Lịch sử Đức
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về lịch sử Đức một cách tổng quát từ lúc khởi đầu cho đến thời hiện đại. Từng thời kỳ một được trình bày một cách chi tiết hơn trong các bài viết chính của thời kỳ đó.
Mục lục |
[sửa] Tiền sử, thời Cổ Đại, thời gian đầu của thời kỳ Trung cổ
Các bằng chứng lâu đời nhất về con người trên lãnh thổ của nước Cộng hòa Liên bang Đức ngày nay có độ tuổi vào khoảng 700.000 năm. Người ta tin rằng trước đây 500.000 năm con người đã định cư tại đây.
Một số bộ tộc người Celt và người German được người Hy Lạp và La Mã nhắc đến lần đầu tiên vào thời trước Công Nguyên. Vào khoảng năm 500 TCN người Celt định cư ở vùng miền Nam của nước Đức ngày nay và ở miền Bắc là người German. Người German di dân trong vòng nhiều thế kỷ về phía Nam nên vào thời Công Nguyên dòng sông Donau là ranh giới áng chừng giữa những làng mạc người Celt và người German. Từ năm 58 TCN cho đến khoảng năm 455 sau Công Nguyên, các vùng đất tả ngạn sông Rhein cũng như nam sông Donau và từ khoảng năm 80 TCN đến năm 260 sau Công Nguyên phần lớn của tiểu bang Baden-Württemberg ngày nay và vùng đất phía nam sông Limes đều thuộc về Đế quốc La Mã. Người La Mã đã kiến lập nhiều thành phố nổi tiếng như Trier, Köln và Bonn cũng như đã mang lại nhiều đổi mới trong xây nhà và thủ công, một phần vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay. Người dân từ tất cả các vùng đất của Đế quốc La Mã, đặc biệt là từ Ý, di dân đến và định cư tại phía tây sông Rhein và phía Nam sông Donau. Nhà viết sử La Mã Tacitus là người đầu tiên viết về lịch sử của toàn thể German vào năm 98. Trong cuộc di dân vào thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 6, nhiều bộ tộc người German đã đi đến Nam Âu và Tây Âu. Nhiều bộ tộc người Slavơ di dân trong thế kỷ thứ 7 vào các vùng đất gần như không có người của miền Đông nước Đức ngày nay cho đến đường sông Elbe-Saale. Vì thế mà phần lớn người dân của các tiểu bang miền Đông nước Đức chịu nhiều ảnh hưởng Slavơ cho đến giữa thời Trung Cổ (Germania Slavica). Trong thời gian định cư miền Đông giữa thời kỳ Trung Cổ, những người Slavơ này đã được đồng hóa.
[sửa] Nước Đức thành hình
Gần như không thể khẳng định một cách khách quan là người ta bắt đầu nói đến "nước Đức" (Deutschland) từ lúc nào. Không có thời điểm rõ ràng cho việc hình thành một quốc gia Đức độc lập, cả về chủng tộc, về ngôn ngữ lẫn về lãnh thổ. Nhiều nhóm dân và bộ tộc được gộp chung dưới khái niệm người German, những người đã định cư từ trước thời Thượng cổ trong vùng đất của nước Đức ngày nay.
Các bộ tộc người Indogerman hay con cháu của họ đã di dân đến đấy trong thời kỳ Đồ Đồng và Đồ Sắt và đã tự pha trộn với những người dân tại chổ đã định cư ở đấy từ cuối thời kỳ Băng hà và sau đó là với những dân tộc hay người dân "đi ngang qua" , thí dụ như
- Người Celt gốc Indogerman trong miền Nam nước Đức, những người đã có ảnh hưởng lớn đến văn hóa châu Âu trong nhiều vùng đất rộng lớn cho đến cuối thời Thượng Cổ.
- Người La Mã trong vùng miền Nam và miền Tây nước Đức ngày nay, quân đội của họ đã chiếm đóng miền Nam và miền Tây của Germanien dọc theo sông Donau và Rhein cho đến khoảng thế kỷ thứ 5.
- Người Slavơ phía đông sông Elbe trong lúc di dân về phía Đông từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14.
- Những dân tộc khác trong thời di dân, thí dụ như người Sarmante (tiếng Anh: Sarmatian).
Vùng đất Trung Âu lục địa giữa Đại Tây Dương, biển Baltic và phía Nam dãy núi Alpen chỉ được thống nhất vào thời kỳ của Vương quốc Franken của Đại đế Karl (còn gọi là Vương quốc Karoling). Sau cái chết của Karl, vương quốc này được chia làm ba trong Hiệp ước Verdun vào năm 843 cho 3 người cháu của ông. Nước Pháp hình thành sau này từ Vương quốc Franken Tây, hình thành từ Vương quốc Franken Đông là nước Đức ngày nay, trong khi "Vương quốc giữa", sau này là Bourgogne và Lorraine, bị chia xẻ giữa Pháp và Vương quốc Franken Đông trong thời Trung Cổ.
Vương quốc Franken Đông chưa phải là "Đức" nhưng ít nhất đã tạo thành một khuôn khổ về địa lý cho nước Đức sau này. Mãi đến giữa thời kỳ của dòng họ Otto, tên regnum teutonicum (tiếng La tinh cho "Vương quốc Đức") mới bắt đầu xuất hiện thường xuyên hơn. Người ta có thể xem thời gian từ khi Vương quốc Karoling tan rã cho đến giữa thời Trung cổ là giai đoạn tiếp chuyển của sự hình thành khái niệm "nước Đức". Việc xưng vua và đăng quan của Otto I đánh dấu sự kết thúc đầu tiên cho gian đoạn này.
Từ thế kỷ 11, một cấu trúc quốc gia đã hình thành mà về mặt chính trị có thể xem là độc lập và từ đó đã hình thành cái mà ngày nay gọi là "nước Đức" (xem Đế quốc La Mã Thần thánh).
[sửa] Thời Trung cổ
- Đọc bài chính về nước Đức thời Trung cổ
[sửa] Thời gian đầu của Trung cổ: Vương quốc Karoling tan rã
- Đọc bài chính về nước Đức trong thời gian đầu của Trung cổ
Vương quốc Franken bắt đầu tan rã khi bị phân chia trong năm 843. Con trai của Đại đế Karl, Ludwig Ngoan đạo (Ludwig der Fromme), vẫn còn có thể gìn giữ được sự thống nhất của vương quốc. Ông chỉ định người con trai đầu là Lothar I (tiếng Pháp: Lothaire I) làm người nối ngôi. Lothar I nhận lãnh vương quốc ở giữa và danh hiệu hoàng đế, Karl Hói (Karl der Kahle, tiếng Pháp: Charles le Chauve) nhận phần phía tây và Ludwig Đức (Ludwig der Deutsche) phần phía đông. Sau khi các người con trai của Lothar I chết, vương quốc giữa được chia về cho Karl Hói và Ludwig Đức. Khi Ludwig chết năm 876 vương quốc Franken Đông cũng được chia cho 3 người con trai của ông là Karlmann, Ludwig Trẻ (Ludwig der Jüngere) và Karl Béo (Karl der Dicke). Năm 880 ranh giới với Vương quốc Franken Tây được xác định và từ đấy đã phân chia gần như không thay đổi Đế chế Đức với nước Pháp trong suốt cả thời Trung cổ. Vua Franken Đông, Karl Béo, đã có thể thống nhất Vương quốc Franken một thời gian ngắn sau khi anh em của ông và vua của Franken Tây chết, nhưng lại bị cháu của ông là Arnulf của Kärnten, con trai của Karlmann, đẩy lui trong năm 887 do quyền lực cai trị quá yếu ớt. Dòng dõi Karoling (tiếng Anh: Carolingian) Đông chấm dứt khi Ludwig con trẻ (Ludwig das Kind), với con trai của Arnulf và là người cuối cùng của dòng họ chết vào năm 911.
[sửa] Triều đại Otto
Sau khi dòng họ Karoling tuyệt hậu, nhằm để không gây nguy hại đến quyền lực riêng, công tước của các bộ tộc đã bầu công tước người Franken Konrad I, người được cho là yếu đuối, lên làm vua của họ vào năm 911. Tiếp theo ông là công tước Sachsen Heinrich I từ dòng họ Liudolfing hay Otto. Heinrich I đã bảo vệ vương quốc chống lại những cuộc tấn công của người Hung và người Slavơ. Bên cạnh di sản Franken, một tính cách Đức riêng biệt ngày càng nổi bật. Heinrich I chỉ định con trai của ông là Otto I làm người kế vị. Vị vua này dựa vào Nhà Thờ để bảo vệ quyền lực của ông (đọc bài Hệ thống Nhà thờ Vương quốc). Năm 955 Otto chiến thắng người Hung trong trận Lechfeld. Năm 950 Böhmen và từ năm 963 Ba Lan đã có thời gian là lãnh thổ phụ thuộc vào nền độc lập Đức-La Mã. Otto mở rộng vùng thống trị của ông với nhiều phần đất của nước Ý. Sau khi kết hôn với Adelheid của Burgund ông tự xưng là vua của người Langobard (tiếng Anh: Lombard). Năm 962 Otto đăng quang làm hoàng đế. Ở Nam Ý ông sa vào tranh chấp với hoàng đế Byzantine. Con trai của ông, Otto II, cuối cùng kết hôn với Theophanu, cháu giá của hoàng đế Byzantine, thế nhưng Nam Ý vẫn thuộc về Đế quốc Byzantine. Năm 983 Otto II bị thất trận nặng nề trước người Ả Rập. Các vùng đất phía đông sông Elbe bị mất đi cho đến gần 20 năm trong cuộc nổi dậy của người Slavơ. Con trai của Otto, Otto III, chết trước khi ông kịp thực hiện kế hoạch chuyển dời quyền lực về Roma. Vị vua Otto cuối cùng, Heinrich II, phải chống cự lại Ba Lan (vua Bolesław I) và Hungary (vua Stephan I). Dưới thời của ông, hệ thống nhà thờ vương quốc tiếp tục được mở rộng.
[sửa] Giữa thời Trung cổ: Các hoàng đế người Sali
- Đọc bài chính về nước Đức giữa thời Trung cổ
Năm 1024 các tuyển hầu Đức bầu người Sali Konrad II lên làm hoàng đế. Ông thu được vương quốc Burgund trong năm 1032. Người kế thừa ông, Heinrich III, truất phế ba giáo hoàng kình địch lẫn nhau, đưa Clemens II là một người thuộc phe cải tổ lên làm Giáo Hoàng và để cho Clemens làm lễ lên ngôi hoàng đế cho ông vào năm 1046. Dưới thời hoàng đế Heinrich IV cuộc tranh cãi về quyền bổ nhiệm các giám mục bùng nổ lớn vì những người muốn cải cách Nhà Thờ quy tội hoàng đế buôn bán các chức vụ của Nhà Thờ. Heinrich tuyên bố truất phế giáo hoàng Gregor VII. Sau đấy Giáo Hoàng lại tuyên bố trục xuất Heinrich ra khỏi đạo. Để hủy bỏ việc trục xuất ra khỏi Nhà Thờ này, Heinrich IV đã phải đích thân về đến Canossa (đọc bài Chuyến đi Canossa). Năm 1804 ông lại truất phế giáo hoàng Gregor và để cho giáo hoàng Clemens III làm lễ đăng quang trở thành hoàng đế tại Roma. Con của ông là Heirich V cuối cùng lại liên kết với các quận công chống lại và truất ngôi ông. Một cuộc chiến tranh kéo dài chỉ được tránh khỏi do người cha mất trong năm 1106. Cùng với Giáo ước Worms (Wormser Konkordat) hoàng đế Heinrich V giảng hòa với Nhà Thờ trong năm 1122. Sau khi Heinrich V qua đời, các tuyển hầu đã bầu Lothar III của Suplinburg lên làm vua. Việc dòng họ Welf nhiều quyền lực ủng hộ Lothar chống lại Friedrich thuộc dòng họ Stauf đã gây ra cuộc tranh chấp quyền lực kéo dài trong suốt thế kỷ 12 giữa hai dòng họ Welfen và Stauf.
[sửa] Triều đại Staufer
Thể loại: Bài đang dịch | Lịch sử Đức | Đức | Lịch sử