Phan Thanh Giản
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phan Thanh Giản (chữ Hán: 潘清簡;1796–1867), danh sĩ, là một đại thần triều Nguyễn. Ông tự là Tĩnh Bá, Đàm Như, hiệu là Ước Phu, Lưỡng Khê, biệt hiệu Mai Xuyên, sinh năm 1796, tại thôn An Hòa, huyện Vĩnh Bình, trấn Vĩnh Thanh, nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
[sửa] Cuộc đời
Năm 1825, ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau đó một năm, ông đậu Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mệnh thứ 7 (1826), vào năm 30 tuổi. Ông là người đậu tiến sĩ khai khoa đầu tiên ở Nam bộ.
Sau khi thi đỗ ông được bổ chức biên tu ở Hàn Lâm viện và được cử làm phó sứ sang nhà Thanh (1832). Khi trở về được thăng Đại lý tự khanh Cơ mật viện đại thần, trước sau từng giữ các chức thượng thư bộ Lễ, bộ Hình, bộ Hộ, làm Hiệp biện Đại học sĩ, làm quan trải qua 3 đời vua: Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức (từ 1826 đến 1867).
Ông tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm, được nhiều người kính phục. Ông cũng từng được cử đi sứ Trung Quốc, Indonesia, Singapore, Pháp, Tây Ban Nha.
Khi Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, năm 1862, ông cùng Lâm Duy Hiệp được cử đi sứ để điều đình với Pháp và đại diện cho triều đình Tự Đức ký kết Hòa ước Nhâm Tuất (ngày 05-06-1862) giao trọn ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Do hành động này mà dân gian có câu truyền "Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình coi thường dân chúng).
Năm 1863, ông lại được cử làm Chánh sứ (Phó sứ là Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) sang Pháp thương nghị chuộc ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhưng không có kết quả. Trở về Vĩnh Long (1867), ông thụ động để mất thành, từ đó ba tỉnh miền Tây Nam kỳ rơi tiếp vào tay giặc chỉ trong mấy ngày. Sau khi thành mất ông tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 4 tháng 8 năm 1867 tại Vĩnh Long
Phan Thanh Giản được người đời kính trọng vì tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm, không ai không kính phục. Tuy nhiên, trong cơn nước biến, thái độ chủ hòa của ông đã làm giảm giá trị của ông. Lấy lý do này, vua Tự Đức đã kết tội ông làm vùng đất Nam Kỳ bị mất và đã cho đục bỏ tên ông ở bia Tiến sĩ. Tuy nhiên, vẫn có một số trí thức tỏ lòng thương tiếc tài năng và nhân cách của ông. Nguyễn Thông đã từng dân sớ lên vua Tự Đức để giãi bày nỗi oan cho ông.
Khi sắp mất, Phan Thanh Giản có dặn con cháu, không được cộng tác với giặc Pháp và tự tay viết mấy dòng chữ trao cho người nhà: "Minh linh thỉnh tỉnh, nhược vô, ưng thư: Hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cửu" (Tấm triệu (minh linh) không cần có, nếu không thể bỏ thì chỉ nên ghi rằng: linh cữu người học trò già họ Phan ở nơi góc biển).
[sửa] Tác phẩm
Phan Thanh Giản là một nhà văn lớn với nhiều tác phẩm giá trị.
- Lương Khê thi thảo
- Lương Khê văn khảo
- Sứ thanh thi tập
- Tây phù nhật kí
- Ước Phu thi tập
- Tích Ung canh ca hội tập
- Sử trình thi tập
- Việt sử thông giám cương mục
- Minh Mạng chính yếu.
Ông còn là vị Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn trông nom biên soạn nhiều bộ sử quan trọng của Việt Nam.
Đền thờ Phan Thanh Giản hiện ở ấp Thạnh Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, Bến Tre.