Ung Chính

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Ung Chính (tên húy Dận Chân 胤禛; 13 tháng 12, 1678 – 8 tháng 10, 1735) là hoàng đế thứ 4 của nhà ThanhTrung Quốc từ năm 1722 đến 1735.

Mục lục

[sửa] Đệ tứ hoàng tử

Dận Chân là con trai thứ 4 của Khang Hy hoàng đế, và là con trai cả của thứ phi Hiếu Cung (孝恭皇后 Hiếu Cung hoàng hậu), bộ tộc Ái Tân Giác La ở Mãn Châu. Khang Hy cho rằng việc chỉ nuôi nấng các hoàng tử trong hoàng cung sẽ tạo sai lầm, do đó ông đã cho các hoàng tử, kể cả Dận Chân, tiếp xúc với thế giới bên ngoài, và ban ra một hệ thống giáo dục nghiêm khắc cho các hoàng tử. Dận Chân đã cùng hoàng đế Khang Hy vi hành nhiều lần ở các vùng, tỉnh xung quanh kinh thành Bắc Kinh, cũng như về phía Nam xa xôi. Ông là chủ soái của Hồng kỳ (một trong Bát kỳ của Mãn Châu: Chính Hoàng kỳ, Phụ Hoàng kỳ, Chính Hồng kỳ, Phụ Hồng kỳ, Chính Lam kỳ, Phụ Lam kỳ. Chính Bạch kỳ, Phụ Bạch kỳ) trong suốt cuộc chiến tranh lần thứ 2 giữa hoàng đế Khang Hy với Khả hãn Mông Cổ Gordhun (Chuẩn Cát Nhĩ). Dận Chân được phong Hầu (貝勒, "Hầu gia") năm 1698 và sau đó là vị trí hoàng tử thứ ba năm 1699. Năm 1704, sông Dương tử và sông Hoàng hà gây ra một trong những trận lũ lớn trong nhất lịch sử Trung Quốc. Kinh tế và đời sống của nhân dân xung quanh các vùng này bị đe dọa nghiêm trọng. Hoàng tử Dận Chân được Khang Hy cử đến với tư cách là khâm sai đại thần của hoàng đế cùng với hoàng tử thứ 13 là Dận Tường để giúp đỡ các nạn dân vùng phía Nam Trung Quốc. Quốc khố lúc này đang cạn kiệt do các khoản nợ không trả từ các quan lại và quí tộc, do đó triều đình không đủ tiền để đối phó với nạn lũ. Dận Chân đã phải thực hiện chính sách thu gom ngân quỹ từ các thương gia giàu có ở phương Nam. Những nỗ lực này của ông bảo đảm tiền cứu tế được phân bố và các nạn dân không bị đói. Ông được phong danh vị hoàng tử thứ nhất, Ung Thân Vương (雍親王) năm 1709.

[sửa] Việc lên ngôi mờ ám

Xem chi tiết: Khang Hy

Năm 1712, hoàng đế Khang Hy phế bỏ hoàng tử thứ hai, Dận Phường, sau vụ chính biến và quyết định không thiết lập ngôi thái tử kế vị nữa. Điều này đã dẫn đến sự phân chia trong triều đình nhằm tranh giành vị trí thái tử bị bỏ trống, sự chia rẽ giữa những người ủng hộ Dận Nghi, Dận Chân, Dận Tự và Dận Đề, các hoàng tử thứ 3, 4, 8 và 14. Trong số các hoàng tử trên, Dận Tự được sự ủng hộ nhiều nhất từ các quan lại, cho dù ông này thuờng hay nghi kỵ và tính khí hẹp hòi. Vì lí do này, Dận Chân đã ủng hộ Thái tử Dận Phường. Khi tiên hoàng băng hà vào tháng 12 năm 1722, việc phân chia quyền vị ngai vàng chỉ còn lại ba hoàng tử, sau khi Dận Tự chuyển sang ủng hộ thập tứ hoàng tử Dận Đề (em ruột của Dận Chân), đó là Dận Nghi, Dận Chân và Dận Đề.

Vào thời điểm hoàng đế Khang Hy băng hà, thập tứ hoàng tử Dận Đề, lúc này là Viễn chinh đại tướng quân (撫遠大將軍), đang phải chinh chiến ở chiến trường Tây Bắc. Một số nhà sử học cho rằng việc này là để huấn luyện khả năng cầm quân của hoàng đế tương lai; một số khác lại cho rằng việc này nhằm bảo đảm chuyện lên ngôi trong hòa bình của Dận Chân. Chính hoàng tử Dận Chân đã tiến cử Dận Đề vào vị trí này chứ không phải Dận Tự, người cùng phe với Dận Đề. Vị trí này được xem như là của người kế nhiệm hoàng đế Khang Hy, cho vị trí thái tử đã bỏ trồng suốt gần 7 năm.

Sử sách ghi chép lại rằng vào ngày 20 tháng 12 năm 1722, hoàng đế Khang Hy đã gọi lại bên giường của mình 7 vị hoàng tử và tổng đốc Bắc Kinh thành, Long Khoa Đa, người sẽ đọc di chiếu và tuyên bố Ung Chính là người kế vị ngai vàng. Một số chứng cứ chứng tỏ rằng Dận Chân đã có liên kết với Long Khoa Đa từ vài tháng trước khi di chiếu được tuyên bố bằng sự chuẩn bị lực lượng quân đội, vì trong dự định của họ, binh biến là không thể tránh khỏi. Các truyện dân gian cho rằng Ung Chính đã thay đổi di chiếu của hoàng đế Khang Hy bằng cách thêm dấu vào và sửa đổi k‎í tự. Nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là việc Ung Chính đã thay đổi chữ "thập tứ" (十四) thành chữ "tứ" (于四), một số khác cho rằng từ "thập tứ" thành "đệ tứ" (第四). Khi các câu chuyện này truyền trong dân gian, cũng có một số ít chứng cứ cho quan điểm này, đặc biệt là dựa trên việc chữ "于" không được dùng rộng rãi trong suốt thời đại nhà Thanh, vì người ta thường dùng chữ "於". Tiếp đó, phong tục của nhà Thanh là di chiếu sẽ được viết cả bằng tiếng Mãn Châu và tiếng Hán, mà tiếng Mãn Châu khó viết hơn, trong trường hợp này việc sửa di chiếu có lẽ khó khăn hơn. Tuy nhiên, dù có nhiều nghi ngờ dấy lên khi mà di chiếu viết bằng tiếng Mãn bị thất lạc đâu đó và di chiếu bằng tiếng Hán, đang được lưu giữ trong viện Bảo tàng sử Trung Quốc, chỉ được ban bố 2 ngày sau cái chết của Khang Hy. Một số nhà sử đưa ra giả thuyết rằng Ung Chinh không thay đổi di chiếu nhưng đã viết một bản khác.

Việc đầu tiên khi làm hoàng đế của Ung Chính là ông đã thả thập tam hoàng tử, Dận Tường, người cùng ông chiến đấu bao năm khi còn là hoàng tử. Dận Tường bị giam cầm bởi hoàng đế Khang Hy cùng lúc với thái tử Dận Phường. Một số nguồn tư liệu đã ghi lại rằng, Dận Tường, vị hoàng tử nắm giữ hầu hết quân đội, đã điều một đội quân trong Bắc Kinh từ Phong Đài đến bao vây và kiểm soát Tử Cấm Thành và một số vùng xung quanh, hành động này nhằm ngăn chặn mọi phản kháng từ phía hoàng tử Dận Tự. Ung Chính đã cảm thấy bất an và rất buồn khi phụ hoàng qua đời, và biết rằng sẽ là một áp lực và trọng trách lớn khi ông thừa kế ngai vàng của vua cha. Hơn nữa, sau khi di chiếu được tuyên bố, Dận Chân đã ra lệnh cho các trọng thần (Trương Đình Ngọc, Long Khoa Đa và Dận Nghi) và hoàng tử Hoằng Lịch dẫn các hoàng tử còn lại làm lễ Tam bái - Cửu chào đối với tân hoàng đế. Vào ngày hôm sau, Ung Chính đã ra một khẩu dụ điều Dận Đề trở về Giang Tô, đồng thời phong tặng thân mẫu danh phong Thiên hoàng thái hậu vào lúc Dận Đề đến dự lễ tang tiên hoàng.

Trong bản tóm tắt tiểu sử toàn diện nhất về hoàng đế Ung Chính của học giả Phương Kế Dương, tác giả đã đặt những thành công của hoàng đế Ung Chính vào một triển vọng tốt đẹp. Phương Kế Dương viết rằng vẫn còn một số nghi ngờ từ di chiếu bị thất lạc hay ngày được ban hành, song đa số các luận điểm chứng tỏ rằng Ung Chính đã thành công trong việc lên ngai vàng một cách hợp lẽ, dẫu cho ông cũng đã có sử dụng quân đội trong một số trường hợp cần thiết. Bát hoàng tử Dận Tự đã bỏ cả đời để chiêu nạp các quan viên, thuộc hạ bằng con đường hối lộ, và những ảnh hưởng của Dận Tự đã liên quan đến chính bíến Phong Đài. Ngoài ra, Phương Kế Dương cũng cho rằng "mặc dù chúng ta không hoàn toàn chắc chắn điều gì đã xảy ra với sự kế vị, cũng như bên nào đúng bên nào sai, nhưng có lí do để nói rằng các thế lực chính trị chống lại Ung Chính đã làm nhiều điều mờ ám đằng sau ‎nhằm phủ lên vương triều Ung Chính một bức tranh đen tối; truyền thống hoàng gia Trung Hoa đã dẫn đến những suy nghĩ tin tưởng rằng toàn bộ sự cai trị của Ung Chính đơn giản có thể mang lại sự mất uy tín bởi vì sự kế vị của ông trên ngai vàng không tuân theo những di chiếu của tiên hoàng và những nhà quan trọng thần tối cao của Trung Hoa." Xa hơn, học giả Phương cho rằng Khang Hy đã phạm một sai lầm to lớn khi để các con của mình lao vào chính trị quá nhiều, và đặc biệt là trong hoàn cảnh chiếc ghế Thái tử bị bỏ trống, do đó một cuộc huyết chiến giành vương vị, bao gồm cả việc chiếm đoạt nếu có thể, là một kết quả không thể tránh khỏi trong lịch sử phong kiến Trung Hoa. Vì thế, thậm chí sẽ là một sai lầm to lớn hơn nữa khi đánh giá một nhà cai trị đơn giản thông qua cách mà ông ta nắm quyền lực. Có một điều chắc chắn là hoàng đế Ung Chính đã bảo đảm rằng những người kế vị của ông có được sự kế vị bằng phẳng hơn là khi ông lên ngôi.

Tháng 12 năm 1722, sau khi lên nắm đế vị, Dận Chân đặt niên hiệu là Ung Chính (雍正), bắt đầu từ năm 1723, xuất phát từ chữ Ung, nghĩa là "hòa thuận"; và chữ Chính, nghĩa là "ngay thẳng" hay "chính xác". Ngay lập tức sau khi lên ngôi, Ung Chính đã chọn ra các quân cơ đại thần vào Quân Cơ Viện. Bao gồm bát hoàng tử Dận Tự, thập tam hoàng tử Dận Tường, Trương Đình Ngọc, Mã Vệ và Long Khoa Đa. Dận Tự được phong làm Liên Thân Vương, còn Dận Tường được phong làm Thành Thân Vương, cả hai đều được giữ những vị trí cao trong triều.

[sửa] Củng cố quyền lực

[sửa] Tiêu diệt các hoàng tử khác

Do sự lên ngôi của ông có nhiều điều nghi vấn, Ung Chính đã nhận thấy sự đố kỵ và tranh chấp từ các hoàng tử còn lại. Dận Nghị, đại hoàng tử tiếp tục bị giam cầm tại gia. Dận Phường, thái tử bị phế truất mất 2 năm sau khi Ung Chính lên ngôi - dù họ bị giam cầm không phải do Ung Chính mà do vua cha Khang Hy. Việc khó khăn nhất chính là phải chia rẽ nhóm của bát hoàng tử Dận Tự (bao gồm Dận Tự, cửu, thập hoàng tử, và các thuộc hạ), và chia cắt Dận Đề nhằm cắt đứt liên minh này. Dận Tự, người nằm giữ chức Thượng thư Bộ Công, và tước Liên Thân Vương, được theo dõi rất kỹ bởi Ung Chính. Cửu hoàng tử Dận Đường được cử tới Giang Tô để hỗ trợ quân đội, nhưng thực chất là chịu sự cai quản thuộc hạ của Ung Chính là tướng quân Niên Canh Nghiêu. Dận Hề, thập hoàng tử, bị tước bỏ mọi quyền vị vào tháng 5 năm 1724, và bị đày đi phương bắc tới vùng Nội Mông. Thập tứ hoàng tử Dận Đề, em ruột của hoàng đế Ung Chính, thì bị đày đến canh giữ tẩm lăng của các tiên hoàng.

Trong những năm đầu tiên dưới sự cai trị của Ung Chính, sự ủng hộ ông đã tăng lên rõ rệt. Dận Tự muốn dùng vị thế và chức vị của mình nhiều lần ép buộc nhà vua nhằm làm cho Ung Chính phải đưa ra những chính sách, quyết định sai lầm dù bề ngoài Dận Tự vẫn tỏ ra ủng hộ nhà vua. Dận Tự và Dận Đường, những người từng ủng hộ Dận Đề lên vị trí ngôi báu, đã bị tước hết mọi quyền vị và bị giam cầm trong ngục cho đến chết vào năm 1727.

[sửa] Vụ án Niên Canh Nghiêu và Long Khoa Đa

Niên Canh Nghiêu là tâm phúc của Ung Chính một thời gian dài trước khi ông bước lên ngai vàng. Vào năm 1722, khi Ung Chính gọi em trai của mình, Dận Đề, quay trở về từ đông bắc, ông đã chỉ định Niên đến thay thế vị trí này. Tình hình biên giới Tân Cương lúc này vẫn rất rối ren, do đó ở đây rất cần một viên tướng giỏi. Tuy nhiên, sau một vài cuộc chinh phục thành công, Niên Canh Nghiêu đã bắt đầu tha hóa khi nhận hối lộ để thăng quan tiến chức. Niên nổi tiếng với lối sống vương giả ngang bằng với hoàng thượng. Nhìn thấy trước viễn cảnh không tốt từ Niên, Ung Chính đã ra một chỉ dụ giáng chức Niên Canh Nghiêu xuống làm tướng quân của Hàng Châu phủ. Tuy nhiên, vẫn tiếp tục những hành động ngông cuồng, Niên đã nhận được tối hậu thư từ Ung Chính hoàng đế, và sau đó ông ta đã phải tự sát bằng thuốc độc vào năm 1726. Long Khoa Đa là thống soái toàn bộ quân đội thành Bắc Kinh vào thời điểm Ung Chính lên ngôi. Sau đó, ông ta bắt đầu bị ghét bỏ từ năm 1728 và chết khi bị giam cầm tại tư gia.

[sửa] Sự nghiệp: Những cải cách

Sau khi trở thành hoàng đế đại Thanh, Ung Chính đã cho giám sát chặt chẽ hoạt động của các quan lại cấp dưới và đồng thời cho tịch thu các truyền đơn mà ông cho là gây ảnh hưởng xấu cho chế độ của mình, đặc biệt là những người phản Thanh phục Minh. Nổi bật trong số đó là trường hợp của Tằng Tĩnh, một nho sinh thi hỏng mang ảnh hưởng nặng nề tư tưởng của học giả Liễu Lưu Lương ở thế kỷ 17. Vào tháng 10 năm 1728, Tằng đã kích động Nhạc Chung Kỳ, tướng quân của 2 tỉnh Thiểm Tây – Cam Túc, làm phản. Ông ta đưa ra một bản danh sách dài vạch tội của Ung Chính, bao gồm cả việc giết hoàng đế Khang Hy và hạ sát các anh em để giành ngôi. Giải quyết vụ án này, cuối cùng Ung Chính đã cho bắt Tằng Tĩnh về thành Bắc Kinh để xét xử.

Ung Chính còn được biết đến như một nhà vua chuyên quyền, nghiêm khắc trong thời gian trị vì của mình. Ông căm ghét tham nhũng và trừng phạt nghiêm khắc các quan viên khi họ vi phạm các quy tắc trên. Năm 1729, ông ra một khẩu dụ nghiêm cấm việc hút madak, một thứ thuốc phiện do người phương Tây mang vào Trung Quốc. Trong suốt triều đại Ung Chính, Thanh triều đã trở thành một vương triều vững mạnh và thanh bình, ngoài ra ông cũng cho xây dựng lại Cung điện Mùa hè Càn Thành (康乾盛世). Ông ban hành một di chiếu giả cho người kế vị nhằm tránh lặp lại bi kịch của cha ông.

Ung Chính rất tin tưởng vào người Hán và sử dụng nhiều quan viên người Hán trong chính quyền của mình. Cả Lý Vệ và Đường Văn Kính đều giúp triều đình cai quản các vùng phía nam Trung Quốc. An Thái cũng phục vụ cho Ung Chính trong việc cai quản các vùng miền nam. Ông cũng nổi tiếng vì đã thu hết quyền lực của các vị hoàng tử của 5 kỳ còn lại và thống nhất toàn bộ bát kỳ dưới sự lãnh đạo duy nhất của ông, thông qua việc lập ra Bát vương nghị chính (八王依正).

[sửa] Cái chết đến sớm

Giống như cha mình là hoàng đế Khang Hy, Ung Chính cũng dùng sức mạnh quân đội để bảo vệ vị thế thiên triều trước những thế lực bên ngoài như Mông Cổ, và khi Tây Tạng bị chia cắt bởi cuộc chiến từ năm 1717-1728, ông đã rút toàn bộ quân đội, chỉ để lại một viên quan nhà Thanh và các đơn vị đồn trú để bảo vệ biên giới thiên triều. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng Ung Chính đã cải cách lại chế độ thuế má vào thời điểm đó nên không có chính sách ưu đãi cho giai cấp thượng lưu và áp dụng chế độ thuế đất mới cho các chủ đất. Cuộc sống hậu cung của ông lại là một câu chuyện buồn. Ông có 14 người con trai nhưng có đến 9 người chết sớm.

Hoàng đế Ung Chính cai trị Trung Quốc chỉ trong 13 năm. Ông mất đột ngột vào năm 1735 khi mới 58 tuổi. Các truyện dân gian kể rằng ông đã bị ám sát bởi Lữ Song Nhi, con gái của Lữ Lưu Lương, người mà cả gia đình đã bị xử tử trong vụ án văn chương nổi tiếng chống lại nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Một giả thuyết khác có vẻ thực tế hơn đó là Ung Chính đã chết vì dùng thuốc quá liều vào thời điểm đó, vì ông cho rằng các loại dược liệu quí này sẽ giúp ông kéo dài tuổi thọ. Để tránh một cuộc tranh giành ngôi báu tương tự như thời của mình 13 năm trước, ông đã ra lệnh cho hoàng tử thứ ba, Hoằng Thời, người đã từng cùng phe với Dận Tự, phải tự sát. Đồng thời, ông cũng đã chỉ định hoàng tử thứ tư Bảo Thân Vương Hoằng Lịch, kế ngôi. Hoằng Lịch sau lên ngôi vua, tức là vua Càn Long (Thanh Cao Tông).

Ông được đưa vào Lăng Tây Thanh (清西陵), 120 km về phía tây nam thành Bắc Kinh, trong bảo tàng Thái Lăng (泰陵) (tên dưới thời nhà Thanh là Elhe Munggan).

[sửa] Quan hệ tôn thất

[sửa] Phụ mẫu

  • Phụ hoàng: Khang Hy hoàng đế (Ung Chính là con trai thứ 4 của ông)
  • Mẫu hậu: thứ phi của Khang Hy (Mãn Châu) từ bộ tộc Ái Tân Giác La (1660-1723), được phong làm Nhân Thọ hoàng thái hậu (仁壽皇太后) khi Ung Chính lên ngôi và thường được biết đến với tên gọi Hiếu Cung Nhân hoàng hậu (Tên Hán: 孝恭仁皇后; Tên Mãn Châu: Hiyoošungga Gungnecuke Gosin Hūwanghu)

[sửa] Phi tần

  1. Hoàng hậu Hiếu Kính Hiến (? -1731), bộ tộc Nạp Lan (Tên Hán: 孝敬憲皇后; Tên Mãn Châu: Hiyoošungga Ginggun Temgetulehe Hūwanghu)
  2. Hoàng hậu Xiaosheng Xian (1692-1777), bộ tộc Ái Tân Giác La (Tên Hán: 孝聖憲皇后; Tên Mãn Châu: Hiyoošungga Enduringge Temgetulehe Hūwanghu), mẹ của Hoằng Lịch
  3. Niên Quí Phi (年贵妃), chị của Niên Canh Nghiêu, sinh 3 hoàng tử và 1 công chúa nhưng đều bị chết sớm.
  4. Ngọc Phi (齐妃) of Li, mẹ của Hoằng Thời
  5. Ý Quí Phi (懿贵妃) of Geng, mẹ của Hoằng Chú
  6. Quân Phi (谦妃) of Liu, mẹ hoàng tử nhỏ nhất của Ung Chính
  7. Song Tần Phi, sinh 3 công chúa
  8. Vũ Tần Phi

[sửa] Hoàng nam, hoàng nữ

11 hoàng tử:

  1. Hoằng Huy (弘暉),Đoan Thân Vương (端親王)
  2. ?
  3. Hoằng Thời (弘時)
  4. Hoằng Lịch (弘曆)
  5. Hoằng Chú (弘晝), Hoàng tử Hề / Hòa Cung Thân Vương (和恭親王)
  6. Phúc Huệ (福惠), Hoài Thân Vương (懷親王)
  7. Hoằng Chiêm (弘瞻), Quả Cung Quận Vương (果恭郡王)
  8. (弘昀), chết sớm
  9. (弘昐), chết sớm
  10. Phúc Nghi (福宜), chết sớm
  11. Phúc Phái (福沛), chết sớm

4 công chúa (3 chết sớm).

[sửa] Vai trò lịch sử

Được đánh giá là một vị vua nghiêm khắc và tận tụy, Ung Chính đã xây dựng một vương triều vững mạnh dựa trên việc chi tiêu một cách thấp nhất. Cũng giống như tiên đế, hoàng đế Khang Hy, hoàng đế Ung Chính dùng sức mạnh quân đội để bảo vệ vị thế của thiên triều. Bị các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng đã cướp ngôi, sự cai trị của ông bị coi là chuyên quyền, nhưng hiệu quả và mạnh mẽ, mặc dầu thời gian ông nắm ngai vàng ngắn hơn sự trị vì nổi tiếng của cha ông, tiên đế Khang Hy, và con trai ông, hậu đế Càn Long, sự băng hà đột ngột của ông có lẽ một phần là do những công việc quá sức mà ông phải thực hiện. Ung Chính tiếp tục thời đại của sự thanh bình và thịnh vượng vì ông đã hạn chế nạn tham nhũng, lãng phí và cải cách hành chính kinh tế một cách triệt để.

Mặc dù nổi tiếng một người tiết kiệm, Ung Chính đã đóng góp một phần vào việc xây dựng Cung điện Mùa hè, một kiệt tác trong lịch sử triều đại nhà Thanh. Đài truyền hình Trung Quốc CCTV-1 đã trình chiếu một series phim truyền hình về lịch sử Trung Quốc năm 1997 trong đó có đề cập đến hoàng đế Ung Chính, chủ yếu tập trung vào mặt tích cực của ông, và lập trường cứng rắn của ông về việc chống tham nhũng, một vấn đề không mới trong xã hội.

Trước:
Khang Hy
Hoàng đế nhà Thanh
(Trung Quốc)

1722–1735
Sau:
Càn Long