Vị thế chính trị Đài Loan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sự tranh cãi về vị thế chính trị Đài Loan xoay quanh việc Đài Loan, gồm cả quần đảo Bành Hồ (Pescadores hoặc Penghu), nên tiếp tục tồn tại với tư cách là một vùng lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc (THDQ), hay thống nhất với những vùng lãnh thổ hiện thuộc quyền quản lý của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH), hay trở thành nước Cộng hòa Đài Loan. Tình trạng chính trị của Đài Loan rất rắc rối vì những tranh cãi về sự tồn tại của Trung Hoa Dân Quốc như một nhà nước, nói cách khác về vị thế chính trị của Trung Hoa Dân Quốc.
Hiện tại, Đài Loan; Kim Môn, Ô Khâu hương, đảo Mã Tổ, và các đảo khác bên ngoài bờ biển Phúc Kiến; và đảo Ba Bình (Itu Aba) cùng quần đảo Pratas ("quần đảo Đông Sa" theo Trung Quốc) tại Biển Đông đang là những phần tạo thành nhà nước được gọi là Trung Hoa Dân Quốc (THDQ). THDQ từng kiểm soát đại lục Trung Quốc, đòi chủ quyền đối với Ngoại Mông và Tannu Uriankhai (một phần của nó hiện nay là nước cộng hoà Tuva) trước khi chính phủ của nó buộc phải dời sang Đài Bắc năm 1949.
Từ khi THDQ mất ghế tại Liên Hiệp Quốc năm 1971 (bị thay thế bởi CHNDTH), đa số các nước có chủ quyền đã quay sang công nhận ngoại giao đối với CHNDTH, coi nó là đại diện hợp pháp duy nhất của toàn bộ Trung Quốc, đáng chú ý nhất là việc Mỹ công nhận năm 1979. Tới năm 2006, họ vẫn giữ các quan hệ ngoại giao chính thức với 25 nước có chủ quyền, dù trên thực tế các mối quan hệ vẫn được giữ với nhiều nước. Các cơ quan như Văn phòng đại diện văn hoá và kinh tế Đài Bắc và Viện Hoa Kỳ tại Đài Loan đang hoạt động "trên thực tế" như những đại sứ quán, dù không có được đặc quyền ngoại giao theo luật: họ không thể cung cấp bất kỳ sự bảo vệ lãnh sự nào và các nhân viên của họ cũng không có được bất kỳ quyền miễn trừ ngoại giao nào. Địa điểm của văn phòng vẫn nằm tại nước chủ nhà.
Chính phủ THDQ trong quá khứ từng coi mình là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung quốc, cũng như những lãnh thổ cũ của họ. Lập trường này đã bắt đầu bị quên lãng từ đầu thập niên 1990, chuyển sang thành không tranh chấp về vị thế hợp pháp với việc CHNDTH cai quản đại lục Trung Quốc, dù những tuyên bố chủ quyền của THDQ vẫn chưa được rút lại thông qua việc sửa đổi hiến pháp. Các nhóm khác nhau có những quan niệm khác nhau về tình trạng chính trị thực tế hiện tại của Đài Loan. (Xem thêm: Độc lập Đài Loan, Thống nhất Trung Quốc, và Quan hệ hai bên eo biển Đài Loan)
Hơn nữa, tình hình có thể bị hiểu nhầm bởi vì có các đảng phái khác nhau và những nỗ lực từ phía nhiều nhóm khác nhau để giải quyết tranh chấp thông qua một chính sách nhập nhằng có chủ định. Giải pháp chính trị được chấp nhận bởi nhiều nhóm hiện nay là giữ nguyên trạng: có nghĩa là, không chính thức coi Đài Loan là một quốc gia và ở mức tối thiểu chính thức tuyên bố không ủng hộ chính phủ nước này tuyên bố độc lập. Tuyên bố độc lập một cách chính thức là cái gì thì hiện vẫn chưa rõ ràng và có thể bị nhầm lẫn trước thực tế rằng Cộng hoà nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ kiểm soát được Đài Loan từ khi nó được thành lập và sự thực là chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đang kiểm soát Đài Loan, tự coi mình là quốc gia có chủ quyền một cách hợp pháp. Tình trạng nguyên trạng được chấp nhận phần lớn bởi vì nó không xác định tình trạng hợp pháp hay tình trạng tương lai của Đài Loan, khiến cho mỗi nhóm đều có thể giải thích tình trạng này theo một cách chính trị có thể chấp nhận được đối với các thành viên của mình. Cùng lúc ấy, một chính sách giữ nguyên trạng đã bị chỉ trích vì quá nguy hiểm bởi vì những bên khác nhau có cách giải thích khác nhau về cái gọi là nguyên trạng, dẫn tới khả năng xảy ra chiến tranh do việc tiến sát bên lề cuộc chiến (brinkmanship) hay do tính toán sai lầm.
[sửa] Bối cảnh
Đài Loan, cùng với quần đảo Bành Hồ, đã được Trung Quốc (lúc ấy ở thời nhà Thanh) nhượng lại cho Nhật Bản năm 1895. Nhật Bản đầu hàng Trung Quốc năm 1945 khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai sau 50 năm cai trị thuộc địa, và nó đã trở thành một tỉnh của Trung Hoa Dân Quốc. Khi thất trận trong cuộc Nội chiến Quốc-Cộng năm 1949, chính phủ THDQ phải dời sang Đài Bắc, và giữ quyền kiểm soát một số đảo dọc theo bờ biển đại lục Trung Quốc và tại Biển Đông, trong khi Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được thành lập tại đại lục tháng 10, 1949, tuyên bố họ là nhà nước kế tục của THDQ.
Đảo Kim Môn, Mã Tổ và Ô Khâu hương ở bờ biển Phúc Kiến, và đảo Ba Bình¹ và quần đảo Pratas ở Biển Đông, hiện đang là một phần của lãnh thổ THDQ hiện nay, nhưng chúng không được nhượng lại cho Nhật Bản. Một số tranh cãi ủng hộ độc lập cho Đài Loan không áp dụng cho những đảo này.
¹(Đảo Ba Bình (Itu Aba) đang bị tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á khác)
[sửa] Vấn đề chủ quyền
[sửa] Sự nhượng quyền, sự trả lại và sự tự quyết của Đài Loan

Ở thời nhà Thanh, Trung Quốc đã nhượng lại "vĩnh viễn" hòn đảo này cùng với quần đảo Bành Hồ cho Nhật Bản vào lúc kết thúc cuộc Chiến tranh Trung Nhật lần thứ nhất sau khi ký kết Thoả ước Shimonoseki. Tại Hội nghị Cairo năm 1943, các nước chính trong phe Đồng Minh đã đồng ý để Nhật Bản trả lại "toàn bộ lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc", gồm cả Đài Loan và Bành Hồ, cho Trung Hoa Dân Quốc khi Nhật đầu hàng. Theo cả Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc, thoả thuận này có hiệu lực hợp pháp theo Văn kiện đầu hàng của Nhật Bản năm 1945. Đại sứ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tại Liên hiệp quốc, Vương Anh Phàm (王英凡), đã nhiều lần tuyên bố tại Liên hiệp quốc: "Đài Loan là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc từ trong lịch sử lâu dài" và "cả Tuyên bố Cairo năm 1943 và Tuyên bố Potsdam năm 1945 đã tái khẳng định chủ quyền rõ ràng của Trung Quốc đối với Đài Loan là một nội dung của luật pháp quốc tế."
Mặt khác, một số người ủng hộ Đài Loan độc lập cho rằng Đài Loan đã chỉ chính thức sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc dưới thời nhà Thanh năm 1683, và trở thành một tỉnh năm 1885. Sau đó, bởi vì Hiệp ước Shimonoseki năm 1895, Đài Loan về mặt pháp lý là một phần của Nhật Bản khi THDQ được thành lập năm 1912 và vì vậy không phải là một phần của THDQ. Tuy nhiên, những người ủng hộ thống nhất chỉ ra rằng "nhà Thanh" nói chung đã được chấp nhận là một cái tên trong lịch sử của Trung Quốc. Do vậy, chính phủ THDQ là người kế tục của nhà Thanh. Cũng như vậy, vì Tuyên bố Cairo là một thông cáo không được ký kết, những người ủng hộ độc lập cho rằng tính hợp pháp của tuyên bố này cần phải được xem xét lại. Hơn nữa, họ chỉ ra rằng văn kiện đầu hàng của Nhật Bản chỉ đơn giản là một sự đình chiến, một tạm ước theo đúng tính chất, và chỉ là một thoả thuận tạm thời hay nhất thời và sẽ bị thay thế bởi một hiệp ước hoà bình. Vì thế, những người ủng hộ độc lập quả quyết rằng cả Hiệp ước hoà bình San Francisco và Hiệp ước Đài Bắc có tính pháp lý cao hơn văn kiện đầu hàng và rằng các hiệp ước đã không chuyển tư cách Đài Loan từ Nhật Bản sang cho Trung Quốc. Theo lý lẽ này, chủ quyền của Đài Loan được trả lại cho người dân Đài Loan khi Nhật Bản rút lại chủ quyền đối với Đài Loan tại Hiệp ước hoà bình San Francisco (SFPT) năm 1951, dựa trên chính sách tự quyết đã được áp dụng cho "những vùng lãnh thổ bị tách ra từ các quốc gia thù địch như là kết quả của Chiến tranh thế giới thứ hai" như được quy định bởi điều 76b và 77b của Hiến chương Liên hiệp quốc và bởi Nghị định thư của Hội nghị Yalta. Tuy nhiên, những người ủng hộ độc lập phản đối rằng cả THDQ và CHNDTH đều không ký kết vào Hiệp ước hoà bình San Francisco (SFPT), khiến cho SFPT không có quyền áp dụng hợp pháp vào tình trạng chủ quyền của Đài Loan. Những người ủng hộ độc lập chỉ ra rằng ở cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Đồng minh đã đồng ý rằng THDQ "tạm thời chiếm Đài Loan thay cho các lực lượng Đồng Minh" dưới sự cho phép của Tướng Douglas MacArthur ngày 2 tháng 9, 1945. Những người ủng hộ thống nhất chỉ ra sự thực rằng Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Postdam đã được trích dẫn trong cả Văn kiện đầu hàng của Nhật Bản và Hiệp ước hoà bình giữa Nhật Bản và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, hoàn thành việc trao trả chủ quyền từ Nhật Bản sang Trung Quốc. Vì thế Tuyên bố Cairo, Tuyên bố Postdam và Văn kiện đầu hàng của Nhật Bản sau đó cùng với Hiệp ước hoà bình giữa Nhật Bản và Trung Quốc phải được coi là có tính pháp lý cao hơn lệnh của Tướng MacArthur. Thậm chí một số người coi Hiệp ước Đài Bắc năm 1952 là đã trực tiếp cho thấy rằng Nhật Bản công nhận chủ quyền của chính phủ THDQ đối với Đài Loan, Bành Hồ, và "các lãnh thổ hiện nay hay có thể từ đây nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ của nó," Nhật Bản đã bãi bỏ hiệp ước này ngay khi thiết lập các quan hệ ngoại giao với Cộng hoà nhân dân Trung Hoa năm 1972 bằng cách công nhận tuyên bố của CHNDTH rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc.
Dù việc giải thích các hiệp ước hoà bình đã được sử dụng để bác bỏ tính hợp pháp của THDQ đối với Đài Loan trước thập kỷ 1990, việc tiến hành các cuộc bầu cử toàn dân ở Đài Loan đã làm tổn hại đến quan điểm này. Ngoại trừ những người ủng hộ độc lập cho Đài Loan một cách cực đoan, đa số dân Đài Loan ủng hộ thuyết chủ quyền nhân dân và không thấy có nhiều xung đột giữa thuyết chủ quyền này và lập trường THDQ. Theo nghĩa này, chính phủ THDQ hiện cai quản Đài Loan không phải là chính phủ THDQ đã chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản bởi vì các chính quyền cai trị đã được uỷ nhiệm của nhân dân thông qua các cuộc bầu cử khác nhau: một là toàn bộ cử tri đại lục Trung Quốc, một là các cử tri của Đài Loan. Trên thực tế, tổng thống hiện nay Trần Thuỷ Biển đã thường nhấn mạnh tới thuyết chủ quyền nhân dân trong những bài phát biểu của mình.
Tuy nhiên, tới năm 2005, xung đột giữa hai thuyết vẫn còn chiếm một vị trí quan trọng bên trong chính trị Đài Loan. Thuyết chủ quyền nhân dân, được liên minh xanh lá cây nhấn mạnh cho rằng Đài Loan cần phải có những thay đổi căn bản về hiến pháp thông qua biện pháp trưng cầu dân ý. Thuyết THDQ hợp pháp, được liên minh xanh dương ủng hộ, cho rằng bất kỳ những thay đổi căn bản hiến pháp nào đòi hỏi phải thông qua thủ tục sửa đổi hiến pháp của THDQ.
[sửa] Quan điểm của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH)
Lập trường của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho rằng Cộng hòa Trung Hoa đã ngừng tồn tại với tư cách là một chính phủ hợp pháp từ khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập ngày 1 tháng 10, 1949 và rằng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là chính thể tiếp nối của Cộng hòa Trung hoa với tư cách chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, với quyền cai trị Đài Loan theo lý thuyết kế tục nhà nước. Như vậy, mặt khác quyền hợp pháp của Cộng hòa Trung Hoa trong việc chiếm lại lục địa vẫn không được chấp nhận rộng rãi mà còn đang bị tranh cãi.
Cộng hòa Trung Hoa cho rằng họ có mọi tính chất của một nhà nước và rằng họ không phải bị "thay thế" hay "kế tục" bởi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bởi vì họ vẫn đang tiếp tục tồn tại một thời gian dài sau khi nước này được thành lập. Theo Thỏa ước Montevideo năm 1933, nguồn được trích dẫn nhiều nhất để định nghĩa một quốc gia là: một quốc gia phải sở hữu một dân số cố định, một lãnh thổ được xác định, một chính phủ và khả năng thiết lập quan hệ với các quốc gia khác. Cộng hòa Trung Hoa tuyên bố họ có đủ mọi tính chất đó bởi vì họ sở hữu một chính phủ có chủ quyền với quyền tài phán trên những vùng lãnh thổ đã được xác định rõ với hơn 23 triệu dân và một bộ ngoại giao thực sự.
Những người ủng hộ thống nhất ở Lục địa Trung Quốc cho rằng Cộng hòa Trung Hoa và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là hai phe trong cuộc Nội chiến Trung Quốc, vốn chưa bao giờ chính thức kết thúc. Vì thế, cả hai bên đều thuộc về cùng một nước có chủ quyền - Trung Quốc. Bời vì chủ quyền của Đài Loan thuộc về Trung Quốc, sự li khai của Đài Loan phải được chấp nhận bởi 1.3 tỷ người Trung Quốc chứ không phải 23 triệu người đang sống ở Đài Loan. Hơn nữa, theo Nghị quyết 2758 của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, cho rằng "Công nhận rằng những đại diện của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung hoa là những đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc trước Liên hiệp quốc", Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chính thức được trao chủ quyền đối với toàn bộ Trung Quốc, kể cả Đài Loan. Vì thế, dựa trên tuyên bố chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với Đài Loan, nước này có quyền hợp pháp khi mở rộng quyền tại phán của mình đối với Đài Loan, kể cả bằng vũ lực nếu cần thiết.
Tuy nhiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho rằng Cộng hòa Trung Hoa không đáp ứng với tiêu chí thứ tư của Thỏa ước Montevideo, bởi vì họ chỉ được 25 nước (khá nhỏ và nghèo) công nhận và bị cấm tham gia vào các tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc. Những phản đối của Cộng hòa Trung Hoa cho rằng sức ép của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với các nước đã khiến họ không thể được công nhận rộng rãi và rằng Điều 3 của Thỏa ước Montevideo đó cũng nói rõ, "Sự hiện diện chính trị của quốc gia độc lập với sự công nhận của các nước khác." Điều này đã được thực hiện bởi vì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã có nhiều hành vi cưỡng ép nhằm cô lập Cộng hòa Trung Hoa về mặt ngoại giao. Tuy nhiên, những người ủng hộ thống nhất lại chỉ ra sự thật là Thỏa ước Montevideo chỉ được ký kết bởi 19 nước tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 7 các nước Châu Mỹ. vì thế, quyền lực của Liên hiệp quốc cũng như các Nghị quyết của Liên hiệp quốc có tính chất pháp lý cao hơn Thỏa ước Montevideo.
Lập trường hiện tại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho rằng "Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất đối với Trung Quốc và Đài Loan là một phần không thể tách rời của Trung Quốc". Cộng hòa Nhân dân Trung hoa không muốn đàm phán với Cộng hòa Trung Hoa về bất kỳ một hình thức nào khác ngoài Chính sách một Trung Quốc, nhưng đã tỏ ra thiện chí cho phép ý nghĩa "một Trung Quốc" được hiểu theo cách mơ hồ. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa coi việc vi phạm vào Chính sách một Trung Quốc, hay những hành động mâu thuẫn với chính sách đó như việc cung cấp vũ khí cho Cộng hòa Trung Hoa là một sự vi phạm vào quyền toàn vẹn lãnh thổ của họ. Các tổ chức thông tin quốc thế thường báo cáo rằng "Trung Quốc coi Đài Loan là một tỉnh phản loạn cần phải được thống nhất với lục địa bằng vũ lực nếu cần thiết", thậm chí khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không nói rõ ràng rằng Đài Loan là một tỉnh phản loạn. Tuy nhiên, phương tiện truyền thông đại chúng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các quan chức của họ thường coi Đài Loan là "Tỉnh Đài Loan của Trung Quốc". (Những vùng Cộng hòa Trung Hoa tuyên bố chủ quyền Quemoy, Wuchiu và Matsu là một phần Tỉnh Phúc Kiến của họ, các đảo ở Biển Đông thuộc tỉnh Quảng Đông và Hải Nam.)
[sửa] Quan điểm của Cộng hoà Trung Hoa (ROC)
Quan điểm của Cộng hoà Trung Hoa luôn cho rằng họ trên thực tế là một quốc gia có chủ quyền. Chính phủ Cộng hoà Trung Hoa thời cầm quyền độc tài của Quốc Dân Đảng luôn giữ lập trường rằng họ là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc cho tới tận năm 1991, khi Tổng thống Lý Tường Huy tuyên bố rằng chính phủ của ông không còn tranh chấp quyền cai trị với những người Cộng sản ở lục địa nữa. Tuy nhiên, Quốc hội, cơ quan hiện không còn tồn tại nữa, chưa bao giờ chính thức thay đổi biên giới quốc gia, bởi vì Trung Quốc cho rằng đó sẽ là "sự chấm dứt nền độc lập của Đài Loan". Việc thay đổi biên giới quốc gia giờ đây đỏi hỏi phải có sự sửa đổi hiến pháp và được Lập pháp viện thông qua cũng như được phê chuẩn bởi đa số tuyệt đối của cử tri Cộng hoà Trung Hoa.
Mặt khác, dù Hiến pháp Cộng hoà Trung Hoa được ban hành năm 1946 không chỉ rõ những vùng lãnh thổ nào bao gồm trong quốc gia, bản dự thảo hiến pháp năm 1925 đã liệt kê danh sách các tỉnh của Cộng hoà Trung Hoa và Đài Loan không phải là một trong số đó, bởi vì Đài Loan trên thực tế là một phần lãnh thổ của Nhật Bản chiểu theo Hiệp ước Shimonoseki năm 1895. Hiến pháp cũng quy định tại Khoản I.4, rằng "lãnh thổ Cộng hoà Trung Hoa là lãnh thổ nguyên thuộc quyền cai trị của họ; trừ khi được Quốc hội cho phép, điều này không thể được thay đổi." Tuy nhiên, vào năm 1946, Sun Ke, con trai Tôn Dật Tiên và Bộ trưởng Hành pháp viện Cộng hoà Trung Hoa, đã báo cáo với Quốc hội rằng "có hai kiểu thay đổi lãnh thổ: 1. từ bỏ lãnh thổ và 2. sáp nhập lãnh thổ mới. Ví dụ cho trường hợp đầu tiên là sự độc lập của Mông Cổ, và trường hợp thứ hai sẽ là việc giành lại Đài Loan. Cả hai đều là những ví dụ về sự thay đổi lãnh thổ." Nhật Bản đã từ bỏ mọi quyền đối với Đài Loan theo Hiệp ước San Francisco năm 1951 và Hiệp ước Đài Bắc năm 1952 mà không có bên nhận lại rõ ràng. Trong khi Cộng hoà Trung Hoa liên tục cầm quyền ở Đài Loan sau khi chính phủ cầm quyền Đài Loan theo Chỉ thị chung số 1 chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản, chưa từng có một cuộc họp nào của Quốc hội Cộng hoà Trung Hoa để tiến hành thay đổi lãnh thổ theo Hiến pháp Cộng hoà Trung Hoa, dù các Điều khoản sửa đổi của Hiến pháp Cộng hoà Trung Hoa đã đề cập tới Tỉnh Đài Loan. Vì thế, nhiều người ủng hộ Đài Loan độc lập đã chỉ ra rằng Hiến pháp Cộng hoà Trung Hoa trên thực tế ngăn cản chính họ cai trị Đài Loan một cách hợp pháp. [1]
Quốc hội, cơ quan hiện không còn tồn tại nữa, đã đưa ra các sửa đổi hiến pháp trao cho nhân dân "Vùng tự do Cộng hoà Trung Hoa", gồm cách lãnh thổ họ kiểm soát, đặc quyền thi hành chủ quyền của nhà nước Cộng hoà thông qua các cuộc bầu cử Tổng thống và toàn bộ ngành lập pháp cũng như thông qua các cuộc bầu cử để phê chuẩn những sửa đổi đối với Hiến pháp Cộng hoà Trung Hoa. Cũng như vậy, Chương I, Điều 2 Hiến pháp Cộng hoà Trung Hoa nói rằng "Chủ quyền của Cộng hoà Trung Hoa sẽ thuộc về toàn thể công dân." Đối với một số người, điều này có nghĩa rằng hiến pháp hoàn toàn chấp nhận rằng chủ quyền của Cộng hoà Trung Hoa bị giới hạn ở những vùng mà họ kiểm soát thậm chí nếu không có những sửa đổi hiến pháp quy định rõ ràng biên giới Cộng hòa Trung Hoa.
Năm 1999, Tổng thống Lý Tường Huy đề xuất lý thuyết hai nhà nước (hay lý thuyết quan hệ nhà nước – nhà nước, zh:兩國論) mà cả Cộng hoà Trung Hoa và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đều được coi là những nhà nước riêng biệt với quan hệ ngoại giao, văn hoá, lịch sự đặc biệt, và lý thuyết này đã được ủng hộ rộng rãi bên trong Đài Loan. Tuy nhiên, lý thuyết này khiến Cộng hoà nhân dân Trung Hoa phản ứng giận dữ, họ tin rằng Lý Tường Huy ngầm ủng hộ Đài Loan độc lập.
Tổng thống hiện nay, Trần Thuỷ Biển, tin rằng "Đài Loan là một nước độc lập, có chủ quyền" nhưng với quan điểm là "Đài Loan là Cộng hoà Trung Hoa." Điều này đã được đưa ra trong Lý thuyết bốn giai đoạn của Cộng hoà Trung Hoa. Tuy nhiên, ông đã thận trọng giữ im lặng về vấn đề Đài Loan có phải hay không một phần của Trung Quốc và ý nghĩa của của thuật ngữ Trung Hoa. Các giấy tờ của chính phủ đã ngụ ý rằng Đài Loan và Cộng hoà Trung Hoa, Trung Quốc và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là đồng nghĩ. Trần Thuỷ Biển cũng đã từ chối tán thành Nguyên tắc một Trung Quốc mà Cộng hoà nhân dân Trung Hoa yêu cầu, coi đó là điều kiện tiên quyết để bắt đầu đàm phán. Vì thế những nỗ lực tái khởi động các vòng đàm phán bán chính thức thông qua các công thức chiểu theo cuộc trưng cầu dân ý 1992 hay tinh thần 1992 đã không mang lại thành công. Sau khi trở thành chủ tịch Đảng tiến bộ dân chủ tháng 7 năm 2002, Trần Thuỷ Biển cho thấy xu hướng ngả theo lý thuyết hai nhà nước và vào đầu tháng 8, 2002, ông bình luận rằng Đài Loan có thể "đi trên con đường riêng của Đài Loan" và rằng "rõ ràng rằng hai bên bờ eo biển là các quốc gia riêng biệt." Những lời bình luận đó đã bị các đảng đối lập ở Đài Loan chỉ trích mạnh mẽ.
Lập trường của những người ủng hộ Đài Loan độc lập cho rằng Đài Loan không phải là một phần của Trung Quốc và cộng hoà nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc. Cho tới tận giữa thập kỷ 1990, những người ủng hộ Đài Loan độc lập phản đối Cộng hoà Trung Hoa và ủng hộ việc thành lập một nước Cộng hoà Đài Loan độc lập. Từ giữa thập kỷ 1990, một sự thoả hiệp giữa đa số những người ủng hộ Đài Loan độc lập và Thống nhất Trung Quốc đã đạt được về việc Đài Loan tiếp tục ủng hộ sự tồn tại của Cộng hoà Trung Hoa nhưng chỉ là một chính phủ quản lý duy nhất Đài Loan và các hòn đảo của họ. Liên đoàn đoàn kết Đài Loan, đảng nhỏ bên trong Liên minh xanh, phản đối sự thoả hiệp này.
Lập trường của những người ủng hộ Thống nhất Trung Quốc ở Đài Loan cho rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc nhưng Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không phải là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Trung Quốc, và rằng sự thống nhất không cần thiết phải xảy ra dưới chế độ cộng sản. Bên trong Đài Loan, sự ủng hộ Đài Loan độc lập và thống nhất Trung Quốc tồn tại như một phần của chính trị với sự quan tâm của đa số tầng lớp trung lưu. Theo truyền thống, thống nhất thường được những "người lục địa" (con cháu dân lục địa tới đây sau nội chiến) ủng hộ, trong khi những người ủng hộ độc lập là dân "Đài Loan bản xứ" (họ đã sống ở hòn đảo này trước khi xảy ra cuộc nội chiến). Tuy nhiên, cả hai nhóm đã hoà giải với nhau bởi các biện pháp cưỡng bức mà Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thực hiện nhằm tiến hành cuộc thống nhất hay sáp nhập bằng vũ lực.
[sửa] Quan điểm của các nước và các tổ chức quốc tế khác
- Xem thêm Các quan hệ nước ngoài của Cộng hoà Trung Hoa
Because of anti-Communist sentiment at the start of the Cold War, the Republic of China was initially recognized as the sole legitimate government of both mainland China and Taiwan by the United Nations and most Western nations. The United Nations General Assembly Resolution 505 passed on 1 February 1952 has considered the Chinese Communists rebels against the Republic of China. However, the 1970s saw a switch in diplomatic recognitions from the ROC to the PRC. On 25 October 1971, Resolution 2758 was passed by the UN General Assembly, which in effect expelled the Republic of China and replaced the China seat on the Security Council (and all other UN organs) with the People's Republic of China. It declared "that the representatives of the Government of the People's Republic of China are the only lawful representatives of China to the United Nations." Multiple attempts by the Republic of China to rejoin the UN, no longer to represent all of China but just the people of the territories it governs, have not made it past committee, largely due to diplomatic maneuvering by the PRC, which claims Resolution 2758 has settled the matter. (See China and the United Nations.)
The PRC refuses to maintain diplomatic relations with any nation that recognizes the ROC, but does not object to nations conducting economic, cultural, and other such exchanges with Taiwan that do not imply diplomatic relation. Therefore, many nations that have diplomatic relations with Beijing maintain unofficial quasi-diplomatic offices in Taipei. For example, the United States maintains the American Institute in Taiwan. Similarly, the government in Taiwan maintains quasi-diplomatic offices in most nations under various names, most commonly as the Taipei Economic and Cultural Office.
The United States, Canada, the United Kingdom and Japan recognize that there is one China and that the People's Republic of China is the sole legitimate government of China. However, the U.S. and Japan acknowledge rather than recognize the PRC position that Taiwan is part of China. In the case of Canada and the UK, the bilateral written agreement stated that the two respective parties take note of Beijing's position, but the word support was also not used. The UK government position has been stated several times that "the future of Taiwan be decided peacefully by the peoples of both sides of the Strait." Although the media in the PRC claim that the United States opposes Taiwanese independence, the United States takes advantage of the subtle difference between "oppose" and "does not support". In fact, a substantial majority of the statements Washington has made says that it "does not support Taiwanese independence", not "opposes". Thus, the US currently does not take a position on the political outcome except for one explicit condition that there be a peaceful resolution to the differences between the two sides of the Taiwan Strait. All of this ambiguity has resulted in the United States constantly walking on a diplomatic tightrope with regard to the China/Taiwan issue.
The ROC maintains formal diplomatic relations with 25 countries, mostly in Central America and Africa. Interestingly, the Holy See also recognizes the ROC, a largely non-Christian/Catholic state, mainly out of protest of the PRC's suppression of the Catholic faith on the mainland. Vatican City has repeatedly stated its intention to break relations with Taiwan as soon as the PRC grants more religious liberty. During the 1990s, there was a diplomatic tug of war in which the PRC and ROC would attempt to outbid each other for diplomatic support of small nations. However, by 2001, this effort seems to have ended as a result of the PRC's growing economic power and doubts on Taiwan as to whether this aid was actually in the Republic of China's interest. In March 2004, Dominica switched recognition to the PRC, in exchange for a large package of aid. However, in late 2004, Vanuatu briefly switched recognition from Beijing to Taipei, leading to the ousting of its Prime Minister and a return to its recognition of Beijing. On January 20, 2005, Grenada switched its recognition from Taipei to Beijing, in return for millions of dollars of aid (US$1,500 for every Grenadan). On October 26, 2005, Senegal also broke off relations with the Republic of China and established diplomatic contacts in Beijing.
Currently, the countries who maintain formal diplomatic relations with the ROC include:
|
|
Under continuing pressure from the PRC to bar any representation of the ROC that may imply statehood, international organizations have different policies toward the issue of Taiwan's participation. In cases (such as the UN and the World Health Organization under it) where almost all UN members or sovereign states participate, the ROC has been completely shut out while in others, such as the World Trade Organization (WTO) and International Olympic Committee (IOC) the ROC participates under unusual names: "Chinese Taipei" in the case of APEC and the IOC, and the "Separate Customs Territory of Taiwan, Penghu, Kimmen and Matsu" (often shortened as "Chinese Taipei") in the case of the WTO. The issue of Taiwan's name came under scrutiny during the 2006 World Baseball Classic. The organizers of the 16-team tournament intended to call Taiwan as such, but reverted to "Chinese Taipei" under pressure from China. The Taiwanese protested the decision, claiming that the WBC is not an IOC event, but did not prevail. The ISO 3166 directory of names of countries and territories registers Taiwan (TW) separately from and in addition to the People's Republic of China (CN), but lists Taiwan as "Taiwan, Province of China" based on the name used by the UN with PRC pressure. In ISO 3166-2:CN, Taiwan is also coded CN-71 under China, thus making Taiwan part of China in ISO 3166-1 and ISO 3166-2.
Naming of the ROC and Taiwan continues to be a contentious issue in non-governmental organizations. One organization which faced a huge controversy in this respect was the Lions Club.
[sửa] Sơ xuất khi phát ngôn
Many political leaders who have maintained some form of One-China Policy have committed slips of the tongue in referring Taiwan as a country or as the Republic of China. Presidents Ronald Reagan and George W. Bush have been known to have referred to Taiwan as a country during their terms of office. Although near the end of his term as U.S. Secretary of State, Colin Powell unintentionally said that Taiwan is not a state, he referred to Taiwan as the Republic of China twice during a testimony to the U.S. Senate Foreign Relations Committee on March 9, 2001 (Taipei Times; March 15, 2001). In the PRC Premier Zhu Rongji's farewell speech to the National People's Congress, Zhu accidentally referred to Mainland China and Taiwan as two countries (Taipei Times; March 6, 2003). There are also those from the PRC who informally refer to Taiwan as a country (Caroline Gluck; BBC News; August 17, 2005). Most recently, US Secretary of Defense Donald Rumsfeld stated in a local Chinese newspaper in California in July 2005 that Taiwan is "a sovereign nation". However, China discovered the statement about three months after it was made.
In a controversial speech on February 4, 2006, Japanese Foreign Minster Taro Aso called Taiwan a country with very high education levels because of previous Japanese colonial rule over the island (Taipei Times, February 6, 2006). One month later, he told a Japanese parliamentary committee that "[Taiwan's] democracy is considerably matured and liberal economics is deeply ingrained, so it is a law-abiding country. In various ways, it is a country that shares a sense of values with Japan." At the same time, he admitted that "I know there will be a problem with calling [Taiwan] a country" (Taipei Times, March 10, 2006). Later, the Japanese Foreign Ministry tried to downplay or reinterpret his remarks.
[sửa] Những giải pháp quân sự và can thiệp có thể xảy ra
Until 1979, both sides intended to resolve the conflict militarily. Intermittent clashes occurred throughout the 1950s and 1960s, with escalations comprising the First and Second Taiwan Strait crises. In 1979, with the U.S. change of diplomatic recognition to the PRC, the ROC lost its ally needed to "recover the mainland." Meanwhile, the PRC's desire to be accepted in the international community led it to promote peaceful unification under what would later be termed "one country, two systems," rather than to "liberate Taiwan" and institute socialism (in other words, to make Taiwan a Special Administrative Region).
[sửa] Điều kiện của PRC về can thiệp quân sự
Notwithstanding, the PRC government has issued triggers for an immediate war with Taiwan. These conditions are:
- if events occur leading to the separation of Taiwan from China in any name, or
- if Taiwan is invaded and occupied by foreign countries, or
- if Taiwan refuses reunification negotiations indefinitely.
Much saber-rattling by the mainland has been done over this, with Jiang Zemin, after assuming the mantle of the Chairman of the Central Military Commission, becoming a leading voice.
The third condition has especially caused a stir in Taiwan as the term "indefinitely" is open to interpretation. It has also been viewed by some as meaning that preserving the ambiguous status quo is not acceptable to the PRC, although the PRC stated on many occasions that there is no explicit timetable for reunification.
Concern over a formal declaration of de jure Taiwanese independence is a strong impetus for the military buildup between Taiwan and mainland China. Some people believe that Taiwan will attempt a declaration of independence during the 2008 Olympic Games in Beijing. Others point out that the current US administration has publicly declared that given the status quo, it would not aid Taiwan if it were to declare independence unilaterally.
According to ROC President Chen Shui-bian, China has accelerated the deployment of missiles against Taiwan to 120 a year, bringing the total arsenal to 706 ballistic missiles capable of being fitted with nuclear warheads that are aimed at Taiwan. These missiles are believed to have a CEP (Circular Error Probability) of more than 100 meters, which implies they could do little damage in a likely conventional war scenario because of poor accuracy. Some believe that their deployment is a political tool on the part of the PRC to increase political pressure on Taiwan to abandon unilateral moves toward formal independence, at least for the time being.
[sửa] Cân bằng quyền lực
The possibility of war, the close geographical proximity of ROC-controlled Taiwan and PRC-controlled mainland China, and the resulting flare-ups that occur every few years, conspire to make this one of the most watched focal points in the Pacific. Both sides have chosen to have a strong naval presence. However, naval strategies between both powers greatly shifted in the 1980s and 1990s, when the PRC assumed a more aggressive posture by building landing craft, and Taiwan adopted a more defensive attitude by building and buying frigates and missile destroyers.
The PRC's air force is considered large and powerful, although it is not yet capable of controlling Taiwan's airspace in the event of a conflict. The ROC's airforce relies on Taiwan's second generation fighters. The ROC has approximately 150 US-built F-16s, approximately 60 French-built Mirage 2000-5s, and approximately 130 locally developed IDFs (Indigenous Defence Fighters). All of these ROC fighter jets are able to conduct BVR (Beyond Visual Range) combat missions with respective BVR missiles, while only a handful of PRC fighter airplanes are able to conduct such tasks.
In 2003, the ROC made a purchase of four missile destroyers—the former USS Kidd and three sister ships, and expressed a strong interest in the Arleigh Burke class. But with the growth of the PRC navy and air force, some doubt that the ROC could withstand a determined invasion from mainland China in the future. This also leads to a view that Taiwanese independence, if it is to be implemented, should be attempted as early as possible while the ROC still had the capacity for an all-out military conflict. Over the last three decades, estimates of how long Taiwan can withstand a full scale invasion from across the Strait without any outside help have [2] decreased from three months to only six days. And given that most estimates in the US show that any optimistic timeframe for a full scale US rescue would take at least two weeks, the current conditions do not look favorably upon Taiwan.
Numerous reports issued by the PRC, ROC, and US militaries make wildly mutually contradictory statements about the possible defense of Taiwan.
Naturally, the possible war is not being planned in a vacuum. In 1979, the United States Congress passed the Taiwan Relations Act, a law generally interpreted as mandating U.S. defense of Taiwan in the event of an attack from the Chinese Mainland (the Act is applied to Taiwan and the Pescadores, but not to Quemoy and Matsu). The United States maintains the world's largest permanent fleet in the Pacific Region near Taiwan. The Seventh Fleet, operating primarily out of various bases in Japan, is a powerful naval contingent built upon the world's only permanently forward-deployed aircraft carrier USS Kitty Hawk. Although the stated purpose of the fleet is not Taiwanese defense, it is safely assumed from past actions that that is one of the reasons why the fleet is stationed in those waters.
Since 2000, Japan renewed its defense obligations with the US and also embarked on a rearmament program, partly in response to fears that Taiwan would be invaded. Some analysts believed that the PRC could launch pre-emptive strikes on military bases in Japan to deter US and Japanese forces from coming to Taiwan's aid. Japanese strategic planners also see an independent Taiwan as vital, not only because Taiwan controls valuable shipping routes, but its capture by China would make Japan more vulnerable. Historically, in World War Two, although the US captured the Philippines, another viable target would have been Taiwan (then known as Formosa) as that would enable a direct attack on Japan. However, critics assert that the PRC would not wish to give Japan and the US such an excuse to intervene.
[sửa] Khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ ba
In 1996, the PRC began conducting military exercises near Taiwan, and launched several ballistic missiles over the island. The saber-rattling was done in response to the possible re-election of President Lee Teng-hui, who had promoted a controversial "two states" theory for cross-strait relations. The United States, under then President Clinton, sent two aircraft carrier battle groups to the region, sailing them into the Taiwan Strait. The PRC, unable to track the ships' movements, and probably unwilling to escalate the conflict, quickly backed down. The event had little impact on the outcome of the election, since none of Lee's contestants were strong enough to defeat him, but it is widely believed that the PRC's aggressive acts had, far from intimidating the Taiwanese population, given Lee the boost that pushed his share of votes over 50 percent.
The possibility of war in the Taiwan Straits, even though quite low in the short-term, requires the PRC, ROC, and U.S. to remain wary and vigilant. The goal of the three parties at the moment seems to be, for the most part, to maintain the status quo.
[sửa] Những phát triển gần đây và Triển vọng tương lai
[sửa] Chính trị
Although the situation is confusing, most observers believe that it is stable with enough understandings and gentlemen's agreements to keep things from breaking out into open warfare. The current controversy is over the term one China, as the PRC insists that the ROC must recognize this term to begin negotiations. Although the ruling Democratic Progressive Party has moderated its support for Taiwan independence, there is still insufficient support within that party for President Chen Shui-bian to agree to one China. By contrast, the opposition Kuomintang (KMT) and People First Party (PFP) appear willing to agree to some variation of one China, and observers believed the position of the PRC was designed to sideline Chen until the 2004 presidential election where it was hoped that someone who was more supportive of Chinese reunification would come to power. Partly to counter this, Chen Shui-bian announced in July 2002 that if the PRC does not respond to Taiwan's goodwill, Taiwan may "go on its own ... road."
With Chen's re-election in 2004, Beijing's prospects for a speedier resolution were dampened, though they seemed strengthened again following the Pan-Blue majority in the 2004 legislative elections. However, public opinion in Taiwan reacted unfavorably towards the anti-secession law passed by the PRC in March 2005. Following two high profile visits by KMT and PFP party leaders to the PRC, the balance of public opinion appears to be ambiguous, with the Pan-Green Coalition gaining a majority in the 2005 National Assembly elections, but the Pan-Blue Coalition scoring a landslide victory in the 2005 municipal elections.
[sửa] Ý kiến công chúng
Public opinion in Taiwan regarding relations with the PRC is notoriously difficult to gauge, as poll results tend to be extremely sensitive to how the questions are phrased and what options are given, and there is a tendency by all political parties to spin the results to support their point of view. There is general agreement that Beijing's one country, two systems policy is unacceptable when unilaterally applied to Taiwan; however, public opinion regarding Taiwan's ultimate fate is somewhat more complicated.
When given a choice between the three options of independence, unification or status quo, typical results of recent polls show 20 percent in favor of independence, 15 percent in favor of unification and about 50 percent in favor of continuing the status quo. However, there is also between 70-80 percent support for the view that Taiwan is an independent nation under the name of Republic of China with a special relationship to the People's Republic of China, as set forth by former President Lee. The dependence of poll results on wording is illustrated by the results of one recent poll. 72 percent polled said they would fight to defend the country from a communist invasion. However, when the question was rephrased asking whether they would fight if Taiwan declared independence, the number of affirmative responses decreased to 68 percent [3]. There is also a rise in pragmatists who would support either unification or independence based on the situation. A recent poll in December 2004 shows, given a referendum vote on independence, unification or becoming a state of the U.S., 41 percent of Taiwanese residents support independence, 24 percent choose unification and 15 percent would be in favor of becoming a 51st state of the United States. 80 percent of the population opposed the PRC's favoured "One China - Two Systems" unification proposal after the anti-secession law was passed. [4]
[sửa] Thay đổi vị thế Đài Loan có chú ý đến hiến pháp Cộng hoà Trung Hoa
From the perspective of the ROC constitution, which the mainstream political parties such as the KMT and DPP currently respect and recognize, changing the ROC’s governing status or completely clarifying Taiwan’s political status would at best require amending the ROC constitution. In other words, if reunification supporters wanted to reunify Taiwan with the mainland in such a way that would effectively abolish the ROC or affect the ROC’s sovereignty, or if independence supporters wanted to abolish the ROC and establish a Republic of Taiwan, they would need to amend the ROC constitution. Passing an amendment requires an unusually broad political consensus, which includes approval from three-quarters of a quorum of members of the Legislative Yuan. This quorum requires at least three-quarters of all members of the Legislature. After passing the legislature, the amendments need ratification from at least fifty percent of all eligible voters of the ROC, irrespective of voter turnout.
Given these harsh constitutional requirements, neither the pan-greens nor pan-blues can unilaterally change Taiwan’s political and legal status with respect to the ROC’s constitution. However, extreme Taiwan independence supporters view the ROC’s constitution as illegal and therefore believe that amendments to the ROC constitution are an invalid way to change Taiwan’s political status.
[sửa] Ghi chú về thuật ngữ
Some scholarly sources as well as political entities like the PRC refer to Taiwan's controversial status as the "Taiwan question", "Taiwan issue", or "Taiwan problem", all which can be translated in Chinese as 臺灣問題/台湾问题. The ROC government does not like these terminologies, emphasizing that it should be called the "Mainland issue", "Mainland question", or the "Mainland problem" because from the ROC's point of view, the PRC is making an issue out of or creating a problem out of Taiwan. To avoid siding with any viewpoint on whose issue or problem this is, this article uses the neutral term "Political status of Taiwan".
[sửa] Xem thêm
- 228 Incident, for historical context of ROC-Taiwanese conflict
- Anti-Secession Law of the People's Republic of China
- China and the United Nations
- Chinese Civil War, for historical context of the ROC-PRC conflict
- Chinese reunification
- Foreign relations of the Republic of China
- Four-stage Theory of the Republic of China
- Legal status of Taiwan
- Politics of the Republic of China
- Mainland Affairs Council of the ROC
- National Unification Council of the ROC
- Taiwan Affairs Office of the PRC
- Taiwan independence
- Blue Team
[sửa] Liên kết ngoài
Tiêu bản:Wikisourcepar
- Australian White Paper on Taiwan relations
- Cross-Strait Relations between China and Taiwan collection of documents and articles.
- PRC Government White Paper: The One-China Principle and the Taiwan Issue
- Taiwan Documents Project
- Taiwan Mainland Affairs Council
- Questions of Sovereignty -- the Montevideo Convention and Territorial Cession Comprehensive overview of Taiwan's presumed qualifying criteria for statehood under the Montevideo Convention, by Richard W. Hartzell
Tiêu bản:Politics of Taiwan footer