Vinh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hình:Thanh Pho Vinh.png
Vị trí của Vinh

Vinh là một thành phố nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam trực thuộc trung ương, và là thủ phủ của tỉnh Nghệ An.

Hình:Ban do thanh pho Vinh.jpg
Bản đồ thành phố Vinh
Hình:Vinh city - Vietnam.jpg
Vinh, một cái nhìn thoáng qua

Mục lục

[sửa] Thống kê

Thống kê dân số năm 2002 cho thấy dân số thành phố Vinh là khoảng 226,000 người.

Về kinh tế, dịch vụ chiếm khoảng 55% lao động của toàn thành phố. Tiếp theo sau là công nghiệp chiếm khoảng 30% và nông lâm nghiệp chiếm phần còn lại (15%).

Về chiến lược, Vinh là một trung tâm giao thông quan trọng, nắm giữ vị trí trọng yếu trên con đường vận chuyển từ nam ra bắc và ngược lại, ngoài ra Vinh cũng là một cảng biển quan trọng.

[sửa] Lịch sử

Vinh, tên ban đầu là Kẻ ván. Sau đó, lần lượt đổi thành Kẻ Vinh, Vinh Giang, Vinh Doanh, Vinh Thi. Cuối cùng, năm 1789, tên chính thức của thành phố được rút gọn lại thành một tiếng, Vinh (có thể là vào thời kỳ dưới chế độ thực dân châu Âu) và tồn tại mãi cho đến tận bây giờ.

[sửa] Địa danh

[sửa] Thành cổ Nghệ An

Năm 1803, Gia Long ra Bắc, chọn làng Vĩnh Yên nằm phía tây bắc Dũng Quyết (khu vực thành cổ bây giờ) xây trấn sở. Năm 1884 chính thức dời trấn từ Dũng Quyết về Vĩnh Yên, cho xây thành Nghệ An bằng đất. Mãi đến năm 1931 vua Minh Mạng mới cho xây lại thành bằng đá ong theo kiểu Vô-băng (Vô-băng là tên một tướng Pháp có sáng kiến thiết kế kiểu thành này). Thành có 6 cạnh, chu vi dài 603 trượng (2.412 m), cao 1 trượng, 1 tấc, 5 thước (4,42 m), diện tích: 420.000 m², bao xung quanh có hào rộng 7 trượng (28 m), sâu 8 thước ta (3,20 m). Lúc khởi công, triều đình nhà Nguyễn đã huy động 1000 lính Thanh Hoá, 4000 lính Nghệ An. Đến thời Tự Đức, khi nâng cấp phải lấy 8599 phiến đá sò từ Diễn Châu và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía, với tổng kinh phí là 3.688 quan tiền.

Thành cổ Nghệ An
Phóng lớn
Thành cổ Nghệ An

Thành cổ có 3 cửa ra vào. Cửa tiền là cửa chính hướng về phía Nam, cửa để vua ngự giá, các quan trong lục bộ triều đình và tổng đốc ra vào. Cửa Tả hướng về phía đông, Cửa hữu hướng về phía Tây. Muốn đi qua các cửa đều phải qua một cái cầu. Bên trong, công trình lớn nhất là hành cung, phía đông hành cung có dinh thống đốc, phía nam có dinh bố chánh và án sát, dinh lãnh binh, dinh đốc học, phía bắc có trại lính và nhà ngục. Sau này phía tây có nhà giám binh người Pháp. Toàn bộ được trang bị 65 khẩu thần công, 47 khẩu đặt ở các vọng gác, số còn lại tập trung ở hành cung và dinh thống đốc.

Trải qua nhiều biến cố của lịch sử và sự phá hoại của chiến tranh, di tích thành cổ hầu như không còn lại gì, chỉ còn lại 3 cổng thành và khu hồ bao quanh. Tỉnh Nghệ an và Thành phố Vinh đã có quy hoạch khôi phục lại di tích và cải tạo thành một công viên văn hoá lớn của thành phố.

[sửa] Chùa Diệc

Hình:Chuadiec.jpg
Chùa Diệc

Là một trong những chùa đẹp ở thành phố Vinh. Theo các tài liệu ghi lại, chùa này có từ thời nhà Trần, mái chùa lợp tranh. Qua nhiều lần trùng tu, nâng cấp, đầu thế kỷ 19 mới được lợp ngói. Đặc biệt lần trùng tu năm 1930 có sự tham gia của nhiều quan lại triều đình Huế, một số tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân. Kinh phí quyên góp được 2.590 đồng Đông Dương, 9 mẫu, 5 sào, 1 thước ruộng. Từ đó chùa Diệc cổ trở thành một công trình kiến trúc văn hoá tâm linh đặc sắc của người dân thành Vinh bấy giờ.

Qua nhiều biến cố của lịch sử và sự phá hoại của chiến tranh, chùa Diệc cổ hầu như không còn lại gì, chỉ còn lại cổng tam quan rêu phong, lở lói. Thấy được giá trị của chùa, tỉnh và thành phố đã có kế hoạch khôi phục trong nay mai tạo nên điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh, tạo thêm vẻ đẹp cho kiến trúc cho Thành Vinh.

[sửa] Cồn Mô

Hình:Cocotsobenthuy.jpg
Cột cờ bến thủy

Cồn Mô được xây dựng tượng đài kỷ niệm với chiều cao 10 m, rộng 16,2 m. Trên tượng đài khắc biểu tượng búa liềm, mặt trước gắn biểu tượng trống Xô Viết. Trên nền bia còn khắc ghi lại những sự kiện lịch sử diễn ra ở Cồn Mô.

[sửa] Ngã ba Bến Thủy

Hình:Lienminhcongnong.jpg
Tượng đài liên minh công nông

Khu di tích có diện tích 6.400 m². Qua thời gian và chiến tranh tàn phá, cảnh vật thay đổi, cột điện lịch sử đã không còn nữa. Nhưng tại đây, để ghi lại sự kiện lịch sử anh hùng đó, tỉnh Nghệ an và chính quyền thành phố Vinh đã xây dựng tượng đài công nông binh để giáo dục truyền thống đấu tranh anh dũng của cha anh.

[sửa] Đình Trung

Đình Trung nằm ở trung tâm phường Hưng Dũng.

Đình Trung ngày xưa được dựng trên một khu đất rộng, đình có 5 gian, phía trước có cổng vào, phía sau có sân tế. Từ năm 1927, đình lợp bằng tranh, đến năm 1928 được thay bằng ngói vảy. Trong chiến tranh đình bị hư hỏng nặng. Kết thúc chiến tranh, nông dân Hưng Dũng đã đóng góp xây dựng lại, được sự giúp đỡ của các cấp xây thêm một ngôi nhà truyền thống bên cạnh Đình.

[sửa] Đền Trìa

Di tích nằm ở Làng Đỏ Lộc Đa - Đức Thịnh (xã Hưng Lộc - thành phố Vinh - Nghệ An).

Đền được xây dựng năm 1813, trước đây người trong làng thường gọi là Đền Lộc. Đền thờ một vị tướng có công trong sự nghiệp chống giặc Thanh được phong là Thượng Đẳng Thần. Cổng ra vào có vòm cao đẹp, có 4 rồng chầu hai bên, có tam toà. Bên trong có Thượng điện, Trung điện, Hạ điện nguy nga, hai bên đền có 2 nhà tả vu và hữu vu, mỗi nhà có 2 gian để tiếp khách, hiện chỉ còn nhà thượng điện và hạ điện.

Năm 1991, xã xin được một số kinh phí trùng tu, sửa chữa theo nguyên trạng. Đền được công nhận là Di tích lịch sử ngày 26/6/1995 theo Quyết định 2233 của Bộ văn hoá thông tin.

[sửa] Nhà thờ họ Hoàng

Nằm ở xóm Mẫu Đơn xã Hưng Lộc thành phố Vinh.

Nhà thờ được xây từ năm 1913 thờ 5 đời họ Hoàng (từ xưa đến nay). Nhà thờ có 3 gian lợp ngói nam (ngói âm dương), mặt hướng về phía đông. Nhà thờ có 12 cột, cột chính cao 2,8 m, cột phụ cao 2,1m, có hành lang phía ngoài, 3 gian trong để đồ thờ, gian giữa có vẽ cuốn thư viết 2 chữ: Chính - Trung (bao giờ cũng chấn chỉnh và trung thực). Phía ngoài có 4 cột quyết khắc 2 câu đối.

Năm 1990, nhà thờ được con cháu tu sửa. Năm 1992, Sở VH - TT xây một văn bia ghi lại sự kiện Xứ Uỷ Trung kỳ - Tỉnh uỷ Vinh - Bến thuỷ làm việc ở đây (từ tháng 3 đến tháng 5/1930). Đền được công nhận là di tích lịch sử ngày 26/3/1995, theo Quyết định số 2233/ QĐ.BVHTT của Bộ Văn hoá Thông tin.

[sửa] Cây sanh chùa Nia

Nằm ở phường Hưng Dũng thành phố Vinh.

Vùng đất cây sanh chùa Nia xưa kia rộng khoảng 5 mẫu, cây sanh cao 15 m, cành lá sum suê, ở đằng xa có thể trông thấy. Cạnh gốc cây là ngôi chùa 2 gian thờ Phật, hàng năm nhân dân đến làm lễ cầu yên. Hào lý thường tụ tập ở đây hội họp, chè chén. Thừa Ba đã chiếm dụng một khoảng lớn xây nhà ngang, dãy dọc ở đây. Chùa Nia hiện không còn nhưng cây sanh vẫn còn tươi tốt. Trường cao đẳng kỹ thuật Vinh khi dời về đây đã cho xây bao quanh cây sanh và gắn bia dẫn tích.

[sửa] Dăm Mụ Nuôi

Thuộc phường Hưng Dũng.

Dăm Mụ Nuôi có diện tích khoảng 20 mẫu, trước đây là bãi các hoang nằm giữa đồng lúa có Đền Đức Thánh, cây cối um tùm, ít người qua lại. Hiên nay địa phương xây dựng nghĩa trang, còn lại một phần đang được xây bia, xây khu bảo tồn.

[sửa] Khu di tích Kim Liên và Lễ hội Làng Sen

Hình:Kimlien.jpg
Khu di tích Kim Liên

Từ Vinh đi về hướng Tây cách 12 km là khu di tích Kim Liên - quê hương Chủ Tịch Hồ Chí Minh (tương truyền dân gian và một số tài liệu nói rằng quê nội thực sự của Chủ tịch Hồ Chí MInh là làng Quỳnh Đôi - huyện Quỳnh Lưu, cách thành phố Vinh 60 km về phía Bắc) với lễ hội Làng Sen hàng năm. Tổng thể di tích bao gồm:

  • Cụm di tích Hoàng Trù (quê ngoại Chủ tịch Hồ Chí Minh). Gồm có: ngôi nhà thờ, ngôi nhà cụ Hoàng Đường, ngôi nhà nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời.
  • Nhà ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (quê nội Chủ tịch Hồ Chí Minh).
  • Khu trưng bày và nhà tưởng niệm.
  • Khu mộ thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh: bà Hoàng Thị Loan.

Hàng năm làng tổ chức lễ hội vào dịp kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

[sửa] Đền Hồng Sơn

Hình:Denhongson.jpg
Đền Hồng Sơn

Đền Hồng Sơn trước dây có tên là Võ Miếu thờ Quan Công tức Quan Vân Trường, có tài dụng võ trong thời Tam quốc, sau này có hợp tự một số đền trên Thanh phố về, từ đó có thờ nhiều vị thần, thánh trong đó có thờ: Vua Hùng Vương, Thánh Mẫu và Trần Hưng Đạo.

Đền được xây dựng từ xưa và được trùng tu, hoàn thiện nhiều lần dưới triều Nguyễn. Trùng tu lần thứ nhất vào năm 1938 Trùng tu lần thứ hai năm 1998, dựng lại nhà Hạ Điện với quy mô lớn như ngày nay. Công trình bao gồm: Cổng đền, Hồ bán nguyệt, Tiền sảnh, Tháp chuông, Hạ điện, Trung điện, Thượng điện,Tả vu, Hữu vu.

Hàng năm Đền Hồng sơn có 3 lễ hội lớn diễn ra vào các dịp: Giỗ Đức Thánh Mẫu (2 và 3 tháng ba âm lịch), Giỗ Đức Hùng Vương (9 và 10 tháng ba âm lịch) và Giỗ Trần Hưng Đạo (19 và 20 tháng tám âm lịch).

[sửa] Chùa Cần Linh

Hình:Chuacanlinh.jpg
Chùa Cần Linh

Chùa được xây dựng từ thời Lê, trên một vùng đất, trước đây thuộc Làng Vang, tổng Yên tường, huyện Hưng Nguyên. Nay thuộc phường Cửa Nam thành phố Vinh. Chùa thờ Phật Thich Ca - Vị tổ của Đạo Phật và các vị sư tăng đã từng trụ trì trong Chùa, trong vùng. Tổng diện tích: 5208 m², gồm có các kiến trúc sau: Tam quan, bái đường, chính điện, tăng đường, nhà tả vu, hữu vu. Hàng năm, chùa có tổ chức rất nhiều các ngày lễ.

[sửa] Đền thờ Trần Trùng Quang

Hình:Dentrantrungquang.jpg
Đền Trần Trùng Quang

Đền thuộc địa phận xã Hưng Lộc - Thành phố Vinh, thờ vị vua Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng. Đền được xây dựng từ thời Lê, trùng tu hoàn thiện vào thời Nguyễn. Di tích bao gồm: Đền thờ và khu lăng mộ. Lễ hội đền thờ Trần Trùng Quang là lễ hội gắn với di tích.

Lễ hội diễn ra trong 2 ngày, 19 và 20 tháng 2 âm lịch hàng năm.

[sửa] Đền Cuông

Hình:Lehoidencuong.jpg
Rước lễ tại đền Cuông

Theo quốc lộ 1A đi về hướng Bắc cách Vinh khoảng 30 km là khu di tích Đền thờ Thục An Dương Vương còn gọi là Đền Cuông. Đền Cuông bao gồm: Cổng tam quan, Hạ điện, Trung điện, Thượng điện. Ngoài ra còn có 2 di tích phụ trợ là: Am Mỵ Châu và Giếng Trọng Thuỷ.

Hàng năm lễ hội Đền Cuông diễn ra từ 14 đến tối 16 tháng hai Âm lịch.

[sửa] Đền Đức Hoàng Mười

Hình:Denonghoangmuoi.jpg
Đền Ông Hoàng Mười

Nằm trên tỉnh lộ 8 Vinh - Hưng nguyên cách trung tâm Thành phố khoảng 2 km là di tích đền đức Hoàng Mười thờ Đại Vương Nguyễn Duy Lạc hiệu Tuấn Sảng Siêu Loài Hiển Đức. Đền được xây dựng từ thời Lê, do chiến tranh bị dỡ đi nơi khác và được khôi phục năm 1995. Bao gồm: Bái đường và Hậu cung. Ngoài ra còn có di tích phụ trợ là: Mộ ông Hoàng Mười, đài Trung Thiên, lăng cô Chín quần tụ xung quanh. Lễ hội Đền diễn ra mỗi năm hai lần.

[sửa] Liên kết ngoài