Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập vào ngày 2-3-1946 dựa trên kết quả của kỳ họp thứ I Quốc hội khóa I tại Hà Nội, chính phủ được thành lập nhằm tạo khối đại đoàn kết vững mạnh trên cả nước để chuẩn bị cho công cuộc "kháng chiến kiến quốc" về sau. Chính phủ liên hiệp kháng chiến là sự mở rộng thành phần nội các của Chính phủ liên hiệp lâm thời kháng chiến 1-1-1946. Chính phủ bao gồm 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch, 1 cố vấn, 1 chủ tịch kháng chiến ủy viên hội, 1 phó chủ tịch kháng chiến ủy viên hội và 10 bộ trưởng. Trên cơ bản, đây là sự rút gọn về số lượng thành viên chính phủ nhưng là sự mở rộng thành phần nội các so với chính phủ lâm thời kháng chiến sao cho gọn nhẹ hợp thời chiến nhưng đảm bảo tính đoàn kết, hòa hợp dân tộc giữa các Đảng phái trong nước.

Mục lục

[sửa] Sự hình thành:

Ngày 2-3-1946, Quốc hội khóa I được bầu thông qua tổng tuyển cử tự do ngày 6-1-1946 họp phiên đầu tiên tại Hà Nội đã thông qua danh sách 70 đại biểu của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh hội tham gia Quốc hội. Quốc hội còn chỉ định ông Hồ Chí Minh đứng ra thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến với 15 thành viên đến từ các đảng phái khác nhau như Mặt trận Việt Minh, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mệnh đồng minh hội, hay không đảng phái. Ngày 4-3-1946, chính phủ họp phiên đầu tiên và thông qua một số chủ trương về đối nội - đối ngoại như: Về đối nội: 1- Các đảng phái phải đoàn kết chặt chẽ, ngôn luận, hành động phải nhất trí để phụng sự quốc gia. 2- Sinh mệnh và tài sản của tất cả công dân Việt Nam và kiều dân ngoại quốc được hoàn toàn bảo đảm. 3- Hành chính và quân đội phải thống nhất, tài chính kinh tế tập trung. 4- Mọi lực lượng của quốc dân được huy động để dùng trong việc kháng chiến kiến quốc và toàn thể nhân dân, nhất là những người làm việc công phải tuân theo kỷ luật. Về ngoại giao: 1- Đối với các nước Đồng minh, nước Việt Nam bao giờ cũng chủ trương thân thiện, nhất là đối với Trung Hoa. 2- Đối với các nước nhược tiểu đang đấu tranh giành độc lập thì dân tộc Việt Nam rất đồng tình. 3- Đối với nhân dân Pháp, dân tộc Việt Nam không thù hằn, song cực lực phản đối chế độ thực dân và cương quyết giữ quyền độc lập. Chính phủ Việt Nam chỉ nhận điều đình với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc “Dân tộc tự quyết” của Hiến chương Đại Tây Dương.

[sửa] Hoạt động của Chính phủ:

Trong thời gian hoạt động của mình, Chính phủ đã có những đóng góp quan trong trong công cuộc "kháng chiến kiến quốc" như chính phủ đã cử phái đoàn Việt Nam gồm 5 thành viên là chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh, Chủ tịch kháng chiến ủy viên hội Võ Nguyên Giáp và Phó chủ tịch kháng chiến Ủy viên hội Vũ Hồng Khanh ký với đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp J. Sainteny bản hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 cho 15.000 quân Pháp ra Bắc thay thế cho 20 vạn quân Tưởng

Ngoài ra, Chính phủ còn thay mặt quốc dân đàm phán với Pháp tại những hội nghị Đà Lạt, Fontainebleau và ký với Pháp bản Tạm ước 14-9-1946.

[sửa] Sự tan rã:

Do mâu thuẫn của hai phe Việt Minh và Việt Nam Quốc dân Đảng sau bản hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, Chính phủ không còn giữ được sự đoàn kết ban đầu, các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội mất chỗ dựa là quân đội Tưởng Giới Thạch và do một số bất đồng khác đã lần lượt rút khỏi chính phủ Liên Hiệp. Tháng 7-1946, nhân sự kiện phố Ôn Như Hầu, các thành viên Việt Quốc - Việt Cách dự định ném tạc đạn vào đoàn diễu binh Pháp ở Hà Nội nhân ngày 14-7-1946, lực lượng Việt Minh dưới sự chỉ huy của ông Võ Nguyên Giáp và ông Huỳnh Thúc Kháng đã tấn công cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội, giết nhiều đảng viên hai đảng này, trong đó có nhà văn Khái Hưng, và bắt nhiều người khác. Trước tình hình này, lãnh tụ đảng Việt Cách là Nguyễn Hải Thần và các thành viên Việt Quốc - Việt Cách khác trong chính phủ như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh phải lưu vong sang Trung Quốc. Sự kiện tranh chấp Quốc-Cộng này đánh dấu chấm hết cho sự hợp tác Quốc-Cộng trong công cuộc "kháng chiến kiến quốc" mà chính phủ liên hiệp kháng chiến là biểu tượng. Chính phủ còn hoạt động đến tháng 11-1946 với các thành viên của Việt Minh trước khi một chính phủ mới được thành lập ngày 3-11-1946.

[sửa] Các thành viên trong chính phủ liên hiệp kháng chiến:

Chủ tịch: Ông Hồ Chí Minh

Phó Chủ tịch: Ông Nguyễn Hải Thần

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Ông Nguyễn Tường Tam

Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Ông Huỳnh Thúc Kháng

Bộ trưởng Bộ Kinh tế: Ông Chu Bá Phượng

Bộ trưởng Bộ Tài chính: Ông Lê Văn Hiến

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: Ông Phan Anh

Bộ trưởng Bộ Xã hội kiêm Y tế, Cứu tế và Lao động: Ông Trương Đình Tri

Bộ trưởng Bộ Giáo dục: Ông Đặng Thai Mai

Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Ông Vũ Đình Hoè

Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính: Ông Trần Đăng Khoa

Bộ trưởng Bộ Canh nông:Ông Bồ Xuân Luật (đến 4-1946).Ông Huỳnh Thiện Lộc (từ 4-1946)

Đoàn Cố vấn tối cao: Cố vấn Vĩnh Thụy

Chủ tịch kháng chiến ủy viên hội: Ông Võ Nguyên Giáp

Phó chủ tịch kháng chiên ủy viên hội: Ông Vũ Hồng Khanh