Sikhote-Alin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Sikhote-Alin (còn được viết là Sikhotae-Alin) là một dãy núi tại các krai Primorsky và Khabarovsk, Liên bang Nga, kéo dài khoảng 1.200 km về phía đông bắc của hải cảng trên bờ Thái Bình Dương thuộc Nga là Vladivostok. Chiều rộng chỗ lớn nhất đạt tới 250 km. Đỉnh cao nhất là núi Tordoki-Yangi (2.077 m).
Mục lục |
[sửa] Đặc điểm
Khu vực miền núi này được tạo ra do các nếp uốn thời kỳ Đại Trung sinh trong Vành đai nếp uốn Thái Bình Dương ở Viễn Đông Nga, là đường phân thủy lưu vực sông Amur, biển Nhật Bản và vịnh Tatar.
Cấu tạo địa hình của khu vực là các lớp trầm tích sa thạch-phiến thạch với nhiều đứt gãy, là điều kiện để tồn tại các mỏ vàng, thiếc và nhiều kim loại khác. Trong các lòng chảo kiến tạo tại khu vực Sikhote-Alin có các mỏ than đá và than nâu.
Trong khu vực giáp núi là các cao nguyên bazan. Ở phía nam và phía đông Sikhote-Alin là sơn hệ với các vách núi dốc đứng có độ cao vừa phải, ở phía tây là nhiều thung lũng và lòng chảo chạy dọc theo dãy núi.
[sửa] Động thực vật
[sửa] Thực vật
Thảm thực vật của Sikhote-Alin khá đa dạng: ở phía nam và phần trung tâm của khu vực miền núi này tới độ cao khoảng 500 m là các cánh rừng lá kim-lá bản rộng với sự chiếm ưu thế của các loài thực vật Mãn Châu, ở phần phía bắc là các rừng lá kim với vân sam (chi Picea) và linh sam (chi Abies). Trên các độ cao lớn hơn thì có thể thấy các đài nguyên núi cao.
[sửa] Động vật
Sikhote-Alin là một trong những khu vực ôn đới lạ thường nhất trên thế giới. Các loài động vật đặc trưng của rừng taiga miền bắc (chẳng hạn tuần lộc (Rangifer tarandus) và gấu nâu (Ursus arctos)) cùng sinh sống với các loài nhiệt đới, như hổ Amur (Panthera tigris altaica), báo Siberi (Panthera pardus orientalis) và gấu Himalaya. Một lượng lớn động vật hoang dã trong khu vực Sikhote-Alin và Lazo đã được thiết lập sự bảo vệ để bảo tồn cuộc sống hoang dã của chúng.
[sửa] Di sản thế giới
Năm 2001, UNESCO đã đưa Sikhote-Alin vào danh sách Di sản thế giới, đề cập tới tầm quan trọng của nó là cho "...sự tồn tại của các loài đang nguy cấp như vịt hoang Trung Quốc, cú ăn cá Blakiston và hổ Amur".
[sửa] Khác
Trong các năm từ 1910 - 1930, Sikhote-Alin đã được Vladimir Arsenyev (1872 - 1930) nghiên cứu khá kỹ lưỡng. Ông đã miêu tả các cuộc thám hiểm của mình trong một số cuốn sách, đáng chú ý là cuốn Dersu Uzala (1923), vào năm 1975 đã được Akira Kurosawa chuyển thể thành phim đoạt giải Oscar.
[sửa] Các bài liên quan
- Thiên thạch Sikhote-Alin
[sửa] Liên kết ngoài
Di sản thế giới tại Nga ![]() |
---|
Sikhote-Alin | Mũi đất Kursh (với Litva) | Tu viện Pherapontov | Dãy núi vàng Altai | Nhà thờ Kolomenskoye | Kremli, Kazan | Kizhi | Hồ Baikal | Derbent | Các tượng đài tại Novgorod (bao gồm thánh đường Sophia) | Kremli, Moskva và Quảng trường Đỏ | Tu viện Novodevichy | Sankt-Peterburg (trung tâm lịch sử) (bao gồm Pavlovsk, Petergoph và làng Tsarskoye) | Tu viện Solovetsky | Vòng cung Struve (với 9 quốc gia khác) Troitse-Sergiyeva Lavra | Uvs Nuur (với Mông Cổ) | Rừng nguyên sinh Komi | Các núi lửa Kamchatka | Tây Kavkaz |Vladimir (bao gồm nhà thờ Uspenskii, nhà thờ Pokrova trên Nerli và Cổng Vàng) và Suzdal | đảo Wrangel | Yaroslavl (trung tâm lịch sử) |