Chiến dịch Biên Giới thu đông 1950

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950 là một chiến dịch do quân đội Việt Minh thực hiện từ ngày 16 tháng 9 đến 17 tháng 10 năm 1950, nhằm phá thế bị cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông biên giới Việt - Trung để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ. Một mục tiêu khác nữa là mở rộng căn cứ địa và tiêu diệt một phần sinh lực quân đồn trú của Pháp, thử nghiệm các phương pháp đánh lớn.

Mục lục

[sửa] Bối cảnh và tương quan lực lượng

Trong suốt 5 năm kháng chiến chống Pháp trong thế bị cô lập, Việt Minh tích cực mở rộng quan hệ nhằm tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập và nhanh chóng công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến ngày 18 tháng 1 năm 1950, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Uy tín và tiềm lực quân sự của Việt Minh ngày càng tăng ảnh hưởng trong dân chúng.

Cũng trong 5 năm đó, Việt Minh cũng thông qua các tổ chức Việt kiều tại Pháp và các tổ chức thiên tả để đấu tranh chính trị, tác động mạnh đến Phong trào phản đối cuộc chiến tranh Đông Dương của nhân dân Pháp lên cao. Nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị chưa từng có. Chính quyền bù nhìn Quốc gia Việt Nam tỏ ra quá yếu ớt để có thể hỗ trợ chính quyền Pháp tại Đông Dương. Chính phủ Pháp buộc phải tính đến phương án chấp nhận các khoản viện trợ kinh tế và quân sự của chính phủ Mỹ để có thể theo đuổi cuộc chiến.

[sửa] Mục tiêu của chiến dịch

Theo kế hoạch của tướng Georges Marie Joseph Revers, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, quân đội Pháp ở Đông Dương thực hiện chủ trương xem Bắc Bộ là chiến trường chính, chiếm rộng đồng bằng, củng cố biên giới, đồng thời ra sức tǎng viện, ra sức tổ chức quân đội quốc gia bản xứ để làm giảm ảnh hưởng và thu hẹp khả năng kiểm soát của lực lượng Việt Minh; cụ thể hóa bằng cách tǎng cường lực lượng trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, tổ chức một hệ thống phòng ngự mới dựa vào những cứ điểm lớn và những binh đoàn ứng chiến lớn, tǎng cường phi cơ và trọng pháo để chống lại các cuộc tấn công của quân Việt Minh. Trong lúc đó, mở những cuộc càn quét liên tiếp dữ dội ở trong vùng địch hậu, nhất là ở Nam Bộ để củng cố chỗ đứng chân.

Để lấy lại thế chủ động, Pháp thực hiện tăng cường hệ thống phòng ngự đường số 4, khoá biên giới Việt-Trung: cô lập căn cứ địa Việt Minh với bên ngoài, thiết lập hành lang Đông-Tây, cô lập Việt Bắc với đồng bằng Bắc bộ, chuẩn bị lực lượng để tấn công Việt Bắc lần 2 để tiêu diệt đầu não Việt Minh.

Tuy vậy, có thể thấy rằng sau 5 năm chiến tranh, quân Pháp tại Đông Dương càng ngày càng sa lầy vào thế phòng ngự. Bên cạnh đó, tuy có phát triển lực lượng bản xứ, nhưng lại có chất lượng quá kém, nên gần như không thể đảm trách được các nhiệm vụ quân sự thay cho quân Pháp.

Bộ chỉ huy quân Việt Minh dã sớm nhận định đúng ý đồ của Pháp, nhanh chóng vạch kế hoạch chủ động tấn công để mở cửa biên giới, khai thông bàn đạp để nhận viện trợ của Trung Quốc, Liên Xô và khối XHCN. Bên cạnh đó cũng tiêu diệt một bộ phận sinh lực đối phương, mở rộng ảnh hưởng và địa bàn căn cứ địa.

[sửa] Diễn biến

Ngày 16 tháng 9 năm 1950, quân Việt Minh chủ động đánh chiếm cứ điểm Đông Khê với mục đích cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4. Đến ngày 18, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ.

Pháp nhanh chóng điều động quân đội ở Bắc Bộ thực hiện cuộc “hành quân kép”: một cánh từ Hà Nội đánh lên Thái Nguyên, nhằm thu hút chủ lực của quân Việt Minh; cách khác hành quân từ Thất Khê, Cao Bằng chiếm lại cứ điểm Đông Khê.

Tuy nhiên, Việt Minh đã sớm bố trí các thế trận chờ sẵn. Ngày Từ 1 tháng 10, các trận địa mai phục của Việt Minh liên tục đánh thiệt hại và làm tiêu hao cánh quân Pháp hành quân theo hướng Thất Khê, Cao Bằng. Tính đến ngày 8 tháng 10, quân Việt Minh đã loại khỏi vòng chiến đấu 8 tiểu đoàn quân Pháp, làm sụp đổ kế hoạch phòng thủ biên giới. Ở các địa phương khác, quân Việt Minh liên tục quấy rối, không cho quân Pháp thực hiện các cuộc chuyển quân tiếp viện cho mặt trận Cao-Bắc-Lạng. Đến ngày 17 tháng 10, Việt Minh chủ động kết thúc chiến dịch.

Dưới sự uy hiếp của quân Việt Minh, đến ngày 22 tháng 10 năm 1950, quân Pháp phải rút bỏ hoàn toàn khỏi các cứ điểm còn lại trên đường 4 như Thất Khê, Na Sầm, Đồng Lập, Lạng Sơn...

[sửa] Kết quả

Việt Minh hầu như đã đạt được thành công trong chiến dịch: loại khỏi vòng chiến đấu 8.300 lính đối phương, thu 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh; khai thông biên giới Việt-Trung (từ Cao Bằng đến Đình Lập), mở rộng địa bàn kiểm soát lên đến 4000km2 và 35 vạn dân, giữ vững và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.

Đây là chiến dịch đầu tiên mà quân Việt Minh chủ động tấn công, làm thay đổi cục diện chiến trường: bắt đầu giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Quân Pháp thất bại lớn cả về quân sự và chính trị, bị đẩy lùi vào thế phòng ngự bị động.