Giải quần vợt Úc mở rộng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

[sửa] Tổng quan & Lịch sử

Các giải Grand Slam

Mục lục

Giải quần vợt Úc mở rộng là một trong 4 giải Grand Slam quần vợt trong năm. Đây là giải Grand Slam đầu tiên trong năm và diễn ra vào nửa cuối tháng 1 tại Melbuorne. Giải được tổ chức bởi Tennis Australia, tổ chức thường được biết với cái tên Lawn Tennis Association of Australia (LTAA).

Giải đấu này được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1905 với cái tên là giải Vô địch Australasia, sau đó trở thành giải vô địch Australia vào năm 1927 và trở thành giải Australia mở rộng vào năm 1969. Kể từ năm 1905, giải đấu này này đã được tổ chức ở 6 địa điểm sau: Melbourne (46 lần), Sydney (17 lần), Adelaide (14 lần), Brisbane (8 lần), Perth (3 lần) và tại nước láng giềng New Zealand (2 lần vào các năm 1906 & 1912). Vào năm 1972, các nhà tổ chức quyết định giải đấu sẽ diễn ra chỉ ở một thành phố trong một năm và CLB Kooyong Lawn Tennis của thành phố Melbourne đã được lựa chọn để tổ chức giải đấu này.

Melbourne Park (có tên khác là Flinders Park) được xây dựng vào năm 1988, đúng thời diểm mà các nhà tổ chức đang muốn mở rộng CLB Kooyong. Giải đấu được chuyển tới Melbourne Park và ngay lập tức đã mang lại thành công khi nó làm tăng thêm đến 90% lượng khán giả - lên đến 266436 vào năm 1988 trong khi đó ở năm trước chỉ có 140000 ghé thăm Kooyong.

[sửa] Thống kê kỉ lục

[sửa] Nhà vô dịch trẻ tuổi nhất

  • Đơn nam: Ken Rosewall (18 tuổi 2 tháng) vào năm 1953
  • Đơn nữ: Martina Hingis (16 tuổi 3 tháng) vào năm 1997
  • Đôi nam: Lew Hoad (18 tuổi 2 tháng) vào năm 1953
  • Đôi nữ: Mirjana Lucic (15 tuổi, 10 tháng) vào năm 1998
  • Đôi nam & nữ: Venus Williams (17 tuổi, 7 tháng) vào năm 1998

[sửa] Nhà vô địch già nhất

  • Đơn nam: Ken Rosewall (37 tuổi 8 tháng) vào năm 1972
  • Đơn nữ: Thelma Long (35 tuổi 8 tháng) vào năm 1954
  • Đôi nam: Norman Brookes (46 tuổi 2 tháng) vào năm 1924
  • Đôi nữ: Thelma Long (37 tuổi 7tháng) vào năm 1956

[sửa] Thành công nhất

  • Nam: Roy Emerson (5) 1963-1967
  • Nữ: Margaret Smith (7) 1960-1966

[sửa] Đánh đôi thành công nhất

  • Nam: Adrian Quist (10) 1935-1950
  • Nữ: Martina Navratilova/Pam Shriver (7) 1983-1989

[sửa] Nhà vô địch cả 3 giải (đơn, đôi, đôi nam nữ)

  • Nam: John Hawkes 1926; Jean Borotra 1928; Jack Crawford 1932
  • Nữ: Daphne Akhurst 1925, 1928, 1929; Nancye Wynne Bolton 1940, 1947, 1948; Thelma Long 1952; Margaret Smith 1963

[sửa] Nhà vô địch trước đó đã đoạt giải thiếu niên

  • Nam: Jack Crawford, Vivian McGrath, Adrian Quist, John Bromwich, Dinny Pails, Frank Sedgman, Ken McGregor, Ken Rosewall, Lew Hoad, Rod Laver, John Newcombe, Stefan Edberg
  • Nữ: Joan Hartigan, Emily Westacott, Thelma Long, Beryl Penrose, Mary Carter-Reitano, Kerry Reid, Evonne Cawley, Chris O'Neil

[sửa] Nhà vô địch tay trái

  • Nam: Horace Rice (1907), Norman Brookes (1911), John Hawkes (1926), Mervyn Rose (1954), Rod Laver (1960/1962/1969), Jimmy Connors (1974), Guillermo Vilas (Dec. 1978/1979), Roscoe Tanner (1977), Petr Korda (1998)
  • Nữ: Martina Navratilova (1981/1983/1985), Monica Seles (1991/1992/1993/1996)

[sửa] Khoảng cách vô địch lần đầu và lần cuối xa nhất

  • Nam: Ken Rosewall (20 năm) 1953-1972
  • Nữ: Nancye Wynne Bolton (15 năm) 1937-1951

[sửa] Thắng trắng

  • Nam: (6-0 6-0 6-0) 6 VĐV- James Anderson (vòng 1 năm 1925), Fred Perry (tứ kết năm 1935), John Bromwich (vòng 1 năm 1949), Neale Fraser (vòng 1 năm 1953), Martin Mulligan (vòng 1 năm 1960), Richard Russell (vòng 1 năm 1966)
  • Nữ: (6-0 6-0) 13 VĐV Nữ, trong đó có 4 lần vào năm 1998 (Mary Pierce 2 lần). Margaret Court 4 lần và Wendy Turnbull 3 lần

[sửa] Nhà vô địch không phải là hạt giống

  • Nam: Mark Edmondson (1976)
  • Nữ: Chris O'Neil (1978)

[sửa] Các VĐV Australia đã vô địch các giải Grand Slam khác nhưng không đoạt giải Úc mở rộng

  • Neale Fraser: 3 lần á quân (VĐ Wimbledon và Mỹ mở rộng)
  • Fred Stolle: 2 lần á quân (VĐ Pháp mở rộng và Mỹ mở rộng)
  • Mal Anderson: 2 lần á quân (VĐ Mỹ mở rộng)
  • Tony Roche: lọt vào vòng bán kết (VĐ Pháp mở rộng)
  • Lesley Turner Bowrey: 2 lần á quân (VĐ Pháp mở rộng)
  • Pat Cash: 2 lần á quân (VĐ Wimbledon)
  • Pat Rafter: lọt vào vòng bán kết (VĐ Mỹ mở rộng)