Ngô Minh Chiêu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngô Văn Chiêu (1878-1932) là tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài , tên tôn giáo là Ngô Minh Chiêu. Thượng-Đế xưng là Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-tát Ma-ha-tát thâu nhận Quan-phủ Ngô-Văn-Chiêu làm môn-đồ đầu tiên.
Mục lục |
[sửa] Cầu cơ thỉnh Tiên
Cầu cơ là một phương tiện giao tiếp với cõi siêu-linh sẵn có tại phương đông từ lâu đời. Vào năm 1902 Ngài Ngô Văn Chiêu đang làm việc tại Sài Gòn, có đến đàn cầu cơ tại Thủ Dầu Một để thỉnh Tiên cầu thọ cho thân mẫu và hỏi về tương lai, thì Tiên ông giáng cho Ngài một bài kệ khuyên Ngài lo tu hành ngày sau sẽ đắc đạo. Đến năm 1917 Ngài thi đỗ ngạch Tri huyện, nhằm lúc thân mẫu Ngài lâm trọng bệnh, nên Ngài đến đàn cơ Hiệp Minh ở Cái Khế, Cần Thơ đặng cầu xin thuốc, mẫu thân Ngài mạnh giỏi được vài năm, sau đó đau trở lại, Ngài có tới lại đàn cơ Hiệp Minh, lần nào Ngài cũng được Tiên ông giáng cho thi phú dạy đạo và khuyên Ngài lo tu hành. Cuối năm 1919 thân-mẫu Ngài ly trần, vào ngày 1-3-1920 Ngài được lịnh bổ đến Hà Tiên, khi đến nơi nầy Ngài thường lên núi Thạch Động cầu Tiên, thì có vị Tiên cô Ngô Kim Liên giáng cho mấy bài thơ, khuyên Ngài ráng lo tu-hành.
[sửa] Đến đảo Phú Quốc và ngộ Đạo
Ngày 26-10-1920 Ngài Ngô Văn Chiêu đổi đến đảo Phú Quốc. Tại đây Ngài cũng tiếp tục cầu cơ thỉnh Tiên, có một vị Tiên ông giáng cơ không chịu xưng tên, dạy Ngài chịu làm đệ tử thì Tiên-ông sẽ dạy Đạo cho và khuyên Ngài ngưng tụng Minh Thánh kinh, và dạy Ngài ăn chay mỗi tháng mười ngày, nhưng Ngài còn đang do dự chưa quyết đoán, vì nghĩ rằng đương làm quan, thực hiện thập trai rất khó khăn, nhưng nếu đắc đạo thì cũng cố gắng được, còn nếu không gặp đạo mà còn phải sinh tử luân hồi, thì thà ăn chay hai ngày mỗi tháng mà làm phải làm lành vẫn hơn. Trong tâm Ngài suy nghĩ như vậy, định bạch lại với Tiên ông, thì trong một đàn cơ kế đó, Tiên ông giáng, Ngài chưa kịp hỏi điều gì thì Tiên ông hạ lịnh
- “Chiêu tam niên trường trai”.
Ngài lấy làm bối rối, vì nghĩ rằng chưa chịu ăn mười ngày, mà nay Tiên ông lại bảo ăn chay trường ba năm, Ngài mới bạch rằng :
- ”Tiên-ông đã dạy thì đệ tử phải vâng, song xin Tiên-ông phò trì, và nếu đệ tử vâng lời thì Tiên-ông phải cho thấy chứng quả gì mới được”
Từ ngày 8-2-1921 trở đi Ngài thực hiện trường trai, Tiên ông đã giáng cơ truyền phép tu luyện, và khuyên Ngài giữ bí truyền cho đến ngày đạo khai, ngày đó thì Tiên ông sẽ dạy. Từ đó Tiên ông cũng đã hiện ra cảnh Bồng lai ở chân trời biển đông như Ngài ước nguyện, cho Ngài thấy để thêm lòng tin tưởng học đạo. Sau đó Tiên ông cũng hiện ra hình Thiên nhãn và dạy Ngài làm biểu tượng thờ phượng, Tiên ông xưng là “Cao Đài Tiên ông Đại Bồ-tát Ma-ha-tát” và dạy Ngài Ngô Văn Chiêu gọi Tiên ông bằng Thầy.
Từ năm 1921 trở đi Ngài tu theo phương pháp bí truyền, chỉ có mình Ngài biết. Sau đó vào này 30-07-1924 Ngài đổi về Sài Gòn cũng vẫn tiếp tục tu luyện, đến gần cuối năm Ất Sửu (1925) Đức Cao Đài mới dạy Ngài đem mối Đạo truyền ra, nên Ngài đã độ được bốn ông : Quan phủ Vương Quan Kỳ, ông phán Nguyễn Văn Hoài, ông phán Võ Văn Sang, ông đốc học Đoàn Văn Bản. Sau đó các ông này cũng có độ thêm một số đệ tử nữa cùng tu luyện với Ngài, nhưng những hoạt động giai đoạn nầy còn trong phạm vi một nhóm tu chơn tịnh luyện, chứ chưa phát triển thành một Tôn giáo.