Mã Viện

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mã Viện (Hoa phồn thể: 馬援; bính âm: Mǎ Yuán) (14 TCN-49), tự Văn Uyên, là một viên tướng người Hán trong thời kỳ nhà Đông Hán. Người ta cũng tin rằng Mã Siêu trong thời kỳ Tam Quốc là hậu duệ của ông. Lăng mộ của ông còn ở đông bắc Hưng Bình, Thiểm Tây ngày nay. Ông còn được gọi là Phục Ba tướng quân hay Mã Phục Ba.

Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, không hẳn bởi những thành tích quân sự, chúng tương tối khiêm tốn, mà bởi sự kiên trì và sự tôn trọng của ông đối với những người bạn và thuộc cấp. Ngoài khả năng quân sự, ông cũng được đánh giá cao về vấn đề kỷ luật cá nhân. Con gái của ông sau này đã trở thành hoàng hậu của vua Hán Minh Đế.

Mục lục

[sửa] Chiến công

Các chiến công quân sự và chính trị của ông bao gồm việc phục vụ Hán Quang Vũ Đế thống nhất đế chế và các cuộc hành quân chống lại người Việt cũng như các bộ lạc Wulin (ngày nay là miền đông tỉnh Quý Châu và tây bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc).

Một trong những chiến tích lớn nhất của ông là việc chinh phục lãnh thổ Nam Man. Ông đã dập tắt cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc và em bà là Trưng Nhị (năm 42-43). Nhờ thành tích này, ông đã có tước hiệu "Phục Ba tướng quân". Ông được tôn kính (giống như trường hợp của các chiến binh vĩ đại trong thời kỳ đó) và các đền thờ ông đã được dựng tại một số nơi trong khu vực này trên lãnh thổ Trung Quốc. Lãnh thổ mà ông chinh phục có thể tương ứng với khu vực có miền bắc Việt Nam hiện nay. Đây là nơi khó khăn cho các cuộc chinh phục từ ngoại bang, một thực tế có thể thấy được từ Chiến tranh Đông DươngChiến tranh Việt Nam trong thế kỷ 20.

Năm 49, trong khi đem quân đi chống lại các bộ lạc Wulin, Mã Viện đã chết do một bệnh truyền nhiễm, cũng là bệnh đã giết chết một lượng lớn quân của ông. Trước đó, đội quân của Mã Viện đã đánh bại quân đội của lãnh chúa Ngôi Hiêu (隗囂 Wei Xiao) (năm 30-33), là người kiểm soát khu vực miền đông tỉnh Cam Túc.

[sửa] Cáo buộc

Sau khi ông chết, phó tướng của ông là Cảnh Thư (耿舒), người đã từ lâu không đồng ý với chiến lược của Mã Viện, cùng với phò mã của vua Quang Vũ Đế là Lương Tùng (梁松), người trước đó có hằn thù với Mã Viện, đã ngụy tạo ra nhiều chứng cứ để chống lại Mã Viện. Phần lớn các chứng cứ này ngày nay chúng ta không rõ là gì; chỉ còn hai cáo buộc cụ thể được biết.

Trong cáo buộc thứ nhất, Mã Viện được cho là người chịu trách nhiệm về bệnh truyền nhiễm, khi ông ra lệnh hành quân chống lại các bộ lạc Wulin.

Trong cáo buộc thứ hai, ông được cho là đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch quân sự. Cáo buộc này có thể là sự hiểu sai về một trong các món ăn ưa thích của Mã Viện (món ông cho rằng có khả năng chống lại bệnh truyền nhiễm) là hạt ý dĩ (một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng trọt tại miền nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam), thứ ông đã cho chở với số lượng lớn về kinh đô Lạc Dương.

Vua Hán Quang Vũ Đế đã tin vào các cáo buộc này và đã tước đi thái ấp cũng như tước hầu của Mã Viện.

[sửa] Thành ngữ

Mã Viện là nguồn gốc của hai thành ngữ Trung Quốc.

Thành ngữ thứ nhất là "da ngựa bọc thây" (馬革裹屍 - mã cách khỏa thi), ý nói mong muốn được chết trên chiến trường mặc dù phải dùng da ngựa để bọc thây chứ không mong muốn chết già mà không làm được một điều gì có tiếng. Mã Viện đã nói câu này với người bạn khi thể hiện mong muốn tiếp tục con đường binh nghiệp.

Thành ngữ thứ hai là "vẽ hổ không thành, lại thành chó" (畫虎不成, 反類犬 - họa hổ bất thành, phản loại khuyển). Câu này liên quan đến lời khuyên răn của ông đối với các cháu của mình. Ông khuyên đừng cố gắng bắt chước nhân vật anh hùng lừng danh thời đó, Đỗ Bảo (杜保); có thể không thành anh hùng như Đỗ, mà thành kẻ bỏ đi.

[sửa] Xem thêm

  • Cột đồng Mã Viện
Ngôn ngữ khác