Thành viên:Thuphuong
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phân tích chữ Nôm theo Hình-Âm-Nghĩa
LÊ ANH MINH
HÁN – NÔM – QUỐC NGỮ LATIN HÓA Việt ngữ thuộc ngữ tộc nào? Dường như cho đến nay chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Trước đây người ta cho rằng Việt ngữ thuộc hệ Mon-Khmer, gần đây có thuyết nói nó thuộc hệ Nam-Á, lại có thuyết nói nó thuộc hệ Austro-Asiatic (Úc-Á).
Về quá trình phát triển của Việt ngữ, Henri Maspero phân biệt 5 thời kỳ:
●Thời kỳ tối cổ của Việt ngữ: Việt ngữ được sử dụng trước và trong thời Bắc thuộc.
●Thời kỳ tiền cổ Việt ngữ: Việt ngữ được tăng thêm phần từ Hán Việt mới tạo vào thế kỷ X, tức thời tự chủ.
●Thời kỳ cổ Việt ngữ: Việt ngữ lưu hành ở thế kỷ XV và VI mà ta có thể tìm dấu vết trong quyển Hoa Di Dịch Ngữ, một quyển tự điển đối chiếu Việt ngữ với Hán ngữ viết vào đời Minh.
●Thời kỳ trung đại Việt ngữ: Việt ngữ lưu hành ở thế kỷ XVII mà ta có thể tìm dấu vết trong quyển Tự vị Việt-Bồ-La của giáo sĩ Alexandre de Rhodes (in tại Rome, 1651).
●Thời kỳ cận đại Việt ngữ: Việt ngữ hiện lưu hành.
Đơn giản hơn, ta có thể sơ kết rằng:
- Người Việt Nam suốt 1000 năm Bắc thuộc đã sử dụng chữ Hán. Việt ngữ có lẽ là văn nói trong dân gian mà thôi.(1)
- Khoảng thế kỷ XIII – XIV (?), người Việt Nam đã vay mượn chữ Hán mà chế tác ra hệ thống chữ Nôm (văn viết).
- Khoảng thế kỷ XVII, chữ Quốc ngữ (tức Việt ngữ Latin hóa) hình thành. Trong thời gian này các giáo sĩ Thiên Chúa giáo đến các nước châu Á truyền đạo, họ cố gắng học nói tiếng bản xứ để việc truyền giáo được hữu hiệu hơn. Họ đã Latin hóa (romanize) ngôn ngữ bản địa trước tiên là giúp học tập nhanh chóng tiếng bản địa, sau đó nếu có thể thì thay thế tiếng bản địa. Ngoài Trung Quốc, các nước Nhật, Hàn, Việt Nam chịu ảnh hưởng Nho giáo nặng nề mà Hán ngữ là công cụ truyền đạt. Nếu Latin hóa được các ngôn ngữ ở các nước này, sự thay đổi một tín ngưỡng cũ bằng một tôn giáo mới sẽ thuận lợi hơn nhiều. Tại Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, sự Latin hóa cho đến bây giờ chỉ dừng lại ở chức năng ghi âm cho người ngoại quốc dễ học ngôn ngữ bản địa thôi. Nhưng ở Việt Nam, nhiều giáo sĩ (nhất là giáo sĩ dòng Tên) cùng với các giáo sĩ người Việt đã hợp tác mà sáng chế ra Việt ngữ Latin hóa mà ta gọi đơn giản là Quốc ngữ, và nó đã thay thế thành công chữ Nôm. Giai đoạn hình thành chữ Quốc ngữ, theo Đỗ Quang Chính, trong khoảng 1620-1659.(2)
CẤU TRÚC CHỮ NÔM Những công trình phân tích cấu trúc chữ Nôm từ trước đến nay, nếu không dựa vào Lục Thư của chữ Hán thì cũng phân chia rất chi ly, rườm rà, khó hiểu, khó nhớ. Để đơn giản hơn, Lê Anh Minh đã phân tích cấu trúc chữ Nôm thành 5 loại, dựa vào ba yếu tố: Hình-Âm-Nghĩa của tam giác ngữ nghĩa (semantic triangle). Cách phân loại này có thể chưa hoàn chỉnh về mặt ngữ học, nhưng nó có thể giúp việc học chữ Nôm dễ dàng hơn.
Trước tiên là vài ký hiệu quy ước:
H : Hình (tự dạng) của chữ thuần Hán.
h : Hình (tự dạng) của chữ thuần Nôm.
A : Âm (Hán Việt) của chữ Hán.
a : Âm của chữ Nôm.
N : Nghĩa của chữ Hán.
n : Nghĩa của chữ Nôm.
< : bắt nguồn từ chữ Hán
Thí dụ: HAN nghĩa là chữ thuần Hán; han nghĩa là chữ thuần Nôm.
● Loại 1 (HAN):
Vay mượn 100% chữ Hán về hình, âm, nghĩa. Thí dụ: Hán 漢, Việt 越, dân 民, tỉnh 省, thành 城, học 學, sinh 生, v.v...
● Loại 2 (HaN):
Giữ nguyên hình và nghĩa của chữ Hán, nhưng đọc theo âm Nôm. Thí dụ:
車 xe (< 車 xa) 孤 côi (< 孤 cô)
局 cuộc (< 局 cục) 餅 bánh (< 餅 bính)
家 nhà (< 家 gia) 卷 cuốn (< 卷 quyển)
刀 dao (< 刀 đao) 巾 khăn (< 巾 cân)
瓦 ngói (< 瓦 ngõa) 心 tim (< 心 tâm)
● Loại 3 (HAn):
Giữ nguyên hình và âm của chữ Hán, nhưng đổi nghĩa.
Thí dụ:
沒 một (n=số 1; N=mất đi)
卒 tốt (n=tốt [≠ xấu]; N=lính, xong [tốt nghiệp])
債 trái (n=trái [≠ phải]; N=món nợ)
司 tư (n=lo nghĩ; N=lo việc [cũng đọc là ty : công ty])
戈 qua (n=đi qua; N=vũ khí dài)
賒 xa (n=xa [≠ gần]; N=mua trả góp)
昌 xương (n=cục xương; N=đẹp, hưng thịnh)
泊 bạc (n=màu trắng; N=bến đậu thuyền)
● Loại 4 (Han):
Giữ nguyên hình của chữ Hán, nhưng đổi hẳn âm và nghĩa.
Thí dụ:
帝 đấy (< A: đế; N: vua)
固 có [≠ không] (< A: cố; N: vững chắc)
羅 (罗) là (< A: la; N: võng, lưới, lụa)
略 trước [≠ sau] (< A: lược; N: sơ lược, tính toán)
別 biết [=hiểu biết] (< A: biệt; N: cách biệt, khác)
及 gặp [=gặp gỡ] (< A: cập; N: đến, kịp tới)
弄 sống (< A: lộng; N: đùa giỡn)
工 trong (< A: công; N: công việc)
每 mũi (< A: mỗi; N: mỗi một)
林 trăm [=100] (< A: lâm; N: rừng)
滝 sông (< 瀧 A: lung; N: nước chảy xiết) (竜 là chữ cổ của 龍 )
● Loại 5 (han±):
Chữ thuần Nôm. Dấu ± nghĩa là thêm (+) hoặc bớt (-) nét của chữ Hán mà thành chữ Nôm. Như vậy loại này có hai tiểu loại:
1. han+ (thêm nét):
a/- Thêm nét ㄑ个 « . Thí dụ:
女< nỡ, nợ, nữa (< 女 nữ)
支< chê (< 支 chi)
馬< mỡ, mựa (< 馬 mã)
mới (< 買 mãi)
“支 cho (< 支 chu)
“貝 buổi (< 貝 bối)
“青 “台 thảnh thơi (< 青台 thanh thai)
b/- Thêm một chữ Hán (tức là ghép Hán+Hán). Thí dụ:
trời (thiên 天 + thượng 上)
Các chữ thường thêm vào: 口, 巨, 巴, 車, 亠, 阿...
c/- Thêm nét và thêm chữ Hán. Thí dụ:
bố (vương 王+ bố 布 + nét giản lược của 司 [tức là 司 bỏ 一 và 口])
d/- Thêm bộ thủ chữ Hán. Thí dụ:
渃 nước (thủy 氵+ nhược 若 )
扜 vo [vo tròn] (thủ 扌+ vu 于)
Các bộ thủ thường được dùng là: 亠, 刂, イ, 厂, 广, 氵, 忄, 辶, 土, 寸, 口, 巾, 山, 犭, 子, 小, 女, 礻, 灬, 木, 艹, 日, 月, 牛, 毛, 片, 牙, 疒, 瓦, 石, 衤, 白, 目, 皮, 田, 米, 耳, 竹, 舟, 羽, 雨, 色, 耒, 糸, 貝, 走, 足, 車, 角, 酉, 金, 風, 食, 髟, 馬, 魚, 赤, ...
2. han– (bớt nét):
Bớt nét của chữ Hán, đổi luôn âm và nghĩa. Thí dụ:
khệnh khạng (< 共 cộng [bỏ một trong hai nét ở chân])
khề khà (< 其 kỳ [bỏ một trong hai nét ở chân])
CHÚ Ý: Còn một số chữ viết tắt chữ Hán gốc (tương tự chữ giản thể Trung Quốc hoặc viết tắt khác đi), tức là không đổi âm và nghĩa. Ta không cần liệt kê riêng thành một loại. Thí dụ:
风 phong (< 風 phong)
náo (< 鬧 náo)
万 vạn (< 萬 vạn)
乙 vũ (< 雨 vũ) (không phải là ất)
り tiền (< 錢 tiền)
CHÚ THÍCH
(1) Có giả thuyết cho rằng thời cổ đại người Việt đã có chữ viết ngoằn ngoèo như giun bò. Có thuyết nói rằng thời Đào Đường (khoảng năm 2000 tcn) người Việt đã có chữ viết như nòng nọc (khoa đẩu văn). Tuy nhiên đó cũng chỉ là giả thuyết chưa kiểm chứng.
(2) Xem: Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ, Saigon, 1972. Trong lời kết (tr.130) Đỗ Quang Chính nói tổng quát là nhiều giáo sĩ dòng Tên sáng chế chữ Quốc ngữ với sự cộng tác hữu hiệu của các giáo sĩ bản địa. Ông không khẳng định cá nhân nào có công nhất trong việc sáng chế này. Nhưng theo một thuyết phổ thông, Alexandre de Rhodes là giáo sĩ dòng Tên đã hệ thống lại chữ Quốc ngữ, rồi theo thời gian do qua tay nhiều người mà chữ Quốc ngữ mới có diện mạo như ngày nay.
Hanosoft R & D - Nghiên cứu & phát triển phần mềm Hán Nôm