Vo thuat

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tìm hiểu về Võ học Việt và sự thăng trầm của dân tộc trong thời kỳ Bắc thuộc


Thuở xưa, việc rèn luyện võ thuật để tự vệ, phòng bị bảo vệ quê hương nòi giống và sự an nguy của gia đình và xã hội đã trải qua các triều đại của lịch sử Việt Nam . Ngày nay học võ là để rèn luyện thân tâm, ý chí, còn để trao dồi sức khoẻ và tự vệ với một tinh thần minh mẫn trong một thân thể khoẻ mạnh. Dù vậy thời ấy, cái quan niệm trọng văn khinh võ vẫn còn tồn tại, được phản ảnh qua câu ca dao:

Văn thời cửu phẩm đã sang,

Võ thời tứ phẩm còn mang gươm hầu

Võ học bắt nguồn sâu xa từ bản năng sinh tồn, tự vệ chiến đấu với nghịch cảnh thiên nhiên, thú rừng và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Từ đó phát sinh ra những phương cách tự vệ, chiến đấu căn bản của loài người trong thời sơ khai. Lúc đầu dùng những phương tiện thô sơ bằng xương, bằng đá, bằng nhánh cây.

Khi xưa, Tổ Lạc Việt đã lập quốc vào thời kỳ kim khí, xã hội trống đồng là xã hội của một cộng đồng đã tương đối được ổn định về phương diện vật chất lẫn tinh thần, với ngành luyện kim phát triển rất sớm, với quan niệm về thẩm mỹ khá cao… tổ tiên ta đã biết biến chế kim loại thành các dụng cụ binh khí sắc bén như: riù đồng, trống đồng, côn đồng có vẽ hoặc chạm trổ những mỹ thuật phản ảnh phần nào những sinh hoạt văn minh thời đó và những dụng cụ dao, búa, cào bằng sắt thật đẹp.

Năm 257-207 BC (trước Tây lịch) , vua Hùng Vương thứ 18 bị Thục Phán An Dương Vương cứớp ngôi và đổi tên nước Văn Lang thành nưóc Âu Lạc. Lãnh thổ nước ta dưới thời Thục Phán đã mở rộng lên phía Bắc gồm một phần đất Tượng Quận của Quảng Tây. Hiện nay tại tỉnh Phúc Yên Bắc Việt vẫn còn di tích thành Cổ Loa đã được xây dựng dưới thời An Dương Vương, một công trình xây cất mang những nét đặc thù cổ kín và quân sự.

Cuối đời Hùng-vương, ở huyện Từ-liêm, quận Giao-chỉ có một người tên là Lý-Thân, thân hình to lớn và mạnh khỏe khác thường. Có lần thấy hai con trâu đực đang húc nhau, Lý-Thân nhảy vào giữa dùng hai tay, mỗi tay nắm một sừng con trâu mà kéo ra thật xa ... Ông lại là người lịch thiệp uyên bác. Đến đời An-dương-vương, Tần Thủy-Hoàng muốn xâm chiếm nước Âu-lạc. An-dương-vương phải cho Lý-Thân sang Tàu cầu hòa. Thấy Lý-Thân to lớn khỏe mạnh, thông minh lại rất tài giỏi võ nghệ, Vua Tần cho đấu với các vệ-sĩ thì Lý-Thân đã lần lượt vật ngã mọi người ... Tần Thủy-Hoàng mừng lắm, giữ Lý-Thân lại để cho ra trấn giữ vùng đất Lâm-thao. Như tài năng, sức mạnh và thân hình cao lớn , Lý-Thân đã khiến cho bọn Hung-nô phương Bắc khiếp sợ không dám quấy nhiểu. Vua Tần phong cho Lý-Thân làm Vạn-tín-hầu. Sau đó Lý-Thân nhớ nhà nên xin trở về nước Âu-lạc. Vắng bóng Lý-Thân, Hung-nô lại kéo đến quấy nhiểu bờ cõi nhà Tần. Tần Thủy-Hoàng liền cho người sang mời Lý-Thân nhưng kỳ này Lý-Thân không muốn sang Tàu nữa. An-Dương-vương phải trả lời là Lý-Thân đã chết. Vua Tần thương tiếc, cho đúc tượng Lý-Thân bằng đồng và ban hiệu là Lý-Ông-Trọng. Khi đẩy tượng này ra biên-ải, Hung-nô trông thấy tượng, cho là Lý-Thân còn sống nên rút quân về, ... Thế là tượng của Lý-Ông-Trọng đã giúp Vua Tần đuổi được Hung-nô cho tới khi nhà Tần bị nhà Hán chấm dứt.

Sau khi Triệu Đà là một quan uý ở Quận Nam Hải, đã dùng mưu cho con trai là Trọng Thủy sánh duyên cùng Mỵ Châu con gái cuả An Dương Vương, đã đánh tráo nỏ Thần Kim Qui và đem quân sang đánh An Dương Vương cướp được ngôi. Rồi sáp nhập Nam Hải và Hợp Phối (Quảng Đông ngày nay) vào Âu Lạc lập nên một nước tự chủ và đặt tên nước là Nam Việt. Trị vì truyền ngôi được 5 đời cho đến năm 111 BC trước Tây lịch, nhà Hán bên Tàu đem quân đánh chiếm Nam Việt, cải tên nước Nam Việt thành Giao Chỉ Bộ (Giao Châu) đặt quan cai trị như là một quận của nước Trung Hoa. Nước ta đã lâm vào cảnh ngoại thuộc. Đến năm 40 AD (sau Tây lịch), bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị đứng lên khởi nghĩa chiêu mộ binh sĩ, luyện tập võ nghệ cho các nghĩa binh, được sự tham gia của các nữ Tướng Bát Nàn công chúa là người làng Tiên La huyện Duyên Hà (tỉnh Thái Bình Bắc Việt), cùng chồng là Lạc Tướng Trương Quán phất cờ khởi nghĩa chống ngoại xâm, sau khi chồng bị giết ở Duyên Hà, Bà đã theo 2 bà Trưng lập nhiều chiến công oanh liệt. Thánh Thiên công chúa được phong làm Bình Tây Đại Tướng vì lập được nhiều công trận, bà Lê Chân là Tiên Phong Nữ Tướng Quân bà đem quân đánh Tô Định, lập nhiều chiến công. Bà Hoàng Thiếu Hoa đã xuất gia đầu Phật nhưng không thể ngồi yên trong khi giặc Đông Hán đày đọa dân ta. Bà hoàn tục theo 2 bà Trưng đánh đuổi giặc lập được nhiều công trận. Đã thể hiện sáng ngời tinh thần bi, trí, dũng của nhà Phật... , quân nhà Hán đã nhiều lần giáp chiến với Bà đã phải khiếp sợ tôn gọi Bà là Phật Nguyệt. Hiện nay những bài Thảo vẫn còn lưu truyền trong võ học Tây Sơn như Bát Nàn Kiếm Pháp, Nhụy Kiều Kiếm Pháp, Trưng Vương Kiếm Pháp ...

"Trưng Trắc là người can đảm, hùng dũng" (lời thừa nhận của bộ chính sử chép về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào loại cổ nhất của Trung Quốc) đã cùng em gái đứng đầu cuộc khởi nghĩa liên kết được sức mạnh toàn dân (trong đó có đông đảo phụ nữ, như các nữ tướng: Thánh Thiên, Lê Chân, Bát Nàn, Thiếu Hoa...) và toàn quốc (không chỉ gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là miền đất Việt Nam ngày nay, từ nam Trung Bộ trở ra, mà cả đất Hợp Phố bây giờ là nam Quảng Đông - Trung Quốc).

Chỉ trong một thời gian ngắn, hai bà Trưng đã đánh đuổi quan quân Thái Thú Tô Định chạy về Tàu, chiếm lại được 65 thành trì, giành lại sự độc lập, giải phóng cho nước nhà thoát khỏi ác đô hộ của họ, đã viết trang sử oai hùng của người phụ nữ Việt và dân tộc Việt. Bà Trưng Trắc lên ngôi vua xưng là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh (huyện Yên Lăng tỉnh Phúc Yên nước ta), chấm dứt 150 năm Bắc thuộc. Năm 41 sau Tây lịch, tướng Tàu là Mã Diện đem quân sang đánh nước ta. Trưng Nhị là Bình Khôi Tướng Quân cầm quân chống trả mãnh liệt với giặc ở Lãnh Bạc (Hồ Tây Hà Nội), nhưng dần dần yếu thế, phải lui quân về Cấm Khê (tỉnh Vĩnh Yên), quân ta thua to Trưng Nữ Vương phải bỏ Cấm Khê lui quân về Hát Giang thì cùng đường. Bà cùng em là Trưng Nhị gieo mìmh xuống sông Hát tự vận ngày 6 tháng 2 năm Quý Mảo (năm 43 AD). Dân tộc ta lại bị nô lệ lần thứ 2. Sự sống còn của một dân tộc là do người dân sống trong nước có ý thức được trách nhiệm của mình, thể hiện qua 2 câu:

Quốc Gia hưng vong,

Thất phu hưũ trách

Kẻ tầm thường cũng phải có trách nhiệm khi nước nhà lâm nguy, huống chi là kẻ sĩ, sĩ phu được coi như là giới ưu thời mẫn thế lại càng phải làm gương cho mọi người noi theo.

Đến năm 248 AD, nước ta khi đó vẫn bị cảnh lệ thuộc vào nhà Đông Ngô, thời Tam Quốc của nước Tàu. Noi gương hai bà Trưng, bà Triệu Trinh Nương từ thuở nhỏ đã tỏ ra là một cô gái có sức mạnh và có ý chí kiên cường. Năm 20 tuổi, Bà đã vào rừng sâu chiêu mộ hàng ngàn tráng sĩ rèn luyện võ nghệ. Ông Triệu Quốc Đạt thấy em làm chuyện khác thường mới đem lời khuyên can, bà khẳng khái trả trả lời : "Ta muốn cởi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cỏi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chớ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp cho người ta". Rồi cùng anh là Triệu Quốc Đạt đứng lên khởi nghiã, bà cởi voi mặc giáp vàng cùng ngàn nghĩa binh đứng lên đánh đuổi Thái Thú Lục Dận thống trị tại quận Cửu Chân. Trong chiến trận , Triệu Trinh Nương tỏ ra can đảm phi thường, được quân sĩ tôn bà là "Nhụy Kiều Tướng quân". Danh tiếng của bà vang vậy khắp cỏi Giao Châu, một loại võ công đến nay ít được nghe nói tới. Đó là võ công "Giao Châu Hổ hống" là công phu "Cọp rống" tối thượng trong võ thuật An Nam. Trong Hiệp khí thuật có phương pháp kết hợp khí học và tinh thần để phát huy sức mạnh, kể cả sức mạnh âm thanh như tiếng hét Kiai, và kiếm pháp của bà vẫn còn được lưu truyền là bài thảo bộ Nhụy Kiều Kiếm Pháp trong võ học Tây Sơn đã chân quý giữ gìn. Quân Tàu đã nhiều lần khiếp đảm gọi bà Triệu là " Lệ Hải Bà Vương" và truyền với nhau 2 câu thơ:

Hoành qua đương hổ vị

Đối diện Bà Vương nan.

nghĩa là:

Múa dáo đánh cọp dễ

Đối địch với Vua Bà thật khó.

Năm 248, đánh nhau với giặc gần nữa năm trời, quân Bà yếu dần phải thua. Bà đem binh chạy về xã Bồ Điền, thuộc huyện Mỹ Hóa, nhắm thế cự không nổi nữa nên tự sát. Năm ấy bà mới 23 tuổi. Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là đền thờ chính của Bà Triệu. Hội đền hằng năm ngày trước vào ngày 21 tháng hai âm lịch.

Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.

Tùng Sơn nắng quyện mây trời,

Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.

(thơ ca dân gian)

Nước ta đã bị đô hộ hơn 600 năm. Vào năm 541, không thể ngồi nhìn nhân dân khổ sở dưới ách thống trị cuả quân Tàu dưới thời vua Lương Vũ Đế. Lý Bôn (còn gọi là Lý Bí) liền hô hào kết nạp người nghĩa dũng nỗi lên đánh đuổi giặc ngọai xâm, rồi chiếm giữ được thành Long Biên dành lại nền tự chủ cho dân tộc. Đặt tên nước là Vạn Xuân, xưng hiệu là Lý Nam Đế dựng nên nghiệp nhà Tiền Lý. Từ đó vua sửa sang lại việc nước có thể xây dựng lâu bền. Bốn năm sau, quân Tàu lại tràn sang đánh nước ta. Lý Nam Đế đem quân chống đở cả thua, phải bỏ thành Long Biên. Giặc tiến binh đánh đuổi, vua Nam Đế nhắm cự không nổi, bèn trao binh quyền cho tướng tâm phúc là Triệu Quang Phục tiếp tục chống giặc, còn Vua rút quân về Khuất Liêu, thuộc Hưng Hóa. Tại đây, vua Nam Đế măc bệnh và từ trần vào năm 548.

Năm 545, được Tiền Lý Nam Đế chọn giao binh quyền, Triệu Quang Phục thấy thế giặc quá mạnh, bèn rút quân về Dạ Trạch (thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên), là một nơi đồng lầy hiểm trở, dùng chiến thuật du kích đánh đuổi giặc xâm lăng. Tại đây, một mặt ông rèn luyện binh sĩ, tích trữ lương thực vũ khí, một mặt chờ lúc đêm tối, ông cho từng cánh tung đánh nhiều nơi, vừa gây gối tiêu hao địch, vưà cướp lấy lương thực của giặc về Dạ Trạch tính kế tiến thủ. Những cuộc đột kích bất ngờ của quân nghĩa dũng đầm Dạ Trạch khiến giặc nhiều phen thất đảm kinh hồn. Giặc nhiều lần đem đại binh đến vây đánh nhưng lần nào cũng bị thất bại. Người đời gọi ông là Dạ Trạch Vương. Sau một năm trú ẩn trong vùng đồng lầy, thế lực đã vững chãi hùng mạnh, cùng lúc nước Tàu rối loạn, Triệu Quang Phục bèn dốc hết lực lượng từ đầm Dạ Trạch tiến ra, thế lớn như chẻ tre, đánh đâu thắng đó. Lúc này Lý Nam Đế đã mất, Triệu Quang Phục lên thay, xưng là Triệu Việt Vương. Chẳng bao lâu, Việt Vương đã chiếm lại được thành Long Biên, đuổi hết giặc về phương Bắc. "Nền tự chủ từ đó lại trở lại với dân tộc"

Vào thế kỷ thứ 2, Thiền sư Sonna và thiền sư Utara từ Ấn Độ tới Nam Việt bằng đường biển qua vịnh Thái Lan và truyền bá Phật giáo trong nhiều vùng phiá Nam vào thế kỷ thứ 2.

- Năm 189 sau Tây lịch, sau khi vua Hán Linh Đế mất nước Trung Hoa có nhiều loạn lạc. Các vị đạo sĩ đến lánh nạn đã giới thiệu đạo Khổng và Lão.

- Các vị thiền sư từ Ấn Độ sang đất Giao Châu (Bắc Việt Nam) để truyền bá đạo Phật, hoặc có một số ghé ngang qua Giao Châu, trước khi sang Tàu vào thế kỷ thứ 3. Trong số các vị thiền sư Ấn Độ được ghi nhận như Tche-Kiang Leang (Chí Cương Lương), K'ang Seng Houei (Khương Tăng Hội), Marjivaka ha La Jivaha (Ma Ha Kỳ Vực) ...

Vào năm 247, vua Ngô Tôn Quyền thấy ngài Khương Tăng Hội thi triển nhiều phép lạ đem lòng kính phục và xây chùa ở thành Kiến Nghiệp (Nam Kinh bây giờ) để ngài tu trì và giảng dạy Phật học. Theo sách Cao Tăng truyện có ghi: "Ông Ma Ha Kỳ Vực gốc ở Ấn Độ, đi du lịch các nước, đến Founan theo đường Giao Châu và Quảng Châu (Bắc Việt và Quảng Đông bây giờ), đến đâu ngài cũng đều làm phép lạ. Khi đến Tương Dương người lái đò thấy ngài áo quần rách rưới không cho xuống. Nhưng đến khi đò ngang cập bến, mọi người đều lấy làm lạ vì thấy ngài đã ở bên này sông rồi."

Ngoài với việc truyền bá các tôn giáo đạo Phật, Lão, Khổng vào Việt Nam. Các thiền sư, đạo sĩ đến nước ta từ Ấn Độ và Trung Hoa bằng hai con đường thủy và đường bộ, cũng chỉ giới thiệu các phương pháp thể dục dưỡng sinh, thổ nạp chân khí trong phạm vi giới hạn của nhà chùa, tại Giao Châu (Bắc Việt Nam) mà thôi. Vào thời kỳ này, mặc dù võ học cũng được các vị thiền sư, đạo sĩ mang đến nhưng vẫn chưa phổ biến trong dân gian.

Đến năm 557, con cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đem quân tranh quyền với Triệu Việt Vương. Vương giảng hòa và gả con gái cho Lý Phật Tử, rồi lại chia đất cùng cai trị. Nhưng năm 571, Lý Phật Tử lại bất thần đem quân đánh úp. Triệu Việt Vương thua trận phải nhảy xuống sông tự vận. Lý Phật Tử lên làm vua (sử gọi là Hậu Lý Nam Đế) từ năm 571 - 602 thì xin đầu hàng nhà Tùy bên Tàu, làm đất nước ta lại lâm vào cảnh Bắc thuộc lần nữa.

Mãi đến năm 580, vị thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) từ Tây Trúc đã chánh thức mang đến Việt Nam ngành đạo thiền tông đầu tiên ở Việt Nam, tại chùa Pháp Vân nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, truyền được 19 đời (580-1216). Đến năm 820, vị sư Trung Hoa là ngài Vô Ngôn Thông đến chúa Kiến Sơ (Bắc Ninh) lập nên thiền phái thứ hai, truyền được 14 đời (820-1221). Kể từ đó, có thêm các môn võ lâm cổ truyền từ Ấn Độ (Kalari payat), cũng như các môn Thiếu Lâm (nam phái và bắc phái) của ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Trung Hoa, bắt đầu xuất hiện phổ biến tại Việt Nam.


Thanh Tong

Những tài liệu tham khảo:

1- Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim

2- Lịch sử Võ học Việt Nam cuả GS. Vũ Đức

3- Anh hùng nước tôi - Đông Tiến xuất bản

4- Tìm về nguồn võ học Tây Sơn - Thiện Y cư sĩ

5- Võ học Bình Định của Đào Đức Chương

6- Võ Tây Sơn Bình Định - GS. Hồ Bửu.