Xe tăng T-80

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Xe tăng T-80 năm 1991
Phóng lớn
Xe tăng T-80 năm 1991

Xe tăng chiến đấu chính T-80 được đưa vào sản xuất từ cuối thập kỷ 1970. KBTM vùng Omsk, Liên bang Nga, sản xuất T-80 để sử dụng trong bộ binh và các đơn vị tăng và xe chỉ huy T-80UK và XKBM, nhà máy tại Kharkov, Ukraina, sản xuất loại T-80UD và loại T-84. 320 chiếc T-80UD đã được Pakistan đặt hàng từ Ukraina, và đang được chuyển giao. Tháng 8 năm 2002, có thông báo rằng Hàn Quốc đang mua một số tăng T-80 từ Nga.

Mục lục

[sửa] Vũ khí

Xe tăng T-80U được trang bị hệ thống tên lửa có điều khiển chống tăng 9M119 (NATO gọi là AT-11 Sniper) được bắn bằng súng chính. Tầm hoạt động của tên lửa từ 100 đến 4,000m. Hệ thống được thiết kế để chống lại các xe tăng có trang bị ERA (Lớp bảo vệ nổ phản ứng) cũng như các mục tiêu bay thấp như máy bay trực thăng, trong phạm vi lên đến 5km. Hệ thống tên lửa bắn ra cả hai loại tên lửa 9M119 hay 9M119M missiles, có hướng dẫn bán tự động bằng chùm laser. Xe tăng có một súng tự động nòng trơn 125mm 2A46M-1 với ống bọc cách nhiệt bên ngoài, có thể bắn từ 6 đến 8 viên/phút. Nạp đạn thuỷ cơ học với băng đạn 28 viên. Trong xe có 45 viên đạn. Súng bắn ra những vật rời được nạp riêng biệt có vỏ dễ bắt lửa case and sabot. (The gun fires separate loading projectiles which have semi-combustible cartridge case and sabot.) Đạn có thể là AP (Armour Piercing - Xuyên vỏ giáp), APDS (Armour Piercing Discarding Sabot), HEAT (High Explosive Anti-Tank - Chống tăng sức nổ lớn) và HE-FRAG (High Explosive-Fragmentation - Sức nổ lớn - Mảnh). Vũ khí còn gồm một súng máy đồng trục 7.62mm PKT và một súng phòng không 12.7mm Utes (NSVT-12.7).

[sửa] Bảo vệ

Xe tăng được bảo vệ bởi một hệ thống hỗn hợp bảo vệ nổ phản ứng (ERA) ở phía trước và các thanh vỏ giáp kiểu yếm xung quanh. Các biện pháp đối phó khác còn gồm chế độ chạy ít tiếng ồn và động cơ gas-turbine chạy nhiên liệu không khói, hệ thống cách nhiệt bên trên và bên dưới đã được cải tiến, thông gió cho hệ thống truyền động động cơ, hệ thống làm mát, hệ thống phun khói và quạt khói.

[sửa] Hệ thống kiểm soát bắn và quan sát

Hệ thống kiểm soát bắn và quan sát của xe là loại 1A42 gồm hệ thống computer dẫn đường 1V517, hai hệ thống ổn định vũ khí thuỷ điện hai trục, ống ngắm tầm xa được ổn định trên hai trục cũng như một dụng cụ chỉ thị góc phương vị GPK-59 hydro-semicompass và một dụng cụ chỉ thị góc phương vị cho sự quay của tháp pháo. Hệ thống này cho phép bắn khi đang chuyển động. Pháo thủ được trang bị ống ngắm ban ngày 1G46 và ống ngắm hồng ngoại.

[sửa] Động cơ

Động cơ gas turbine của T-80U là loại GTD-1250 sản sinh ra 920 kW (1,250hp). GTD-1250 là động cơ ba trục với hai tầng nén khí. Có một động cơ GTA-18 phụ trợ độc lập khác dùng khi xe tăng đứng yên. Xe tăng có một hệ thống truyền lực kiểu hành tinh với hệ thống dẫn nước phụ (hydraulic servo-system) để tăng tính cơ động. Xích và hệ thống treo được trang bị kiểu xích RMSh và các bánh xe cao su để chạy trên đường, các lò xo treo giảm xóc có hai tầng giảm chấn chất lỏng lồng vào nhau. Tốc độ tối đa của nó đạt 70km/h.

[sửa] Xe tăng chỉ huy T-80UK

Xe tăng chỉ huy T-80UK có thêm khả năng chỉ huy và kiểm soát trên chiến trường và có đường liên lạc lên cấp chỉ huy cao hơn. Nó tương tự như T-80U nhưng có một số tính năng phụ trợ. Nó được lắp bộ đối phó Shtora-1 cùng loại được lắp cho loại T-90. Shtora-1 do Electronintorg của Nga sản xuất. Hệ thống này gồm máy nhiễu âm hồng ngoại, hệ thống cảnh báo laser, hệ thống vô hiệu hoá lựu đạn và một hệ thống kiểm soát bắn computer. Tầm hoạt động 200m. Xe có một ăng ten tích hợp lưỡng cực đối xứng dùng được cho thông tin trên cả băng tần UHF và HF. Ăng ten này có tầm hoạt động tốt hơn khi xe đứng yên – lên tới 40km cho sóng vô tuyến R-163-50U và 350 km cho sóng vô tuyến R-163-50K. Một máy phát điện chạy bằng benzene AB-1-P28 1kW cung cấp năng lượng cho hệ thống thông tin khi xe đứng yên. T-80UK cũng có một hệ thống kiểm soát bắn hiện đại, nạp đạn tự động, bảo vệ tháp pháo ERA gắn liền và hỗ trợ lội nước TNA-4-3.

[sửa] T-80UM2

Phiên bản mới nhất của T-80U đang được phát triển là loại T-80UM2, nhằm mục đích có khả năng chống lại các mục tiêu khi đang dừng hay đang chuyển động. Nó có tháp pháo thép đúc liền với ERA ở trước thân và quanh tháp pháo, một hệ thống nạp đạn tự động và bố trí lại vị trí xếp đạn dược ra khung tháp pháo để tăng tỷ lệ sống sót. Các cải tiến khác gồm một hệ thống kiểm soát bắn computer, ống ngắm hình ảnh nhiệt cho chỉ huy và pháo thủ và hệ thống Antene trả đũa tích cực.