Chủ nghĩa kinh nghiệm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Trong triết học, chủ nghĩa kinh nghiệm là một lý thuyết về tri thức với đặc điểm nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm. Trải nghiệm có thể được hiểu là bao gồm tất cả các nội dung của ý thức hoặc nó có thể được giới hạn trong dữ liệu của các giác quan mà thôi.[1]

Trong triết học khoa học, chủ nghĩa kinh nghiệm là một lý thuyết về tri thức nhấn mạnh đến các khía cạnh của tri thức khoa học có quan hệ chặt chẽ với trải nghiệm, đặc biệt khi được tạo ra qua các sắp đặt thử nghiệm có chủ ý. Một yêu cầu căn bản của phương pháp khoa học là tất cả các giả thuyết và lý thuyết đều phải được kiểm nghiệm bằng các quan sát về thế giới tự nhiên thay vì chỉ dựa trên lập luận tiên nghiệm, trực giác, hay mặc khải. Do đó, về bản chất, khoa học được xem là theo lối kinh nghiệm một cách có phương pháp luận.

Mục lục

[sửa] Tổng quan về chủ nghĩa kinh nghiệm trong triết học

Học thuyết đầu tiên về chủ nghĩa kinh nghiệm được phát biểu một cách tường minh bởi John Locke vào thế kỷ 17. Locke cho rằng tâm thức là một tabula rasa (tấm bảng trống trơn) trước khi các trải nghiệm lưu dấu vết của mình lên đó. Chủ nghĩa kinh nghiệm như của Locke phủ nhận rằng con người có các ý niệm bẩm sinh hay cái gì đó nhận biết được mà không phải tham chiếu tới trải nghiệm

Chủ nghĩa kinh nghiệm không cho rằng ta có được các tri thức kinh nghiệm một cách tự động. Thay vào đó, theo quan điểm của các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa, để cho một tri thức bất kỳ có thể được suy luận hoặc suy diễn một cách đúng đắn, tri thức đó phải bắt nguồn từ trải nghiệm giác quan của ta. [2] Về mặt lịch sử, chủ nghĩa kinh nghiệm triết học thường được đặt đối lập với trường phái tư tưởng được gọi là "chủ nghĩa duy lý", trường phái này khẳng định rằng nhiều tri thức có thể quy cho lý tính một cách độc lập với các giác quan. Tuy nhiên, ngày nay, sự đối lập này được xem là một sự đơn giản hóa quá mức về các vấn đề có liên quan, vì các nhà duy lý lục địa quan trọng (Descartes, Spinoza và Leibniz) cũng đã ủng hộ các "phương pháp khoa học" theo lối kinh nghiệm vào thời của họ. Hơn nữa, về phần mình, Locke cho rằng có một số tri thức (chẳng hạn tri thức về sự tồn tại của Chúa trời) chỉ có thể đạt được bằng trực giác và lập luận mà thôi.[3]

Một số triết gia quan trọng được cho là có quan hệ với chủ nghĩa kinh nghiệm bao gồm Aristotle, Thomas Aquinas, Francis Bacon, Thomas Hobbes, John Locke, George Berkeley, David Hume, và John Stuart Mill.

[sửa] Lịch sử

[sửa] Các hình thức sơ khởi của chủ nghĩa kinh nghiệm

Các hình thức sơ khởi của chủ nghĩa kinh nghiệm bao gồm các công trình nghiên cứu về nhận thức luận của một số nhà triết học, trong đó có Aristotle, Thomas Aquinas và Roger Bacon.

Có lẽ các nhà triết học kinh nghiệm đầu tiên của triết học phương Tây là các nhà Sophist[4] (khoảng thế kỷ 2 trước CN), họ đã phủ nhận các suy đoán duy lý về bản chất của thế giới (mà đã rất phổ biến trong các vị tiền bối của họ) để tập trung vào "những thực thể tương đối cụ thể hơn chẳng hạn như con người và xã hội".[5][6] Các nhà Sophist đã viện đến các luận cứ hoài nghi ngữ nghĩa, sử dụng các ví dụ mà người khác có thể dễ dàng thấy được để làm suy yếu các tuyên bố của lý tính thuần túy.

Aristotle đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quy nạp dựa trên kinh nghiệm.
Phóng lớn
Aristotle đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quy nạp dựa trên kinh nghiệm.

Khoảng một thế kỷ sau đó, phản ứng chống lại cách tiếp cận duy lý và hết sức suy đoán của Plato (427–347 TCN), trong những năm cuối đời, Aristotle (384–322 TCN) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của những gì các giác quan thu nhận được, nghĩa là nhấn mạnh vào các quan sát hậu nghiệm.[7] Aristotle dùng thuật ngữ triết học tự nhiên để gọi nhiệm vụ tìm hiểu thế giới tự nhiên, sử dụng cái mà sau này đã được biết với tên lập luận quy nạp (inductive reasoning) để đi đến các phạm trù và nguyên lý dựa trên dữ liệu giác quan. Cách tiếp cận này đã đối ngược sâu sắc với lý thuyết hình thức của Plato - lý thuyết phụ thuộc rất lớn vào các giả thuyết tiên nghiệm (xem chú thích trên). Trong các thời kỳ "giữa" và "sau" của mình, Aristotle ngày càng không đồng ý với các quan niệm của Plato và phát triển một sự kỳ vọng ngày càng chặt chẽ về các khẳng định tường minh bằng thực nghiệm cho tất cả các kết luận từ quy nạp.[8] Aristotle còn khẳng định nguyên lý cốt lõi của chủ nghĩa kinh nghiệm rằng tri thức của con người về thực tại được đặt nền móng bằng trải nghiệm từ các giác quan.[9]

Một thế hệ sau Aristotle, cả các nhà triết học Khắc kỷ (Stoic) và Hưởng lạc (Epicurean) đều thiết lập các các giải thích tường minh hơn theo kiểu kinh nghiệm về sự hình thành của các ý niệm và khái niệm. Đi trước Locke hàng nghìn năm, các nhà triết học khắc kỷ tuyên bố rằng tâm thức con người là một tấm bảng trắng trơn mà sau đó sẽ được xếp đầy các ý niệm từ các tri giác giác quan. Tuy nhiên, họ còn khẳng định rằng có một số "khái niệm chung" nhất định có sẵn trong tâm thức của tất cả mọi người một cách tiên nghiệm. Các nhà triết học theo thuyết hưởng lạc có một quan điểm hậu nghiệm kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa còn mạnh hơn nữa. Đối với họ, các khái niệm thần kinh là các hình ảnh ký ức hoặc các bản sao của các trải nghiệm giác quan trước đó, và các cảm giác luôn luôn là các bằng chứng tốt về các nguyên nhân của các cảm giác đó. [10]

Trong các nhà triết học kinh viện, Thomas Aquinas thu nhận từ Aristotle tiên đề triết học nổi tiếng: "Không có gì trong trí tuệ mà nó không đến đầu tiên từ các giác quan".[11][12] Aquinas lý luận rằng sự tồn tại của Chúa trời có thể được chứng minh bằng lập luận từ dữ liệu giác quan.[12] Ông sử dụng một biến thể của khái niệm của Aristotle về "trí tuệ chủ động" (active intellect) mà ông giải nghĩa là khả năng trừu tượng hóa ý nghĩa phổ quát từ dữ liệu kinh nghiệm cụ thể.[13]

[sửa] Chủ nghĩa kinh nghiệm Anh

Các khái niệm sơ khởi về sự tồn tại của "các ý niệm bẩm sinh" đã là chủ đề của cuộc tranh luận giữa các nhà duy lý lục địa và các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa Anh trong suốt thời gian từ thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 18. John Locke, George Berkeley, và David Hume đã là những người diễn giải chính của chủ nghĩa kinh nghiệm.

Phản ứng lại "chủ nghĩa duy lý" lục địa mà người bảo vệ xuất chúng nhất là René Descartes (một cách tiếp cận triết học mà không nên nhầm lẫn với chủ nghĩa duy lý nói chung), John Locke (1632-1704), trong cuốn Luận về hiểu biết của con người (An Essay Concerning Human Understanding) năm 1689, đã đề xuất một quan điểm mới mẻ và có tầm ảnh hưởng rất lớn, trong đó nói rằng tri trức duy nhất mà con người có thể có là tri thức hậu nghiệm, nghĩa là dựa trên các trải nghiệm. Người ta ghi nhận Locke với khẳng định của ông rằng tâm thức con người là một tabula rasa, một "cái bảng trống trơn", trong lời của Locke là "trang giấy trắng," mà viết trên đó là các trải nghiệm rút ra từ các ấn tượng giác quan khi cuộc đời của một con người tiến triển. Có hai nguồn cho các ý niệm của chúng ta: cảm giác và suy tưởng. Trong cả hai trường hợp, ông phân biệt giữa các ý niệm đơn và các ý niệm phức. Các ý niệm đơn không thể phân tích được, và được phân ra thành các tính chất sơ cấp và thứ cấp. Các ý niệm phức là kết hợp của các ý niệm đơn giản hơn và được chia thành các chất, các dạng thức và các quan hệ. Theo Locke, tri thức của ta về sự vật là một tri giác về các ý niệm hợp nhau hay không hợp nhau, điều này rất khác với câu hỏi của Descartes về tính xác tín.

Mục sư George Berkeley
Phóng lớn
Mục sư George Berkeley

Một thế hệ sau, mục sư người Ailen George Berkeley (1685-1753) xác định rằng quan niệm của Locke đã mở ngay một cánh cửa mà cuối cùng sẽ dẫn tới chủ nghĩa vô thần. Để phản ứng lại Locke, trong cuốn "Luận về các nguyên lý của tri thức con người" (Treatise Concerning the Principles of Human Knowledge) năm 1710, ông đã đề xuất một hình thức khác rất cực đoan của chủ nghĩa kinh nghiệm, trong đó sự vật chỉ tồn tại do chúng đang được tri giác hoặc bởi thực tế rằng chúng là các thực thể đang thực hiện việc tri giác. (Đối với Berkeley, Chúa trời thực hiện công việc tri giác giúp con người mỗi khi con người không ở quanh một sự vật để làm việc đó. Nhờ đó mà sự vật có thể tồn tại mà không cần lúc nào có người đang nhìn/nghe/ngửi/sờ thấy nó.) Trong tác phẩm Alciphron, Berkeley đã khẳng định rằng bất cứ trật tự nào mà con người có thể nhìn thấy trong thiên nhiên đều là ngôn ngữ hay chữ viết tay của Chúa trời. (Thornton, 1987) Sau này, cách tiếp cận của Berkeley đối với chủ nghĩa kinh nghiệm đã được gọi là chủ nghĩa duy tâm chủ quan.[14][15]

Nhà triết học người Scotland David Hume (1711-1776) đã bổ sung vào quan điểm của chủ nghĩa kinh nghiệm một chủ nghĩa hoài nghi cực đoan mà ông đem đến để chống lại các luận cứ và phản luận đã được chất đống lại của các nhà triết học khác, trong đó có Descartes, Locke và Berkeley. Hume lý luận trên quan điểm gìn giữ quan niệm kinh nghiệm chủ nghĩa rằng mọi tri thức đều bắt nguồn từ trải nghiệm giác quan. Cụ thể, ông phân chia tất cả các tri thức của con người thành hai loại: các quan hệ của ý niệmsự kiện thực tế. Các mệnh đề toán học và lôgic (chẳng hạn, "bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông") là các ví dụ của các quan hệ của ý niệm, còn các mệnh đề có liên quan đến quan sát nào đó về thế giới (chẳng hạn, "ngày mai mặt trời sẽ mọc") là các ví dụ của sự kiện thực tế. Lần lượt, tất cả các "ý niệm" của một người được rút ra từ các "ấn tượng" của người đó. Đối với Hume, một "ấn tượng" gần như tương ứng với cái mà ta gọi là một cảm giác. Khi ghi nhớ hoặc hình dung các ấn tượng như vậy là khi ta có một "ý niệm". Do đó, ý niệm là bản sao mờ nhạt của cảm giác.[16]

Chủ nghĩa kinh nghiệm của David Hume đã dẫn đến nhiều trường phái triết học
Phóng lớn
Chủ nghĩa kinh nghiệm của David Hume đã dẫn đến nhiều trường phái triết học

Qua các luận cứ hoài nghi (các luận cứ này đã trở nên nổi tiếng bởi lôgic khó quên của chúng), Hume đã khẳng định rằng tất cả các tri thức, ngay cả các niềm tin cơ bản nhất về thế giới tự nhiên, không thể được thiết lập một cách chắc chắn bởi lý tính. Thay vào đó, ông khẳng định rằng, các niềm tin của ta chẳng qua là kết quả của các thói quen tích lũy, chúng được phát triển để đáp ứng với các trải nghiệm giác quan được tích lũy. Bên cạnh nhiều luận cứ của mình, Hume còn bổ sung một thiên kiến quan trọng cho cuộc tranh luận về phương pháp khoa học — đó là vấn đề quy nạp. Hume lý luận rằng ta cần đến lập luận quy nạp để đi đến các tiền đề cho nguyên lý của lập luận quy nạp, và do đó sự biện minh cho lập luận quy nạp là một luận cứ vòng tròn.[16] Một trong các kết luận của Hume về vấn đề quy nạp là: không có sự chắc chắn rằng tương lai sẽ giống quá khứ. Do đó, một ví dụ của Hume, ta không thể dùng lập luận quy nạp để biết chắc chắn rằng mặt trời sẽ tiếp tục mọc ở phía Đông, mà thay vào đó, ta trông đợi nó sẽ như vậy bởi vì trong quá khứ nó đã liên tục như vậy.[16]

Hume kết luận rằng những thứ như niềm tin vào một thế giới bên ngoài và niềm tin vào sự tồn tại của bản thân không thể được chứng minh bằng lý luận. Theo Hume, những niềm tin này tuy vậy vẫn được chấp nhận vì chúng có cơ sở vững chắc trong trực quan và truyền thống. Tuy nhiên, di sản trường tồn của Hume là mối nghi ngờ mà các luận cứ hoài nghi của ông phủ lên tính hợp lệ của lập luận quy nạp, nó cho nhiều người hoài nghi sau ông mối nghi ngờ tương tự.

[sửa] Hiện tượng luận

Xem chi tiết: Hiện tượng luận

Đa số những người theo học thuyết của Hume đã không đồng ý với kết luận của ông rằng niềm tin vào một thế giới bên ngoài về mặt lý tính là không thể chứng minh được (rationally unjustifiable), họ khẳng định rằng các nguyên lý của chính Hume đã ngầm chứa đựng chứng minh hợp lý cho một niềm tin như thế, nghĩa là vượt ra khỏi sự hài lòng với việc để cho vấn đề dựa trên trực quan, thói quen và truyền thống của con người.[17] Theo một học thuyết kinh nghiệm chủ nghĩa cực đoan được gọi là Hiện tượng luận, được dọn đường bởi các luận cứ của cả Hume và George Berkeley, một đối tượng vật lý là một dạng cấu trúc tạo bởi các trải nghiệm của ta.[18] Hiện tượng luận là quan niệm rằng các đối tượng, tính chất, sự kiện vật lý (bất cứ thứ gì vật lý) đều suy giản được về các đối tượng, tính chất, sự kiện tâm thần. Cuối cùng, chỉ có các đối tượng, tính chất, sự kiện tâm thần tồn tại — từ đó dẫn đến thuật ngữ có quan hệ chặt chẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Theo dòng tư duy hiện tượng luận, có một trải nghiệm hình ảnh về một vật vật lý có thật là có một trải nghiệm thuộc một kiểu nhóm trải nhiệm nhất định. Loại tập hợp các trải nghiệm này sở hữu một tính bất biến và gắn kết - tính chất mà tập các trải nghiệm, mà các ảo giác cũng nằm trong đó, không có. Như John Stuart Mill đã nói vào giữa thế kỷ 19, vật chất là "khả năng bền vững của cảm giác" (permanent possibility of sensation).[19]

J.S. Mill
Phóng lớn
J.S. Mill

Chủ nghĩa kinh nghiệm của Mill còn đi một bước quan trọng vượt qua Hume tại một khía cạnh khác: trong khẳng định rằng quy nạp là cần thiết cho mọi tri thức có nghĩa, trong đó có toán học. D.W. Hamlin đã tóm tắt:

[Mill] cho rằng các chân lý toán học chẳng qua là các tổng quát hóa đã được khẳng định ở mức độ cao từ các trải nghiệm; Mill khẳng định rằng suy luận toán học, thường được hiểu là có bản chất suy diễn [và tiên nghiệm], có nền tảng là quy nạp. Do đó, trong triết học của Mill, không có vị trí thực sự cho các tri thức dựa trên các quan hệ của các ý niệm. Trong quan niệm của ông, các điều kiện cần về toán học và lôgic chỉ là các vấn đề tâm lý; chúng ta đơn giản là không thể nhận thức được bất cứ khả năng nào ngoài những gì mà các mệnh đề toán học và lôgic khẳng định. Đây có lẽ là phiên bản cực đoan nhất của chủ nghĩa kinh nghiệm mà ta được biết, nhưng nó chưa tìm được nhiều người ủng hộ.[20]

Do đó chủ nghĩa kinh nghiệm của Mill cho rằng tri thức thuộc bất kỳ dạng nào đều không phải được tạo từ trải nghiệm trực tiếp mà từ một suy luận quy nạp từ trải nghiệm trực tiếp.[21] Các vấn đề nảy sinh đối với các nhà triết học khác về quan điểm của Mill xoay quanh các điểm sau: Trước hết, hệ thống của Mill gặp khó khăn khi nó mô tả trải nghiệm trực tiếp là cái gì bằng cách chỉ phân biệt giữa các cảm giác có thực và cảm giác có thể. Điều này bỏ qua một số bài cãi quan trọng về các điều kiện để cho các "nhóm gồm các khả năng bền vững của cảm giác" có thể tồn tại. Berkeley đã đặt Chúa trời vào khe hở đó; các nhà hiện tượng luận, trong đó có Mill, về bản chất đã bỏ ngỏ câu hỏi đó mà không trả lời. Cuối cùng, thiếu một sự thừa nhận về một khía cạnh của "thực tại" mà nó vượt ra ngoài "các khả năng của cảm giác", một quan điểm như vậy dẫn đến một phiên bản của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Các câu hỏi như làm thế nào mà các cây cột đỡ sàn vẫn tiếp tục đỡ sàn trong khi không ai quan sát nó, làm thế nào mà cây vẫn tiếp tục sinh trưởng trong khi con người không nhìn đến hay động đến nó, v.v.. không được trả lời, và có lẽ không thể trả lời được trong hệ thống này.[20][22] Thứ hai, hệ thống của Mill để ngỏ khả năng không rõ ràng rằng các "thực thể lấp chỗ trống chỉ thuần túy là các khả năng mà không hề là những gì có thực".[22] Thứ ba, khi cho rằng toán học là chỉ là một dạng khác của suy luận quy nạp, quan điểm của Mill đã giải nghĩa sai về toán học. Quan điểm này không xét toàn diện cấu trúc và phương pháp của toán học, các sản phẩm của toán học được đạt đến qua một tập hợp suy diễn nhất quán gồm các quy trình không hề nằm trong nghĩa quy nạp, ngay cả tại thời nay hay thời của Mill.[20][23][24]

Giai đoạn hiện tượng luận của chủ nghĩa kinh nghiệm hậu-Hume đã kết thúc vào những năm 1940, vì đến thời gian đó, người ta đã thấy rõ ràng rằng các phát biểu về các sự vật vật lý không thể được chuyển dịch thành các phát biểu về các dữ liệu giác quan thực tế và có thể.[25] Nếu một phát biểu về một đối tượng vật lý có thể chuyển được thành một phát biểu dữ liệu giác quan, phát biểu đầu ít nhất phải suy ra được từ phát biểu sau. Nhưng người ta đã nhận ra rằng không tồn lại một tập hữu hạn gồm các phát biểu về dữ liệu cảm giác có thể và thực tế mà từ đó ta có thể suy ra thậm chỉ một phát biểu về đối tượng vật lý. Ghi nhớ rằng việc dịch và diễn đạt lại phát biểu phải được diễn đạt bằng các quan sát viên ở tình trạng bình thường trong các điều kiện quan sát bình thường. Tuy nhiên, không có một tập hợp hữu hạn gồm các phát biểu được diễn đạt theo kiểu thuần túy giác quan mà tập hợp này có thể thỏa mãn điều kiện về sự có mặt của một quan sát viên thường. Theo hiện tượng luận, để nói rằng có mặt một quan sát viên bình thường có nghĩa đặt một phát biểu giả thuyết rằng có một bác sĩ kiểm tra quan sát viên đó, và người bác sĩ thấy rằng quan sát viên đó ở tình trạng bình thường. Nhưng tất nhiên, chính người bác sĩ đó phải là một quan sát viên bình thường. Nếu ta cần chỉ rõ tình trạng bình thường của người bác sĩ này theo kiểu giác quan, ta phải viện đến một bác sĩ thứ hai, người kiểm tra các cơ quan cảm giác của bác sĩ thứ nhất, và bác sỹ thứ hai này cũng chính là một quan sát viên phải thỏa mãn điều kiện là đang ở tình trạng bình thường. Nghĩa là ta phải viện đến bác sĩ thứ ba, và cứ như vậy.[26][27]

[sửa] Chủ nghĩa kinh nghiệm lôgic

Xem chi tiết: Logical positivism

Vào đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa kinh nghiệm lôgic (còn gọi là chủ nghĩa chứng thực lôgic (logical positivism) hay chủ nghĩa chứng thực mới (neopositivism)) là một cố gắng để tổng hợp các tư tưởng cốt lỗi của chủ nghĩa kinh nghiệm Anh (ví dụ, nhấn mạnh vào trải nghiệm giác quan như là nền tảng của tri thức) với một số hiểu biết từ ngành lôgic toán học do Gottlob Frege và Ludwig Wittgenstein phát triển. Một số nhân vật quan trọng trong phong trào này là Otto Neurath, Moritz Schlick và những người còn lại của Vienna Circle, cùng với A.J. Ayer, Rudolf Carnap và Hans Reichenbach.

Bertrand Russell
Phóng lớn
Bertrand Russell

Các nhà chứng thực mới có chung một quan niệm rằng triết học là sự làm trong sáng về khái niệm của các phương pháp, hiểu biết và các phát kiến của khoa học. They saw in the logical symbolism elaborated by Frege (d. 1925) and Bertrand Russell (1872-1970) a powerful instrument which could be used to rationally reconstruct all scientific discourse into an ideal, logically perfect, language which would be free of the ambiguities and deformations of natural language which gave rise to what they saw as metaphysical pseudoproblems and other conceptual confusions. By combining Frege's thesis that all mathematical truths are logical with the early Wittgenstein's idea that all logical truths are mere linguistic tautologies, they arrived at a two-fold classification of all propositions: the analytic (a priori) and the synthetic (a posteriori).[28] On this basis, they formulated a strong principle of demarcation between sentences which have sense and those which do not: the so-called verification principle. Any sentence which is not purely logical or for which there is no method of verification was to be considered devoid of meaning. As a result, most metaphysical, ethical, aesthetic and other traditional philosophical problems came to be considered pseudoproblems.[29]

The extreme empiricism of the neopositivists was expressed, at least before the 1930s, in the idea that any genuinely synthetic assertion must be reducible to an ultimate assertion (or set of ultimate assertions) which expresses direct observations or perceptions. In later years, Carnap and Neurath abandoned this sort of phenomenalism in favor of a rational reconstruction of knowledge into the language of an objective spatio-temporal physics. That is, instead of translating sentences about physical objects into sense-data, such sentences were to be translated into so-called protocol sentences, for example, "X at location Y and at time T observes such and such."[30] The central theses of logical positivism (verificationism, the analytic-synthetic distinction, reductionism, etc.) came under sharp attack after World War 2 by thinkers such as Nelson Goodman, W.V. Quine, Hilary Putnam, Karl Popper, and Richard Rorty. By the late 1960's, it had become evident to most philosophers that the movement had pretty much run its course, though its influence is still significant among contemporary analytic philosophers such as Michael Dummett and other anti-realists.

[sửa] Integration of empiricism and rationalism

In the late 19th Century and early 20th Century several forms of pragmatic philosophy arose. The ideas of pragmatism, in its various forms, developed mainly from discussions that took place while Charles Sanders Peirce and William James were both at Harvard in the 1870's. James popularized the term "pragmatism", giving Peirce full credit for its patrimony, but Peirce later demurred from the tangents that the movement was taking, and redubbed what he regarded as the original idea with the name of "pragmaticism". Along with its pragmatic theory of truth, this perspective integrates the basic insights of empirical (experience-based) and rational (concept-based) thinking.

Charles Sanders Peirce
Phóng lớn
Charles Sanders Peirce

Charles Peirce (1839–1914) was highly influential in laying the groundwork for today's empirical scientific method. Although Peirce severely criticized many elements of Descartes' peculiar brand of rationalism, he did not reject rationalism outright. Indeed, he concurred with the main ideas of rationalism, most importantly the idea that rational concepts can be meaningful and the idea that rational concepts necessarily go beyond the data given by empirical observation. In later years he even emphasized the concept-driven side of the then ongoing debate between strict empiricism and strict rationalism, in part to counterbalance the excesses to which some of his cohorts had taken pragmatism under the "data-driven" strict-empiricist view. Among Peirce's major contributions was to place inductive reasoning and deductive reasoning in a complementary rather than competitive mode, the latter of which had been the primary trend among the educated since David Hume wrote a century before. To this, Peirce added the concept of abductive reasoning. The combined three forms of reasoning serve as a primary conceptual foundation for the empirically based scientific method today. Peirce's approach "presupposes that (1) the objects of knowledge are real things, (2) the characters (properties) of real things do not depend on our perceptions of them, and (3) everyone who has sufficient experience of real things will agree on the truth about them. According to Peirce's doctrine of fallibilism, the conclusions of science are always tentative. The rationality of the scientific method does not depend on the certainty of its conclusions, but on its self-corrective character: by continued application of the method science can detect and correct its own mistakes, and thus eventually lead to the discovery of truth".[31]

In his Harvard "Lectures on Pragmatism" (1903), Peirce enumerated what he called the "three cotary propositions of pragmatism" (L: cos, cotis whetstone), saying that they "put the edge on the maxim of pragmatism". First among these he listed the peripatetic-thomist observation mentioned above, but he further observed that this link between sensory perception and intellectual conception is a two-way street. That is, it can be taken to say that whatever we find in the intellect is also incipiently in the senses. Hence, if theories are theory-laden then so are the senses, and perception itself can be seen as a species of abductive inference, its difference being that it is beyond control and hence beyond critique — in a word, incorrigible. This in no way conflicts with the fallibility and revisability of scientific concepts, since it is only the immediate percept in its unique individuality or "thisness" — what the Scholastics called its haecceity — that stands beyond control and correction. Scientific concepts, on the other hand, are general in nature, and transient sensations do in another sense find correction within them. This notion of perception as abduction has received periodic revivals in artificial intelligence and cognitive science research, most recently for instance with the work of Irvin Rock on indirect perception.[32][33]

William James
Phóng lớn
William James

Around the beginning of the 20th Century, William James (1842-1910) coined the term "radical empiricism" to describe an offshoot of his form of pragmatism, which he argued could be dealt with separately from his pragmatism - though in fact the two concepts are intertwined in James's published lectures. James maintained that the empirically observed "directly apprehended universe, requires no extraneous trans-empirical connective support",[34] by which he meant to rule out the perception that there can be any value added by seeking supernatural explanations for natural phenomena. James's "radical empricism" is thus not radical in the context of the term "empiricism", but is instead fairly consistent with the modern use of the term "empirical". (His method of argument in arriving at this view, however, still readily encounters debate within philosophy even today.)

John Dewey (1859-1952) modified James' pragmatism to form a theory known as instrumentalism. The role of sense experience in Dewey's theory is crucial, in that he saw experience as unified totality of things through which everything else is interrelated. Dewey's basic thought, in accordance with empiricism was that reality is determined by past experience. Therefore, humans adapt their past experiences of things to perform experiments upon and test the pragmatic values of such experience. The value of such experience is measured by scientific instruments, and the results of such measurements generate ideas which serve as instruments for future experimentation.[35] Thus, ideas in Dewey's system retain their empiricist flavour in that they are only known a posteriori.



[sửa] Chú thích

  1. Keeton, Morris T. (1962), "Empiricism", pp. 89–90 in Dagobert D. Runes (ed.), Dictionary of Philosophy, Littlefield, Adams, and Company, Totowa, NJ.
  2. Markie, P. (2004), "Rationalism vs. Empiricism" in Edward D. Zalta (ed.), Stanford Encyclopedia of Philosophy, Eprint.
  3. As in discussing most philosophical terms that end in "ism", it is necessary to distinguish heuristic or inclusive variants of empiricism from dogmatic or reductive variants of empiricism. [cần chú thích] The first says simply that a specific aspect of things is necessary to a competent worldview and is frequently worth concerted attention. The second says more controversially that a specific aspect of things is sufficient to a competent worldview and all other aspects can either be eliminated from consideration or else reduced to the focal aspect. [cần chú thích]}}
  4. Từ Sophist thời đó vốn có nghĩa "người yêu sự thông thái", nhưng sau thời Plato, từ này dần chuyển sang nghĩa "người ngụy biện"
  5. Encyclopedia Britannica, "Empiricism", vol. 4, p. 480.
  6. Plato thực ra đã tranh luận trong Protagoras rằng các nhà Sophist đã khá là phi-kinh nghiệm trong định hướng của họ, ông coi họ là những người coi trọng ngữ nghĩa và vẻ bề ngoài của các luận cứ của họ hơn là những điểm cốt yếu và sự thẩm tra không thiên vị trong các luận cứ đó.
  7. Macmillan Encyclopedia of Philosophy (1969), "Development of Aristotle's Thought", vol. 1, p. 153ff.
  8. Aristotle: Posterior Analytics
  9. Sorabji, R. (1972), Aristotle on Memory.
  10. Solomon, Robert C., and Higgins, Kathleen M. (1996), A Short History of Philosophy, pp. 68-74.
  11. Aristotle: De Anima, 3.8
  12. 12,0 12,1 Leftow, Brian (ed., 2006), Aquinas: Summa Theologiae, Questions on God, pp. vii et seq.
  13. Macmillan Encyclopedia of Philosophy (1969), "Thomas Aquinas", subsection on "Theory of Knowledge", vol. 8, pp. 106–107.
  14. Macmillan Encyclopedia of Philosophy (1969), "George Berkeley", vol. 1, p. 297.
  15. Macmillan Encyclopedia of Philosophy (1969), "Empiricism", vol. 2, p. 503.
  16. 16,0 16,1 16,2 Hume, D. "An Enquiry Concerning Human Understanding", in Enquiries Concerning the Human Understanding and Concerning the Principles of Morals, 2nd edition, L.A. Selby-Bigge (ed.), Oxford University Press, Oxford, UK, 1902. (Orig. 1748).
  17. Morick, H. (1980), Challenges to Empiricism, Hackett Publishing, Indianapolis, IN.
  18. Marconi, D (2004), "Fenomenismo"', in Gianni Vattimo and Gaetano Chiurazzi (eds.), L'Enciclopedia Garzanti di Filosofia, 3rd edition, Garzanti, Milan, Italy.
  19. Mill, J.S., "An Examination of Sir William Rowan Hamilton's Philosophy", in A.J. Ayer and Ramond Winch (eds.), British Empirical Philosophers, Simon and Schuster, New York, NY, 1968.
  20. 20,0 20,1 20,2 Macmillan Encyclopedia of Philosophy (1969), "Empiricism", vol. 2, p. 503.
  21. Wilson, Fred (2005), "John Stuart Mill", in Edward N. Zalta (ed.), Stanford Encyclopedia of Philosophy.
  22. 22,0 22,1 Macmillan Encyclopedia of Philosophy (1969), "Phenomenalism", vol. 6, p. 131.
  23. Macmillan Encyclopedia of Philosophy (1969), "Phenomenalism", vol. 6, p. 131.
  24. Macmillan Encyclopedia of Philosophy (1969), "Axiomatic Method", vol. 5, p.188-189, 191ff.
  25. Bolender, John (1998), "Factual Phenomenalism: A Supervenience Theory"', SORITES, no. 9, pp. 16–31.
  26. Berlin, Isaiah (2004), The Refutation of Phenomenalism, Isaiah Berlin Virtual Library.
  27. Chisolm, R. (1948), "The Problem of Empiricism", Journal of Philosophy 45, 512–517.
  28. Achinstein, Peter, and Barker, Stephen F. (1969), The Legacy of Logical Positivism: Studies in the Philosophy of Science, Johns Hopkins University Press, Baltimore, MD.
  29. Barone, Francesco (1986), Il neopositivismo logico, Laterza, Roma Bari.
  30. Rescher, Nicholas (1985), The Heritage of Logical Positivism, University Press of America, Lanham, MD.
  31. Ward, Teddy (n.d.), "Empiricism", Eprint.
  32. Rock, Irvin (1983), The Logic of Perception, MIT Press, Cambridge, MA.
  33. Rock, Irvin, (1997) Indirect Perception, MIT Press, Cambridge, MA.
  34. James, William (1911), The Meaning of Truth.
  35. Dewey, John (1906), Studies in Logical Theory.

[sửa] Liên kết ngoài