Lý Thường Kiệt

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Lý Thường Kiệt (tên thật là Ngô Tuấn; 1019–1105) là một danh tướng nhà Lý có công đánh bại quân nhà Tống vào năm 1075.

Mục lục

[sửa] Tiểu sử

Ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Sứ quân Ngô Xương Xí, chắt của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập–hoàng tử trưởng của Ngô Quyền [1], người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay. Có tài liệu ([2]) lại nói quê ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, huyện Gia Lâm ngày nay).

Gia đình ông nối đời làm quan, nhiều mưu lược, có tài làm tướng. Khi còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn chi hậu, là thái giám theo hầu Lý Thái Tông, thăng dần đến chức Nội thị sảnh đô tri. Lý Thánh Tông phong chức Thái bảo, ban tiết việt để đi thăm hỏi lại dân ở Thanh Hóa, Nghệ An. Tháng 2 năm 1069, khi vua Lý Thánh Tông thân đi đánh Chiêm Thành, ông làm tướng tiên phong, bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman 4).

Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt. Vua biết tin, sai ông và Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân thủy, quân bộ đều tiến. Ông đánh các châu Khâm, Liêm; Tôn Đản vây châu Ung. Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận. Tri Ung châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành. Thành bị hạ. Tô Giám tự đốt chết. Người trong thành không chịu hàng, giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000. Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về. Năm 1076, mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm ThànhChân Lạp sang xâm lấn Đại Việt. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1.000 người.

Ông còn hai lần trực tiếp đi đánh Chiêm Thành vào các năm 1075 và 1104. Năm 1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na (Jaya Indravarman 2, 1086-1113) đem quân đánh và lấy lại 3 châu Địa Lý v.v. mà vua Chế Củ đã cắt cho Đại Việt. Đến đây, Lý Thường Kiệt đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại nộp đất ấy cho Đại Việt.

Vì có công, ông được ban "quốc tính", mang họ vua (do đó có họ tên là Lý Thường Kiệt), và phong làm Phụ quốc thái phó, dao thụ chư trấn tiết độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc, thiên tử nghĩa đệ, phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau lại có công nữa, được phong làm Thái úy.

Năm 1105 mùa hạ, tháng 6, Thái úy Lý Thường Kiệt chết, vua ban chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công, thực ấp một vạn hộ, cho người em là Lý Thường Hiến được kế phong tước hầu.

[sửa] Bài thơ Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà là bài thơ mà nhiều tài liệu sử sách cũng như dân gian cho là của ông viết và cho đọc tại đền thờ anh em Trương Hống, Trương Hát trên bờ sông Như Nguyệt để cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân Đại Việt chống lại quân Tống.

[sửa] Bản gốc

南國山河

南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛

[sửa] Phiên âm Hán-Việt

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

[sửa] Các bản dịch

Núi Sông Nam có Vua Nam Việt
Trên sổ trời riêng biệt phân minh
Sao người xâm phạm, nghịch binh?
Chờ coi người sẽ tan tành hư không.

Bản dịch khác:

Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành đã định tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

[sửa] Liên kết ngoài