Bắc Đẩu thất tinh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bắc Đẩu thất tinh: tức là Bắc Thần mà Đạo giáo gọi là Thiên Cương, ở phía cực Bắc và hình dáng giống cái đấu đo lường (dipper), gồm 7 sao: 1. Thiên Xu (= Tham Lang), 2. Thiên Tuyền (= Cự Môn), 3. Thiên Ky (= Lộc Tồn), 4. Thiên Quyền (= Văn Khúc), 5. Thiên Hành (= Liêm Trinh), 6. Khải Dương (= Vũ Khúc), 7. Dao Quang (= Phá Quân). Bắc Thần, trong thiên văn học Trung Quốc, được xem là trung tâm vũ trụ (vũ = không gian; trụ = thời gian), là nơi Thượng Đế (tức Thái Nhất) ngự trị, do đó Bắc Thần còn có tên là: Thiên Hoàng Đại Đế, Thiên Cực Tinh: «Thiên Trung Cung, Thiên Cực Tinh, kỳ nhất minh giả Thái Nhất thường cư.» (Nơi trung cung trên trời, sao Thiên Cực, một sao sáng trong đó là nơi Thái Nhất thường cư ngụ). Tuy nhiên, theo Joseph Needham, trải qua mấy ngàn năm, nhiều vì sao đã đóng vai trò của Bắc Thần (pole star): (a) Tả Xu, Hữu Xu (khoảng năm 3000 tcn). Bắc Cực ở giữa hai sao này; (b) Thiên Ất (3067 i Draconis); (c) Thái Ất (42 hay 184 Draconis). Hai sao Thiên Ất và Thái Ất ở gần sao Hữu Xu và có lẽ đã được coi là sao Bắc Thần. Thái Ất được coi là sao Bắc Thần vào khoảng năm 2000 tcn; (d) Thiên Đế Tinh (Ursae Minoris, Kochab) đóng vai Bắc Thần khoảng năm 1000 tcn; (e) Thiên Xu hay Nữu Tinh (4339 Camelopardi). Sao này có lẽ đã đóng vai Bắc Thần thời Hán (200 tcn-200 cn); (f) Thiên Hoàng Đại Đế (Ursae Minoris) đóng vai Bắc Thần hiện nay. Đạo giáo coi trọng Bắc Thần vì đó là nơi thường cư của Thượng Đế, và cầu đảo Bắc Thần là nhằm ‘tiêu tai giải ách, bảo mệnh trường thọ’. Trong khoa nghi của Đạo giáo gọi là trai tiêu (trai: giữ giới để thanh khiết; tiêu: cầu đảo thần linh) thì đạo sĩ hành lễ phải có bước đi theo hình 7 sao Bắc Đẩu, gọi là bộ Cương đạp Đẩu (bước chân theo chòm sao Thiên Cương = Bắc Đẩu), cũng gọi là Vũ bộ (bước đi của Đại Vũ, vốn được xem là nguồn gốc của pháp thuật).