóc đền Đô một lúc rồi tản ra, đúng lúc dân làng Đình Bảng bắt đầu lễ rước "Linh bài Lý Thái Tổ và Chiếu dời đô ra Thăng Long" theo nghi lễ cổ truyền... Những câu chuyện và hình ảnh ấy được ghi chép, chụp ảnh và lưu lại trong những tài liệu về đền Đô. Các nhà khoa học giải thích, đó chỉ là sự trùng hợp kỳ lạ của thiên nhiên. Nhưng với người dân Đình Bảng, điều đó có nghĩa là các vị vua nhà Lý vẫn luôn hiện diện đâu đó trên mảnh đất quê nhà.